Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (761 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN XUÂN NHÂN

NGUYÊN TẮC PHÂN HÓA TRÁCH NHIỆM HÌNH
SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội - 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN XUÂN NHÂN

NGUYÊN TẮC PHÂN HÓA TRÁCH NHIỆM HÌNH
SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM MINH TUYÊN

Hà Nội - 2020




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn của tôi với đề tài “Nguyên tắc phân hóa
trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bắc
Ninh” là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Các số liệu, kết quả
nghiên cứu của luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào trước đây.

Hà Nội, ngày 12 tháng 3 năm 2020
Học viên

Trần Xuân Nhân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC PHÂN
HÓA TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
PHẠM TỘI ...................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm về phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18
tuổi phạm tội ............................................................................................... 7
1.2. Căn cứ của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội ..................................................................... 12
1.3. Nội dung nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội ................................................................................ 17
1.4. Ý nghĩa nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội ................................................................................ 22
Chương 2: SỰ THỂ HIỆN NGUYÊN TẮC PHÂN HÓA TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI

TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI
TỈNH BẮC NINH.......................................................................................... 26
2.1. Sự thể hiện nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự 2015 ......................... 26
2.2. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội tại tỉnh Bắc Ninh................................... 37
Chương 3: MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC
HIỆN NGUYÊN TẮC PHÂN HÓA TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI
VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI................................................. 55
3.1. Yêu cầu bảo đảm thực hiện nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình
sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội .................................................... 55
3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc phân hóa trách nhiệm
hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ............................................ 58
KẾT LUẬN .................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 74
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 77


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
BB
Lộ
B B
L ộ
TT

TT
Nrá
NN
:g
T T

r: ra
HH
Đội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Hệ thống pháp luật và việc thực thi pháp luật ở nước ta đã có những tác
động rõ rệt đối với đời sống của toàn xã hội. Hệ thống pháp luật phục vụ cho
việc thực thi các quyền và lợi ích cơ bản của con người, của công dân, bảo vệ
Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong đó, cùng với các ngành luật
khác, pháp luật hình sự là một trong những công cụ hết sức quan trọng của
Đảng và Nhà nước ta trong việc điều chỉnh quan hệ xã hội khi phát sinh hành
vi nguy hiểm cho xã hội. Luật hình sự có vai trò bảo vệ các quan hệ xã hội,
thông qua việc trừng phạt nghiêm minh các hành vi xâm hại đến các quan hệ
xã hội, bảo vệ tối đa và toàn diện quyền con người, quyền công dân. Tội
phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực được thể hiện dưới dạng những hành
vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật hình
sự bảo vệ. Do đó, khi một người bị tuyên là có tội thì phải chịu sự trừng phạt
của pháp luật về những hành vi mà họ gây ra. Mỗi hành vi phạm tội của từng
chủ thể, các giai đoạn cụ thể, trường hợp cụ thể thường có sự khác nhau, do
đó TNHS đặt ra đối với họ cũng khác nhau. Việc nghiên cứu nguyên tắc phân
hóa TNHS đối với chủ thể là người dưới 18 tuổi được đặt ra có ý nghĩa không
chỉ về mặt lý luận mà còn cả về mặt thực tiễn áp dụng, bởi chủ thể đặc thù
trong trường hợp này là người dưới 18 tuổi – những người được coi là tương
lai của mỗi các quốc gia là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bác Hồ đã từng dạy “Vì lợi
ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người" và “Nước nhà thịnh
hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”, tương lai đất nước
“Việt Nam có được vẻ vang sánh vai với các cường quốc năm châu được hay

không chính là nhờ một phần rất lớn ở công học tập của các cháu”.

1


Trong những năm qua, tình trạng người dưới 18 tuổi phạm tội ngày
càng có chiều hướng gia tăng cả về số lượng, cũng như về tính chất nguy
hiểm của hành vi phạm tội do người dưới 18 tuổi gây ra. BLHS 2015 ra đời
với nhiều sửa đổi, bổ sung tiến bộ, được xem là một công cụ sắc bén, hữu
hiệu để đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và đối với người dưới 18
tuổi phạm tội nói riêng. Đồng thời BLHS 2015 (sửa đổi 2017) được đánh giá
là Bộ luật thể hiện rõ nhất sự thể hiện nguyên tắc phân hóa TNHS trong các
BLHS của nước ta từ trước đến nay. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng qua hơn hai
năm thi hành BLHS 2015 đã bộc lộ không ít những hạn chế, vướng mắc trong
việc áp dụng nguyên tắc phân hóa TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
trong các quy định về phân loại tội phạm, miễn trách nhiệm hình sự, quyết
định hình phạt…Những hạn chế trên chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện. Do vậy việc nghiên
cứu một cách toàn diện các vấn đề lý luận về nguyên tắc phân hóa TNHS đối
với người dưới 18 tuổi và thực tiễn áp dụng quy định này là cấp thiết. Vì vậy,
học viên xin lựa chọn đề tài: “Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài luận
văn thạc sỹ.
2. Tổng quan nghiên cứu:
Trong những năm trở lại đây, đã có một số công trình nghiên cứu khoa
học pháp lý đề cập đến nội dung nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự
trong BLHS Việt Nam. Có thể kể đến như:
Luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ: Cao Thị Oanh (2008), ”Nguyên tắc
phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam”, Luận án tiến sĩ,
Trường Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Xuân Trường (2018), “Nguyên tắc

phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp
luật hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội – Viện
2


hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam; Dương Thị Ngọc Thương (2013), Trách
nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ luật học Khoa Luật trường đại học Quốc gia Hà Nội;
Đỗ Thị Minh Phượng (2002), Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự và sự
thể hiện của nó trong Bộ luật Hình sự năm 1999, luận văn thạc sĩ luật học
trường Đại học luật Hà Nội; …
Các sách, giáo trình: Võ Khánh Vinh, Giáo trình luật hình sự phần
chung, Học viện khoa học xã hội, năm 2014; TS. Nguyễn Đức Mai, “Bình
luận khoa học Bộ luật Hình sự hiện hành (sửa đổi bổ sung năm 2017)”, Nxb.
Chính trị quốc gia Hà Nội; Đinh Văn Quế, “Bình luận khoa học Bộ luật Hình
sự năm 2015 – Phần thứ nhất: Những quy định chung”, Nxb. Thông tin và
truyền thông; …
* Các bài báo, tạp chí: Cao Thị Oanh, Hoàn thiện những quy định về
trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí luật học
năm 2007; Nguyễn Ngọc Hòa, “Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự
trong bộ luật hình sự 1999”, Tạp chí luật học năm 2000; Lê Thị Sơn, Nguyên
tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội và sự thể hiện trong Bộ luật
hình sự, Tạp chí Luật học năm 2015; Phí Thành Chung, Phân hóa trách
nhiệm hình sự của đồng phạm trong Bộ luật Hình sự năm 2015, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật Số 3/2016; Cao Thị Oanh, Biểu hiện của nguyên tắc phân
hóa trách nhiệm hình sự trong các quy định về các chế tài hình sự thuộc phần
các tội phạm, Tạp chí Nhà nước và pháp luật năm 2006…
Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống
và toàn diện các vấn đề về nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ một tỉnh cụ

thể là Bắc Ninh. Do đó luận văn đảm bảo tính mới và không trùng lặp với các
đề tài đã được công bố.
3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và
quy định thể hiện nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người
dưới 18 tuổi, trên cơ sở thực tiễn tỉnh Bắc Ninh. Từ đó đề xuất các giải pháp
bảo đảm thực hiện nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội tại tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên trên, luận văn đặt ra các nhiệm
vụ cần được giải quyết như sau:
- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận chung về nguyên tắc phân hóa
trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Phân tích sự thể hiện nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với
người dưới 18 tuổi trong một số quy định của BLHS, đánh giá tình hình áp
dụng nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, đánh giá những kết quả đạt được, những
hạn chế, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Trình bày giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc phân hóa trách
nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại tỉnh Bắc Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nguyên cứu Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội được thể hiện trong một số quy định của BLHS
như: Quy định về phân loại tội phạm, miễn trách nhiệm hình sự, thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự, quyết định hình phạt…..

4


4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích một số quy
định hiện hành thể hiện rõ nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội. Phần thực tiễn được giới hạn trong việc phân
tích thực tiễn áp dụng nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội trong quy định về quyết định hình phạt.
- Về địa bàn nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu trong giai đoạn xét
xử tại TAND tỉnh Bắc Ninh.
- Thời gian nghiên cứu: Các số liệu, kết quả, bản án thu thập trong 05
năm từ năm 2015-2019.
6. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật;
chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và
Nhà nước về nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18
tuổi phạm tội theo Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành; những luận điểm
khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết
đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự Việt Nam về trách
nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Luận văn sử dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp các phương pháp nghiên cứu cơ
bản như: thống kế, khảo sát, so sánh, thu thập, phân tích…nhằm làm sáng tỏ,
luận giải các luận văn, nội dung nghiên cứu đề tài.
7. Nội dung của Luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về nguyên tắc phân hóa trách
nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

