- - - [
\ - - -
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
Hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán tại
Việt Nam
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ
CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Đặng Thị Nhàn
Sinh viên thực hiện : Trần Hoài Thu
Lớp : Nhật 3 - K38F
Hà nội, tháng 12 năm 2003
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Chương I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
I. Những vấn đề cơ bản về Quỹ đầu tư chứng khoán
1. Sự hình thành và phát triển của các Quỹ đầu tư
2. Khái niệm
3. Phân loại Quỹ đầu tư chứng khoán
3.1. Căn cứ vào cách thức huy động vốn
3.2. Căn cứ vào mục đích đầu tư
3.3. Căn cứ vào đối tượng đầu tư của quỹ
3.4. Một số
loại quỹ khác
4. Vai trò của Quỹ đầu tư chứng khoán
4.1. Đối với nền kinh tế
4.2. Đối với thị trường chứng khoán
4.3. Đối với người đầu tư và người nhận đầu tư
5. Mô hình tổ chức hoạt động Quỹ đầu tư chứng khoán
5.1. Mô hình công ty
5.2. Mô hình tín thác
5.3. Ưu nhược điểm của mô hình công ty và mô hình tín thác
6. Nguyên tắc hoạt động của Quỹ
đầu tư chứng khoán
6.1. Nguyên tắc huy động vốn
6.2. Nguyên tắc bảo quản tài sản và giám sát hoạt động của quỹ
6.3. Nguyên tắc định giá phát hành và mua lại chứng chỉ của quỹ
6.4. Nguyên tắc cung cấp thông tin cho nhà đầu tư
6.5. Nguyên tắc hạn chế một số giao dịch liên quan đến tài sản của quỹ
II. Một số tiêu chuẩn đánh giá kết quả kinh doanh của Quỹ đầu tư chứng khoán
III. Kinh nghiệm hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán ở một số nước
1. Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán trên thị tr
ường phát triển
1.1. Hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Mỹ
1.2. Quỹ đầu tư chứng khoán ở Anh
1.3. Hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Nhật Bản
2. Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường mới nổi
2.1. Quỹ đầu tư chứng khoán tại Hàn Quốc
2.2. Quỹ
đầu tư chứng khoán ở Thái Lan
Chương II. HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
TẠI VIỆT NAM
I. Sự cần thiết của việc hình thành các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam
II. Quỹ đầu tư theo quy chế của Việt Nam
III. Đánh giá chung về hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam
IV. Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam
1. Vietnam Fund
2. Beta Vietnam Fund
3. Vietnam Frontier Fund
4. Vietnam Enterprise Investments Ltd
5. Mekong Enterprise Fund
6. Vietnam Opportunities Fund
7. VietFund
Chương III. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ HÌNH THÀNH VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG
KHOÁN TẠI VIỆT NAM
I. Mô hình Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam
II. Những thuận lợi và khó khăn trong việc thành lập Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt
Nam
1. Những khó khăn trong việc hình thành và phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở
Việt Nam
2. Những thuận lợi trong việc hình thành và phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở
Việt Nam
III. Giải pháp thúc đẩy sự hình thành và nâng cao hiệu quả hoạt độ
ng của các Quỹ
đầu tư chứng khoán
1. Về phía Nhà nước
1.1. Duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô
1.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý
1.3. Nhà nước cần khuyến khích và hỗ trợ tích cực cho việc hình thành và phát
triển của Quỹ đầu tư
1.4. Thu hút đầu tư gián tiếp
1.5. Phát triển hệ thống ngân hàng ở Việt Nam
1.6. Thực hiện chính sách ưu
đãi về thuế đối với hoạt động đầu tư chứng khoán
của Quỹ đầu tư.
