Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.38 KB, 2 trang )
Nợ xấu chưa được xử lý từ gốc?
Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, vấn đề nợ xấu trong hệ thống
ngân hàng Việt Nam hiện nay không phải là điều đáng lo ngại nữa, khi
mà tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại đã giảm hơn một nửa,
từ mức 7% hồi giữa năm 2005 xuống còn 3,2% hồi cuối năm 2005
Về vấn đề này, chúng tôi xin có một vài suy nghĩ cá nhân.
Nếu tra lại về vấn đề nợ xấu, sẽ thấy còn khác biệt trong số liệu được cung cấp từ cùng một
nguồn là Ngân hàng Nhà nước.
Chẳng hạn, cũng vẫn là ông Thúy khi cho biết tỷ lệ nợ xấu của toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt
Nam cho đến cuối năm 2005 là 4,4% (VnEconomy hay Vnexpress, 17/1/2006). Con số này dù sao
cũng khá gần với con số do ông Lê Thanh Sơn (Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng), cung cấp
(VnEconomy, 6/7/2006), theo đó tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại cổ phần là dưới 2%,
của các ngân hàng quốc doanh bình quân là 5,4% (nếu tính theo tỷ trọng của các ngân hàng
thương mại quốc doanh trong tổng dư nợ cho vay thì ta sẽ có được tỷ lệ nợ xấu của các ngân
hàng này vào khoảng 4,8%).
Tất nhiên, tỷ lệ nợ khó đòi do bản thân các ngân hàng thương mại quốc doanh cung cấp thì thấp
hơn con số do Ngân hàng Nhà nước công bố nhiều, và càng thấp hơn rất nhiều so với con số do
các đối thủ hoặc của các tổ chức quốc tế cung cấp.
Hãy giả sử rằng số liệu nợ xấu hiện nay chỉ còn 3,2%. Nếu vậy, phải nói rằng thành tích giảm nợ
xấu đi hơn một nửa chỉ trong vòng chưa đầy nửa năm (năm 2005) nói trên quả là rất ấn tượng.
Thành tích này đạt được bằng cách nào? Vẫn theo ông Thúy, kết quả này có được là do các ngân
hàng đã sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý.
Qua nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi thấy trong số vốn trích dự phòng rủi ro nêu trên
của các ngân hàng thương mại quốc doanh, có lẽ đại đa số (nếu không muốn nói là tất cả) là vốn
của Ngân hàng Nhà nước rót bổ sung cho các ngân hàng này.
Bản thân các ngân hàng thương mại quốc doanh đang rất thiếu vốn để nâng tỷ lệ an toàn vốn lên
8% vào năm 2010, và vì vậy khó mà có khả năng trích quỹ dự phòng trong khi vẫn có tốc độ tăng
trưởng cho vay chóng mặt như mấy năm qua. Theo ước tính thì 4 ngân hàng quốc doanh lớn cần
đến 117 nghìn tỷ đồng, gấp 10 lần vốn nhà nước cấp bổ sung cho chúng trong giai đoạn 2001-
2004 (Vietnam Net, 1/10/2004).
Quan trọng hơn, mặc dù tỷ lệ trích lập dự phòng đã được nâng lên gấp ba lần, bằng 0,75% tổng