5



Chương 2: Sự thể hiện nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội trong bộ luật hình sự 2015 và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Một số yêu cầu và giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc
phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC PHÂN HÓA TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
1.1. Khái niệm về phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới
18 tuổi phạm tội
1.1.1. Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội
Cho đến nay, trong các văn bản pháp luật Việt Nam cũng chưa có một
quy định hay định nghĩa cụ thể về người dưới 18 tuổi mà chỉ có thuật ngữ
“người chưa thành niên”. Điều 1 Công ước Quốc tế về quyền trẻ em được Đại
Hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 lại ghi “Trong phạm vi
Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi”. Như vậy, theo tinh
thần của Công ước thì vấn đề xác định độ tuổi để được coi là trẻ em tùy thuộc
vào điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tập quán của mỗi quốc gia mà
xác định, phân loại độ tuổi dưới 18 tuổi khác nhau.
Ở Việt Nam, xuất phát từ các mối quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ
nên tại Điều 21 BLDS Việt Nam quy định “Người thành niên là người từ đủ
18 tuổi trở lên; người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi”. Điều 1 Luật
trẻ em năm 2016 của Việt Nam có quy định “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”.
Chính từ quy định tùy nghi của Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà BLHS

2015 cũng đã quy định tại Điều 12 về “Tuổi chịu trách nhiệm hình sự” và
Chương XII là “Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”, trong
đó có quy định phân hóa trách nhiệm hình sự dựa trên hai mức độ chịu trách
nhiệm hình sự là “Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi” và “người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi”. Tuy chưa có khái niệm cụ thể về người dưới 18 tuổi
phạm tội, song trong thực tiễn đời sống, chúng ta đều hiểu rằng: người dưới
18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần, chưa có đầy đủ
về quyền và nghĩa vụ của công dân, chưa có khả năng nhận thức, kiểm soát
7


được suy nghĩ, hành vi của mình. Do đó, người dưới 18 tuổi dễ bị chi phối bởi
tác động bên ngoài và thực hiện các hành vi thiếu suy nghĩ chín chắn.
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu Người dưới 18 tuổi phạm tội là người
từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi đã thực hiện những hành vi nguy hiểm cho xã
hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm và phải chịu chế tài hình sự do
Tòa án áp dụng đối với họ.
1.1.2. Khái niệm trách nhiệm hình sự
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau trong việc đưa ra khái niệm
TNHS, có thể kể đến:
Theo TSKH.GS. Lê Cảm thì “TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực
hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một
hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy định”[1].
PGS.TS Nguyễn Ngọc Hoà và TS. Lê Thị Sơn thì cho rằng “TNHS là
một dạng của trách nhiệm pháp lý bao gồm nghĩa vụ phải chịu sự tác động
của hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của
TNHS (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích” 11, tr. 126;
Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học có định nghĩa “TNHS là trách
nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lí bất lợi về hành vi
phạm tội của mình”. Hiện nay, BLHS năm 2015 đã bổ sung thêm quy định

chủ thể của tội phạm ngoài cá nhân là người phạm tội thì hiện nay bao gồm cả
pháp nhân thương mại nên khái niệm TNHS cũng cần phải được hiểu đầy đủ
là trách nhiệm của người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phải chịu
những hậu quả pháp lí bất lợi về hành vi phạm tội của mình. Trách nhiệm
trong lĩnh vực pháp luật nói chung thường được hiểu theo hai nghĩa: là chức
trách, nghĩa vụ, bổn phận phải làm hoặc là hậu quả pháp lý của việc vi phạm
pháp luật.
Thuật ngữ TNHS không dùng để chỉ nghĩa vụ, bổn phận mà công dân
8


phải thực hiện với Nhà nước và xã hội mà nó phải được hiểu theo nghĩa là
hậu quả pháp lý bất lợi mà một người phải gánh chịu trước Nhà nước và xã
hội vì họ đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự hoặc
không thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật hình sự bắt buộc phải thực hiện
gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho quan hệ xã hội được luật hình
sự bảo vệ”[26; tr.126].
TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý phản ánh mối quan hệ đặc
biệt giữa Nhà nước với người phạm tội khi người đó thực hiện tội phạm. Do
vậy, để nhận thức đầy đủ và toàn diện về TNHS, việc nghiên cứu khái niệm
TNHS không chỉ dừng lại ở trách nhiệm của người phạm tội trước nhà nước
mà cần được xem xét đồng thời từ hai góc độ: thực hiện hoạt động truy cứu
TNHS từ phía Nhà nước và chịu TNHS từ phía người phạm tội”[27; tr.7].
Tuy đều là hậu quả của việc phạm tội nhưng việc thực hiện truy cứu TNHS từ
phía Nhà nước mới đưa đến kết quả phải chịu TNHS của người phạm tội.
Thực chất, TNHS chính là nội dung của mối quan hệ giữa Nhà nước và người
phạm tội phát sinh từ thời điểm tội phạm thực hiện hành vi phạm tội. Không
chỉ được điều chỉnh bởi BLHS mà mối quan hệ này còn được điều chỉnh bởi
cả luật tố tụng hình sự và pháp luật về thi hành án. Nhắc đến vấn đề TNHS
chính là nói đến hậu quả pháp lý của việc phạm tội thể hiện ở chỗ người gây