1.7. Tạo lập thị trường hàng hoá cho thị trường chứng khoán bằng các biện pháp
tăng cung kích cầu
1.8. Nhà nước đặt định hướng phát triển chung cho các Quỹ đầu tư
2. Về phía các Quỹ đầu tư
2.1. Chú trọng và đẩy mạnh việc đào tạo cơ
bản đội ngũ cán bộ quản lý đầu tư
chuyên nghiệp
2.2. Chú trọng nghiên cứu đồng thời phổ biến rộng rãi Quỹ đầu tư ra công chúng
2.3. Chiến lược đầu tư thích hợp
KẾT LUẬN
LỜI MỞ ĐẦU
Trước những biến động bất thường về giá cổ phiếu, nhiều ý kiến cho rằng
thị trường chứng khoán Việt Nam chưa có các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp
đứng ra làm định hướng trong hoạt động đầu tư. Một trong các nhà đầu tư có
tổ chức mang tính chuyên nghiệp cao đó là Quỹ đầu tư chứng khoán. Quỹ đầu
tư chứng khoán tham gia thị trường với hai tư cách: tư
cách là tổ chức phát
hành, phát hành ra các chứng chỉ quỹ đầu tư để thu hút vốn và tư cách là tổ
chức đầu tư dùng tiền thu hút được để đầu tư chứng khoán.
Trên thế giới hiện nay có khoảng hàng chục nghìn Quỹ đầu tư đang hoạt
động cung cấp cho các nhà đầu tư. Nhờ đó mà tỷ trọng tham gia thị trường
chứng khoán của các quỹ ngày càng tăng so với nhà đầu tư cá nhân. Quỹ đầu
tư chứng khoán đã thực sự trở thành một định chế tài chính trung gian ưu việt
trên thị trường chứng khoán, làm cho thị trường phát triển, nhất là trong giai
đo
ạn đầu hình thành vì sự có mặt của nó sẽ tạo cho công chúng thói quen đầu
tư.
Chính vì vậy, việc tìm ra các giải pháp để thu hút rộng rãi công chúng
tham gia đầu tư, tăng quy mô vốn thị trường thông qua tạo lập các Quỹ đầu tư
chứng khoán là rất cần thiết. Xuất phát từ các lợi ích mà Quỹ đầu tư chứng
khoán mang lại cho các nhà đầu tư công chúng, việc nghiên cứu để có những
chính sách, biện pháp thúc đẩy loại hình Quỹ đầ
u tư chứng khoán ở Việt Nam
sẽ góp phần thiết thực tìm ra các giải pháp trên. Sự phát triển của loại hình
Quỹ đầu tư chứng khoán sẽ hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường chứng
khoán trong tương lai để thị trường chứng khoán Việt Nam phát huy được vai
trò thực sự trong việc chuyển tiết kiệm trong nền kinh tế thành đầu tư, góp
phần thúc đẩy nền kinh tế phát triể
n.
Quỹ đầu tư chứng khoán là một khái niệm hoàn toàn mới mẻ đối với
người dân Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu tìm hiểu và đề ra những biện
pháp thúc đẩy sự ra đời của Quỹ đầu tư để có thể vận dụng vào thực tiễn là rất
cần thiết. Chính vì vậy, em chọn đề tài “Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng
khoán tại Việt Nam” làm đề
tài tốt nghiệp.
Kết cấu khoá luận gồm ba phần:
Chương I. Khái quát chung về Quỹ đầu tư chứng khoán
Chương II. Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam
Chương III. Giải pháp thúc đẩy sự hình thành và phát triển Quỹ đầu tư
chứng khoán tại Việt Nam
Với một thời gian có hạn và nguồn tài liệu còn hạn chế nên khoá luận
chưa thể đề cập tới được mọi khía cạnh liên quan tới Quỹ đầu tư chứng khoán,
rất mong được sự nhận xét, góp ý của các thầy cô và các bạn quan tâm tới lĩnh
vực đầy mới mẻ này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới THS. Đặng Thị Nhàn đã tận tình hướng
dẫn, chỉ bảo em trong quá trình thự
c hiện khoá luận. Đồng thời em cũng chân
thành gửi lời cảm ơn tới các thầy cô ở trường ĐH Ngoại Thương đã trang bị
kiến thức vững chắc để giúp em có thể nghiên cứu, hoàn thành khoá luận này.