ra tội phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và Nhà nước. Hậu quả pháp lí của
việc thực hiện tội phạm đối với người phạm tội không chỉ thể hiện ở trách
nhiệm cuối cùng của người phạm tội là bị kết án và phải chịu hình phạt nhất
định mà còn thể hiện cả ở việc bị truy cứu TNHS. Như vậy, đối với người
phạm tội, chịu TNHS có nghĩa là phải chịu tất cả các hậu quả do việc phạm
tội đem lại: phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết
tội, chịu biện pháp cưỡng chế của TNHS (hình phạt, biện pháp tư pháp) và
chịu mang án tích.
Bản chất của TNHS là sự lên án của Nhà nước đối với người có lỗi khi
9


thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội
phạm, Bằng bản án kết tội, Nhà nước chính thức lên án đối với người đã có
hành vi phạm tội và trên cơ sở đó thể hiện thái độ phản ứng của mình thông
qua việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hình sự như áp dụng hình phạt,
biện pháp tư pháp. Những biện pháp cưỡng chế này có đặc điểm chung là đều
gây ra những tác động bất lợi về pháp lý đối với người phạm tội nhằm giáo
dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới.
Từ những phân tích trên, ta có thể định nghĩa: TNHS là một dạng của
trách nhiệm pháp lý đồng thời là hậu quả pháp lý bất lợi cho người thực hiện
hành vi phạm tội với nội dung bao gồm việc phải chịu sự tác động của hoạt
động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của TNHS
(hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích.
1.1.3. Khái niệm nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội
Khái niệm phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và đưa ra khái niệm, có thể
kể đến như:
Quan điểm 1: Phân hoá TNHS là sự phân chia các trường hợp phạm tội

thành những nhóm khác nhau dựa vào tính nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm đó và các đặc điểm nhân thân người phạm tội, đồng thời, phải được xử
lý bằng biện pháp hình sự phù hợp.
Quan điểm 2: Những hành vi phạm tội cụ thể không những có sự khác
nhau về nguyên nhân và điều kiện phát sinh, về tính chất của các quan hệ xã
hội bị xâm phạm mà còn có sự khác nhau ngay ở tính chất và mức độ nguy
hiểm của hậu quả do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra cũng như ở
nhiều tình tiết khách quan và chủ quan khác. “Chính do có sự khác nhau như

10


vậy mà vấn đề phân hoá và cá thể hoá TNHS được đặt ra và được coi là một
nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam”.
Quan điểm 3: Với vai trò là một nguyên tắc của luật hình sự, phân hóa
TNHS và cá thể hóa hình phạt “tồn tại xuyên suốt thượng tầng pháp lí hình
sự, đó là lý luận về luật hình sự, các quy phạm pháp luật hình sự, các quan hệ
pháp luật hình sự và ý thức pháp luật”. Bên cạnh đó, cũng có tác giả cho
rằng: “Phân hóa TNHS và cá thể hóa hình phạt là hai nguyên tắc có quan hệ
biện chứng với nhau”.
Quan điểm 4: không giống với cách tiếp cận của các nhà khoa học
pháp lý trên, một số tác giả lại cho rằng: Nếu coi nguyên tắc là tư tưởng chỉ
đạo, là quy luật của hiện tượng xã hội thì tư tưởng phân hóa bao trùm và thâm
nhập không chỉ một ngành luật mà là các ngành luật. Tư tưởng phân hóa hình
phạt trong luật hình sự được chuyển hóa vào pháp luật thi hành án hình sự và
việc tách bạch chúng là không thể. Chúng mang tính chất liên quan và thâm
nhập lẫn nhau. Cho nên, cần đồng ý với quan điểm cho rằng nguyên tắc phân
hóa hình phạt là nguyên tắc liên ngành.
Như vậy, mặc dù giữa các quan điểm nói trên vẫn tồn tại những khác
biệt nhất định nhưng nhìn chung các tác giả đều thống nhất trong việc khẳng