Hà Nội tháng 12 năm 2003
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
1
Chương I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
I. Những vấn đề cơ bản về Quỹ đầu tư chứng khoán
1. Sự hình thành và phát triển của các Quỹ đầu tư
Xuất hiện lần đầu tại Châu Âu vào thế kỷ 19, loại hình Quỹ đầu tư chứng
khoán đã thu hút được sự tham gia đông đảo của công chúng và đã trở thành
một định chế tài chính không thể thiếu được. Các Quỹ đầu tư ban đầu được
thành lập theo kiểu Quỹ tín thác đầu tư (Investment Trust). Quỹ tín thác đầu
tiên do vua William I của Hà Lan thành lập tại Brussels – Bỉ. Quỹ này được
lập ra để tạo điều kiện cho Hà Lan có thể đưa tiền đầu tư ra nước ngoài dưới
dạng các khoản vay của chính phủ. Tuy nhiên, phải đến khi cuộc cách mạng
công nghiệp bùng nổ ở Anh thì các Quỹ đầu tư mới thực sự phát triển. Cuộc
cách mạng công nghiệp này đ
ã đưa nước Anh thành một quốc gia thịnh vượng
nhất Châu Âu, sở hữu những nguồn vốn lớn. Trong khi đó, các nước láng
giềng ở Châu Âu hay Mỹ thì lại đang thiếu vốn trầm trọng. Vì vậy, các nước
thiếu vốn đã phát hành rất nhiều công cụ nợ với lãi suất hấp dẫn nhằm thu hút
vốn cho quá trình đầu tư ra nước ngoài, nhưng việc đầu tư này thường gặp
phải những khó khăn do không tiếp cận được những thông tin cần thiết và
thiếu những hiểu biết về môi trường đầu tư nước ngoài. Trước tình hình đó,
một số nhà đầu tư đã lập ra Quỹ đầu tư hải ngoại và thuê những chuyên gia
hiểu biết về đầu tư nước ngoài đứng ra quản lý. Đây chính là tiền thân của các
Quỹ đầu tư phổ biến trên th
ị trường tài chính hiện nay.
Vào những năm đầu của thập kỷ 60 thế kỷ 18, các công ty tín thác tương
tự như của Hà Lan được lập ra ở Anh và Scotland. Hiệp hội tài chính London
(London Financial Association) và Tập đoàn tài chính quốc tế (International
Financial Society) thành lập năm 1863 được coi là những công ty tín thác đầu
tiên của Anh. Các thương nhân Anh và Scotland ngày đó muốn tìm kiếm
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
2
nhiều lợi nhuận hơn nên đã đem các khoản tiền đầu tư của họ ra nước ngoài và
đặc biệt là đầu tư vào các chứng khoán của Mỹ với tỷ suất lợi nhuận cao. Từ
năm 1900 đến 1914, một lượng tiền khổng lồ từ các nhà đầu tư Anh đã đổ vào
Mỹ đặc biệt trong lĩnh vực đường sắt, năng lượng. Quỹ đầ
u tư chứng khoán
ngành đường sắt và năng lượng (The Railway and Light Securities Fund) là
quỹ đóng đầu tiên của Mỹ áp dụng các quỹ cho vay làm đòn bẩy để thâu tóm
chứng khoán đã ra đời năm 1904. Vào những năm 1920, mô hình công ty tín
thác đầu tư bùng nổ ở Mỹ đáp ứng sở thích đầu cơ của các nhà đầu tư.