định phân hóa TNHS là một nguyên tắc của luật hình sự. Bên cạnh đó, phân
hóa TNHS chính là sự phân chia các trường hợp phạm tội thành những nhóm
khác nhau dựa theo độ tuổi, tính nguy hiểm của hành vi phạm tội, đặc điểm
nhân thân người phạm tội, từ đó đưa ra quyết định hình phạt đối với người
phạm tội.
Nhìn chung, dựa trên cơ sở tham khảo các ý kiến khoa học của các nhà
khoa học pháp lý trên và sự nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự
hiện hành, học viên xin đưa ra quan điểm về khái niệm nguyên tắc phân hóa
TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như sau:
11


Nguyên tắc phân hóa TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là hệ
thống những quy định, phân chia các trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội
thành những nhóm khác nhau dựa trên độ tuổi, tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội do người dưới 18 tuổi thực hiện và những đặc điểm nhân
thân của họ để từ đó quyết định hình phạt hoặc áp dụng các biện pháp tư
pháp hình sự phù hợp đối với từng trường hợp phạm tội riêng biệt.
1.2. Căn cứ của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội
Căn cứ của nguyên tắc phân hoá TNHS đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội là những tiêu chí để phân hóa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực
hiện thành những nhóm khác nhau, từ đó truy cứu TNHS phù hợp với tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Phân hóa TNHS đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội bao gồm 4 căn cứ là:
Một là, căn cứ vào tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm:
Khi nhắc đến vấn đề phân hóa TNHS thì tính nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm luôn được đề cập hàng đầu, vì đây là yếu tố quyết định xử lý về mặt
hình sự đối với các hành vi phạm tội, là tiêu chí thể hiện bản chất của tội
phạm. Do đó, nó là căn cứ pháp lý thống nhất cho sự phân hóa TNHS trong

chế định tại Phần chung và phần các tội phạm cụ thể, đồng thời ở các quy
định của các ngành luật có liên quan là tố tụng hình sự. Tại khoản 1 Điều 8
BLHS năm 2015 quy định: “1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong Bộ luật Hình sự...”. Cũng tại Khoản 1 Điều 9 BLHS năm
2015 quy định 4 loại tội phạm là: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.Việc phân
loại như vậy có tác dụng làm cơ sở cho việc phân hóa TNHS nói chung và
phân hóa TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng.

12


Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là thuộc tính được phản ánh
qua những yếu tố khác nhau như: tính chất của quan hệ xã hội bị xâm hại, tính
chất của hành vi phạm tội, thủ đoạn, phương tiện thực hiện hành vi phạm tội,
mức độ hậu quả mà tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra, tính chất và mức độ
lỗi. Việc xác định đúng mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
cần phải được đánh giá một cách tổng hợp tất cả các yếu tố có liên quan mà
trong đó, mỗi yếu tố cụ thể đều ảnh hưởng đến tính nguy hiểm cho xã hội cụ
thể như: quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm càng quan trọng thì tội
phạm càng nguy hiểm; tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý bao giờ cũng
nguy hiểm hơn tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý tương ứng, hậu quả mà
tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra càng nghiêm trọng thì tội phạm càng nguy
hiểm...
Khi phân hóa tội phạm, nhà làm luật không nên chia tách các hành vi
có tính nguy hiểm cho xã hội tương đương nhau thành các nhóm khác nhau để
tránh tình trạng quy phạm pháp luật trở nên vụn vặt.
Căn cứ vào tính nguy hiểm của hành vi phạm tội để phân hóa trách
nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi, đã được thể hiện rõ nét tại Điều 12
BLHS 2015 như: Theo khoản 2 Điều 12 của BLHS 1999 quy định thì “Người

từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Việc
quy định như vậy đã không bảo đảm nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự
đối với lứa tuổi này, bởi lẽ trong thực tế có rất nhiều trường hợp người đủ 14
tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi phạm những tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng nhưng không phải do họ cố ý mà có thể chỉ là bị sai khiến,
nhiều trường hợp cũng sẽ không thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý cơ bản để xác
định tội phạm. VD: Trường hợp người 15 tuổi phạm một trong các tội về xâm
phạm an ninh quốc gia, nhưng là do bị người khác sai khiến chứ họ không hề
13