Thế nhưng, cuộc Đại suy thoái 1929 - 1933 đã làm ảnh hưởng nặng nề
tới các Quỹ đầu t
ư. Chỉ sau Chiến tranh thế giới thứ 2, các Quỹ đầu tư mới bắt
đầu được khôi phục và phát triển trở thành một định chế trung gian ưu việt
như hiện nay. Điều này một phần là nhờ hệ thống luật định làm khuôn khổ
pháp lý cho sự hoạt động của các quỹ ngày càng được hoàn thiện. Tại Mỹ, hai
dự luật làm cơ sở căn bản nhất cho ho
ạt động chứng khoán là Luật Chứng
khoán (The Securities Act, 1933) và Luật về Sở giao dịch chứng khoán (The
Securities Exchange Act, 1934). Cũng từ năm 1934, Uỷ ban chứng khoán của
Mỹ (SEC) bắt đầu nghiên cứu những bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc Đại
suy thoái, soạn thảo và cho ra đời Luật Công ty đầu tư (Investment Company
Act, 1940). Phần lớn các Quỹ đầu tư bắt đầu ra đời hoặc được tái lập sau năm
1940 để đáp ứng các quy đị
nh của đạo luật này. Đến năm 1995, luật này lại
được sửa đổi nhằm tạo điều kiện thuận lợi và đảm bảo an toàn hơn nữa cho
người đầu tư đồng thời cho phép các quỹ được áp dụng các nghiệp vụ đầu tư
mới nhất. Hiện Mỹ đang chiếm tới 59% tổng số quỹ tương hỗ, 32% tại Châu
Âu, vùng Châu á Thái Bình Dương và Châu Phi chỉ chiế
m 9%. Đến quý 2
năm 2003, tổng số vốn của các Quỹ tương hỗ là 12.360 tỷ USD, tăng 10,3%
so với quý trước
1)
.
1)
Nguồn: Mutual Fund Fact Book 2003.
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
3
Ở Châu Á, ngay từ năm 1937 ở Nhật Bản đã xuất hiện một số quỹ tương
tự như Quỹ đầu tư. Đây là một tổ chức do một số nhà đầu tư thành lập nên để
lợi dụng các dịch vụ đầu tư do công ty chứng khoán cung cấp. Đây chính là
mầm mống cho sự ra đời các Quỹ đầu tư về sau của Nhật. Tại Nhậ
t Bản, Luật
tín thác (Trust Law) và Luật kinh doanh tín thác (Trust Business Law) là các
bộ luật điều chỉnh hoạt động của các Quỹ đầu tư.
Không chỉ ở các nước có nền tài chính phát triển như Anh, Mỹ…, mô
hình Quỹ đầu tư còn giữ một vị trí quan trọng trên các thị trường chứng khoán
mới nổi. Việc thành lập các Quỹ đầu tư ở thị trường này bắt nguồn từ nhu cầu
của những n
ền kinh tế còn yếu kém nhiều mặt, đòi hỏi phải cải thiện khả năng
thanh toán và trợ giúp cơ sở hạ tầng phát triển.
Nói tóm lại, hoạt động của các Quỹ đầu tư phát triển không ngừng, mở
rộng trên tất cả các thị trường chứng khoán thế giới. Nắm trong tay một lượng
vốn khổng lồ, các Quỹ đầu tư ngày càng chứng tỏ vai trò của mình – mộ
t định
chế tài chính trung gian quan trọng đáp ứng nhu cầu của người đầu tư và
người nhận đầu tư cũng như của cả nền kinh tế.
2. Khái niệm Quỹ đầu tư chứng khoán
Khi bắt đầu tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán, một trong
những khó khăn lớn nhất mà người đầu tư phải vượt qua đó là việc lựa chọn
ch
ứng khoán để đầu tư. Việc này được sự trợ giúp bởi các nhà môi giới
(Broker) hoặc kinh doanh chứng khoán (Dealer). Tuy nhiên, dù được thông tin
và tư vấn đến đâu chăng nữa, nhà đầu tư vẫn được xem như là người quyết
định cuối cùng, và do đó hiệu quả đầu tư của họ xét cho cùng lệ thuộc vào các
điều kiện và phẩm chất cá nhân. Thị trường chứng khoán lại tập hợp rất nhiề
u
các sản phẩm đa ngành, thế nên cho dù người đầu tư có tập trung vào một lĩnh
vực nào thì cũng không làm sao nắm vững hết các chiều hướng chuyển biến
một cách ngọn ngành được. Chính vì vậy, nhiều người đầu tư đã lựa chọn cho
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
4
mình một phương tiện để thực hiện đầu tư tốt nhất vào thị trường chứng khoán
đó là Quỹ đầu tư.
Quỹ đầu tư chứng khoán là một định chế tài chính trung gian, tập hợp các
nhà đầu tư riêng lẻ cùng đóng góp vốn vào quỹ chung, quỹ này sẽ được các
nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp đại diện cho các nhà đầu tư sử dụng để đầu
tư
vào chứng khoán theo chính sách đầu tư của quỹ.
Việt Nam, theo khoản 19 điều 3 Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày
28/11/2003 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán thì Quỹ
đầu tư chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu tư uỷ thác
cho công ty quản lý quỹ quản lý và đầu tư tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ
vào chứng khoán.
Một nét đặc trưng tạo nên s
ự khác biệt giữa quỹ với các tổ chức khác
tham gia vào thị trường chứng khoán là: quỹ vừa là một tổ chức phát hành
chứng khoán lại vừa là một tổ chức kinh doanh chứng khoán. Qua việc phát
hành cổ phiếu hay chứng chỉ quỹ đầu tư, quỹ thu được một khối lượng tiền
khá lớn, sau đó chúng sẽ được quỹ sử dụng đầu tư vào các loại chứng khoán.
Lợi nhu
ận thu được từ việc đầu tư sẽ được phân chia cho các nhà đầu tư mua
cổ phần của quỹ. Nói chung, quỹ chủ yếu thu lợi từ hoạt động đầu tư chứ
không nhằm thu lãi hàng tháng. Các Quỹ đầu tư thường ít tham gia điều hành
hoạt động của các doanh nghiệp nhận vốn đầu tư từ quỹ.
Các bên tham gia hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán là công ty quả
n
lý quỹ, ngân hàng giám sát và người đầu tư. Công ty quản lý quỹ là một tổ
chức đầu tư chuyên nghiệp, có trình độ chuyên môn cao về đầu tư chứng
khoán, thực hiện việc quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán. Ngân hàng giám sát
thực hiện việc bảo quản, lưu ký tài sản của Quỹ đầu tư chứng khoán và giám
sát công ty quản lý quỹ trong việc bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Ngườ
i đầu
tư góp vốn vào Quỹ đầu tư và được hưởng lợi từ việc đầu tư của quỹ.
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
5
3. Phân loại Quỹ đầu tư chứng khoán
3.1. Căn cứ vào cách thức huy động vốn
- Quỹ đầu tư chứng khoán đóng
- Quỹ đầu tư chứng khoán mở
Quỹ đóng và Quỹ mở là hai loại Quỹ đầu tư điển hình và phổ biến nhất hiện
nay. Chúng còn được gọi dưới một cái tên chung là Quỹ đầu tư chuyên nghiệp
(Management Fund). Người ta gọi là Quỹ đầu tư chuyên nghiệp bởi vì công việc
đầu tư loại này được quản lý chuyên nghiệp theo một danh mục g
ồm những
chứng khoán phù hợp với mục tiêu đã quy định trong các văn bản thành lập.