có mục đích chống lại Chính quyền nhân dân thì không thể truy cứu trách
nhiệm họ trong trường hợp này được. Chính vì vậy, khoản 2 Điều 12 BLHS
2015 đã sửa đổi là “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
quy định tại một trong các điều...”. Theo đó, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 28 điều luật đã được liệt kê tại
khoản 2 Điều 12 mà thôi. Quy định này đã thể hiện chính sách phân hóa trách
nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi một cách rõ nét và phù hợp với sự
phát triển về tâm – sinh lý cũng như nhận thức còn hạn chế của người dưới 18
tuổi.
- Hai là căn cứ đặc điểm nhân thân của người phạm tội:
Cùng với tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, các đặc điểm nhân
thân người phạm tội thể hiện khả năng giáo dục hoặc hoàn cảnh đặc biệt của
họ cũng cần được cân nhắc khi truy cứu TNHS người phạm tội. Để thực hiện
được yêu cầu đó trong áp dụng luật đòi hỏi các quy định của luật hình sự cũng
phải được phân hóa theo tính nguy hiểm cho xã hội của loại tội phạm và nhân
thân loại người phạm tội. Ngoài ra, hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội
cũng là yếu tố cần được cân nhắc khi xác định TNHS của họ (ví dụ: người

phạm tội là người già, phụ nữ có thai).
Nhân thân người phạm tội được sử dụng là căn cứ phân hóa TNHS vì
TNHS (trong đó có hình phạt) được quyết định không chỉ vì người nào đó đã
thực hiện tội phạm mà còn nhằm thay đổi bản chất xã hội trong nhân thân của
người đó, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Mặt khác, mức độ đạt được các mục
đích của việc áp dụng hình phạt hay còn gọi là giá trị thực tiễn của cá thể hóa
TNHS một phần phụ thuộc vào mức độ các đặc điểm nhân thân người phạm
tội được cân nhắc trong quá trình tác động đối với chính người đó. Đặc điểm
nhân thân người phạm tội có thể được quy định trong các tình tiết định khung
14


hình phạt, đồng thời, được quy định trong một số chế định thuộc Phần chung
BLHS (như chế định người dưới 18 tuổi phạm tội) và được quy định là tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS. Ngoài ra, theo quy định của BLHS 2015,
trong một số trường hợp, đặc điểm xấu về nhân thân người phạm tội được sử
dụng trong các quy định mang tính định tội. Lúc này, đặc điểm xấu về nhân
thân lại trở thành căn cứ hỗ trợ cho căn cứ tính nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm được thực hiện để chuyển hành vi vi phạm pháp luật khác thành hành vi
phạm tội. Ví dụ: Tại điểm a, b khoản 1 Điều 173. Tội trộm cắp tài sản
Tóm lại, trong hai căn cứ phân hóa TNHS, tính nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm bao giờ cũng là căn cứ chủ đạo quy định sự khác biệt về TNHS.
Nhân thân người phạm tội chỉ là căn cứ được sử dụng mang tính bổ sung cho
căn cứ trên trong một số trường hợp (Ví dụ: phân hóa TNHS giữa những
trường hợp phạm tội do chủ thể ở các độ tuổi khác nhau thực hiện).
- Ba là, căn cứ vào độ tuổi:
Để truy cứu TNHS, thì căn cứ về độ tuổi không thể không được nhắc
đến. Theo pháp luật hình sự Việt Nam thì tuổi chịu trách nhiệm hình sự là từ
đủ 14 tuổi trở lên Độ tuổi người phạm tội được phân hóa không chỉ đối với
nhóm tuổi dưới 18 tuổi với nhóm tội trên 18 tuổi; mà ngay trong nhóm tuổi

dưới 18 tuổi cũng có sự phân hóa TNHS. Theo đó, độ tuổi dưới 18 tuổi được
chia thành 02 giai đoạn là từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi và từ đủ 16 tuổi đến dưới
18 tuổi:
- Từ đủ 16 tuổi trở lên: Trong độ tuổi này, người phạm tội phải chịu
TNHS về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật hình sự có quy định
khác. Quy định khác ở đây được hiểu là trong thiết kế điều luật phần tội phạm
của BLHS, thì có một số tội mà BLHS đòi hỏi người phạm tội là chủ thể đặc
biệt, là người từ đủ 18 tuổi trở lên.

15


- Từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151,
168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287,
289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật hình sự như đã phân tích ở phần trên.
Như chúng ta đều biết, con người không phải cứ sinh ra là đã có năng
lực TNHS, mà con người phải trải qua một quá trình trưởng thành, thông qua
hoạt động giáo dục nhận thức và hình thành năng lực một cách từ từ, phải tới
khi đạt tới một độ tuổi nhất định thì con người mới hoàn thành năng lực
chung của mình, trong đó có năng lực trách nhiệm hình sự, khi đó con người
mới có khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình. Do vậy,
người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển một cách hoàn thiện về nhận thức,
tâm – sinh lý cũng có nhiều biến động nên năng lực TNHS của họ sẽ có nhiều
hạn chế. Nên việc căn cứ vào độ tuổi để phân hóa trách nhiệm hình sự là hết
sức cần thiết và có tính khoa học.
- Bốn là, căn cứ vào lỗi của người phạm tội:
Đây là căn cứ xác định chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Lỗi là sự biểu hiện thái độ chủ quan của người

thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được thể hiện dưới hai dạng là lỗi cố
ý và lỗi vô ý. Luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc kết tội khách
quan, nghĩa là truy cứu TNHS chỉ căn cứ vào việc một người thực hiện hành
vi gây thiệt hại cho xã hội mà không căn cứ vào lỗi của họ; bởi thực tiễn
nhiều trường hợp họ gây thiệt hại nhưng họ không có lỗi tức là họ được thực
hiện những hành vi đó mà pháp luật cho phép khi đó họ không phải chịu
TNHS đối với thiệt hại họ gây ra. Do vậy, yếu tố có lỗi là một căn cứ của tội
phạm và cũng là căn cứ để phân loại trách nhiệm hình sự. Việc xác định lỗi
của chủ thể khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội sẽ giúp cho các cơ
16


quan tiến hành tố tụng xác định rõ hành vi đó là phạm tội hay là vi phạm pháp
luật khác. Hiện nay, khoa học luật hình sự ghi nhận 02 hình thức lỗi là lỗi cố
ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý có lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp đó là trường hợp:
Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc Người
phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước
hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý
thức để mặc cho hậu quả xảy ra [17; Điều 10]. Lỗi vô ý gồm có vô ý tự tin và
vô ý cẩu thả là trường hợp: Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình
có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ
không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được; Người phạm tội không thấy trước
hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy
trước và có thể thấy trước hậu quả đó [17; Điều 11].
1.3. Nội dung nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội
Với tư cách là một nguyên tắc của luật hình sự, nguyên tắc phân hoá
TNHS cũng tồn tại giống như các nguyên tắc khác - chúng đều “là những tư
tưởng chỉ đạo và định hướng,... được thể hiện thông qua toàn bộ nội dung của

luật hình sự, bao gồm các chế định lớn và nhỏ, các quy phạm ở Phần chung
cũng như ở Phần các tội phạm”. Nguyên tắc phân hóa TNHS đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội phải được thể hiện các nội dung sau trong các quy định
của luật:
1.3.1. Nội dung về nhận thức
Nhận thức là hệ thống các tư tưởng, quan điểm, chủ trương, đường lối
của Đảng, Nhà nước về chính sách hình sự trong việc đấu tranh phòng chống
tội phạm nói chung và đối với những tội phạm do người dưới 18 tuổi thực
hiện nói riêng. Để nhận thức đúng đắn vấn đề này, nhà làm luật cần phải xây
17


dựng đề ra những vấn đề phân hóa TNHS đối với các trường hợp phạm tội
khác nhau, đặc biệt là đối với người dưới 18 tuổi khi phạm những tội hình sự,
nhà làm luật phải hoạch định chính sách hình sự, đề ra các chủ trương, biện
pháp trong xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự nhằm đấu tranh phòng
chống tội phạm.
Trên phương diện nhận thức, cần phải hiểu bản chất của pháp luật với
tư cách là công cụ, phương tiện để Nhà nước duy trì kỷ cương, kỷ luật và
quản lý xã hội, mang bản chất, thể hiện ý chí và phục vụ lợi ích của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động mà ở đó pháp luật hình sự được xem là công
cụ quan trọng nhất để quản lý xã hội cũng như bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
của công dân và trừng trị những kẻ chống đối, cố tình vi phạm pháp luật. Tùy
theo từng giai đoạn lịch sử phát triển của xã hội mà chính sách hình sự đối với
người phạm tội cũng có sự thay đổi cho phù hợp với thực tiễn, thì mức độ
phân hóa TNHS đối với các loại tội phạm nói chung và đối với những người
dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng, cũng thay đổi theo.
Để nhận thức đúng đắn vai trò định hướng, chỉ đạo hoạt động xây dựng
và áp dụng pháp luật hình sự, đòi hỏi Nhà nước, nhà làm luật phải khái quát
những vấn đề về chính sách hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, quan

điểm, đường lối xử lý mang tính phân hóa TNHS đối với các trường hợp
phạm tội bao gồm các nội dung:
Thứ nhất, quy định đường lối xử lí khác nhau đối với các nhóm tội
phạm khác nhau. Nội dung này thường gắn liền với bản chất của Nhà nước
cũng như yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong từng giai đoạn nhất
định. Nội dung phân hóa này có thể được thể hiện trực tiếp ở hình phạt được
quy định đối với các tội phạm trong nhóm hoặc trong các quy định khác có
liên quan đến TNHS của người phạm tội như quy định về thời hiệu truy cứu
TNHS, án tích...
18


Thứ hai, quy định đường lối xử lí khác nhau đối với các tội phạm khác
nhau trong cùng nhóm. Nội dung này được thể hiện tập trung ở quy định về
cấu thành tội phạm và hình phạt đối với tội phạm cụ thể theo nguyên tắc hành
vị có tính nguy hiểm cho xã hội càng lớn thì phạm vi bị xử lí về hình sự càng
rộng và hình phạt được quy định càng nghiêm khắc. Để thể hiện nội dung
phân hóa này nhà làm luật cần cân nhắc tất cả các yếu tố tạo nên tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi như khách thể của tội phạm, tính chất của hành
vi phạm tội, hậu quả của tội phạm, chủ thể thực hiện tội phạm...
Thứ ba, quy định đường lối xử lí khác nhau đối với các trường hợp tuy
phạm cùng một tội nhưng khác nhau về mức độ nguy hiểm cho xã hội. Trong
thực tiễn lập pháp hình sự, nội dung này chủ yếu được thể hiện qua việc sử
dụng các cấu thành tội phạm tăng nặng, cấu thành tội phạm giảm nhẹ và cấu
thành tội phạm phụ sao cho những trường hợp phạm cùng một tội nhưng khác
nhau đáng kể về mức độ nguy hiểm cho xã hội phải được quy định ở những
cấu thành khác nhau với chế tài tương ứng khác nhau. Ngoài ra, nhà làm luật
cũng cần quy định các tình tiết giảm nhẹ và các tình tiết tăng nặng TNHS làm
cơ sở để phân hóa giữa các trường hợp phạm tội tuy thuộc cùng một khung
hình phạt nhưng khác nhau về mức độ nguy hiểm cho xã hội. Những tình tiết

này càng được cụ thể hóa thì càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc cá thể hóa
TNHS trong thực tiễn.
Thứ tư, quy định đường lối xử lí khác nhau đối với các trường hợp tuy
phạm cùng một tội nhưng khác nhau về độ tuổi của chủ thể. Nội dung phân
hóa này được thể hiện qua việc quy định đường lối xử lí theo hướng khoan
hồng đối với chủ thể là người chưa thành niên. Cơ sở của nội dung phân hóa
này bao gồm cả tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, nhân thân người
phạm tội và chính sách hình sự của Nhà nước. Kết quả của nội dung phân hóa
này được thể hiện ở đường lối xử lí đối với mọi trường hợp phạm tội do người
19


chưa thành niên thực hiện phải ít nghiêm khắc hơn so với trường hợp người
đã thành niên phạm tội tương ứng.
Thứ năm, quy định đường lối xử lí khác nhau đối với các trường hợp
phạm cùng một tội nhưng khác nhau về hình thức thực hiện tội phạm. Nội
dung phân hóa này thể hiện đường lối xử lí phân hóa giữa những trường hợp
phạm tội đơn lẻ với những trường hợp phạm tội dưới hình thức đồng phạm
mà mức độ nguy hiểm cho xã hội tăng lên đáng kể.
Toàn bộ những nội dung phân hóa trên đây được thể hiện qua các chế
định thuộc Phần chung và các quy định thuộc Phần các tội phạm, chúng là cơ
sở để chuyển tải tư tưởng phân hóa TNHS vào thực tiễn. Trong đó, những quy
định về tội phạm là những quy định giữ vai trò là cơ sở cho việc phân hóa
TNHS và những quy định về TNHS là nơi trực tiếp thể hiện kết quả của hoạt
động phân hóa TNHS.
1.3.2. Nội dung về lập pháp và áp dụng pháp luật hình sự
Trước hết, để có thể phân hóa TNHS đối với người phạm tội, nhà làm
luật cần xây dựng những quy định về tội phạm thể hiện sự phân hóa tối đa
trên cơ sở tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và nhân thân người phạm
tội. Nội dung phân hóa trong các quy định này mặc dù không trực tiếp thể

hiện đường lối xử lý phân hóa đối với người phạm tội nhưng chúng là cơ sở
bắt buộc để xây dựng các quy định về TNHS phù hợp với các yêu cầu của
nguyên tắc phân hóa TNHS. Các quy định về tội phạm là những quy định đầu
tiên quyết định TNHS của người phạm tội, chúng phần nào phản ánh mức độ
TNHS mà người phạm tội phải chịu. Do đó, nếu tư tưởng phân hoá TNHS
được thể hiện tốt ngay từ những quy định về tội phạm sẽ góp phần thực hiện
triệt để mục tiêu phân hoá TNHS. Trên cơ sở phân hóa tội phạm, tất cả các
quy định về TNHS cũng cần được xây dựng theo hướng phân hóa phù hợp
với sự phân hóa tội phạm. Như vậy, một mặt, các quy định về TNHS là nơi
20


×