3.1.1. Quỹ đầu tư chứng khoán đóng (Closed-end Fund)
Quỹ đóng là Quỹ đầu tư chứng khoán trong đó người đầu tư không được
quyền bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư cho quỹ trước thời hạn kết thúc hoạt động
hay giải thể. Cơ cấu vốn trong Quỹ đóng
được xem là ổn định. Ngoại trừ các
đợt phát hành huy động vốn tập trung, các quỹ không phát hành thêm cổ phần
và cũng không thu lại cổ phần đã phát hành. Các cổ phần sau khi phát hành sẽ
được mua đi bán lại trên các thị trường thứ cấp, có thể là tại sàn giao dịch
hoặc trên thị trường không tập trung OTC. Do đó mà nó có thể được tính thêm
tiền hoa hồng hay một khoản kê giá lên. Giá thị trường của các cổ phần Quỹ
đóng sẽ giao
động tuỳ thuộc vào tình hình hoạt động của quỹ, cung cầu trên
thị trường như các loại chứng khoán thông thường khác, hơn là trực tiếp liên
hệ với giá trị thuần. Các cổ đông không thể rút vốn góp ra khỏi Quỹ đầu tư và
quỹ không có nghĩa vụ phải mua lại các cổ phiếu mà quỹ phát hành ra. Muốn
rút vốn, các cổ đông đem bán cổ phiếu đó ra thị trường chứng khoán theo giá
th
ị trường hoặc theo giá thoả thuận. Cổ phiếu của quỹ được giao dịch trên thị
trường thứ cấp nên lượng tiền mặt của Quỹ đóng không bị tác động hàng ngày
khi có những hoạt động rút vốn hay bán lại cổ phần.
3.1.2. Quỹ đầu tư chứng khoán mở (Opened-end Fund)
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
6
Quỹ mở được gọi phổ biến là Quỹ tương hỗ (Mutual Fund). Đây là quỹ
được phép phát hành liên tục các cổ phần mới để tăng vốn, đồng thời sẵn sàng
thu hồi lại các cổ phần đã phát hành mà nhà đầu tư bán lại cho quỹ bất cứ lúc
nào theo giá trị tài sản ròng chứ không theo giá thị trường trong một thời hạn
luật định. Cơ cấu vốn của Quỹ t
ương hỗ được để mở, và được gia tăng lượng
vốn đầu tư thu nhận từ các cổ đông mới không giới hạn, vì vậy mà người ta
gọi đây là Quỹ mở. Các cổ phần sở hữu Quỹ mở do tính chất của chúng được
gọi là chứng khoán khả hoàn. Cũng do tính chất như vậy, lượng tiền trong quỹ
phục vụ cho hoạt động đầu tư
sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nếu các nhà đầu tư rút
vốn đồng loạt dưới sự tác động của các yếu tố trên thị trường. Điều này có thể
ảnh hưởng tới chiến lược đầu tư của quỹ. Mặt khác, cũng do tính chất đó mà
nhiều quỹ sau một thời gian phát triển có cơ cấu vốn tăng lên rất lớn làm cho
quỹ dễ
đánh mất lợi thế đầu tư của mình trong nhiều trường hợp. Đây chính là
lý do để Quỹ tương hỗ phiên bản ra đời. Quỹ phiên bản (Clone Fund) là một
Quỹ tương hỗ xuất phát từ một Quỹ tương hỗ khác. Quỹ tương hỗ khác đó
chính là quỹ mẹ, đã tăng trưởng với quy mô vốn phình ra, làm cho tầm quản lý
và đầu tư bị hạn chế. Nhiều nhà chuyên môn tài chính cho r
ằng sự ra đời của
Quỹ phiên bản trở nên cần thiết một khi đã có sự quá tải về khả năng bao quát
của Quỹ tương hỗ mẹ và cũng để tận dụng các lợi thế của bản thân Quỹ phiên
bản con đang được tổ chức gọn nhẹ hơn. Khi Quỹ mở đã phát triển quá độ,
người ta có thể không thành lập một Quỹ phiên bả
n mà thay vào đó, họ sẽ
quyết định đóng lại. Đây không phải là đóng hẳn mà chỉ là khép bớt lại hoạt
động của mình. Thuật ngữ gọi đây là Quỹ khép (Closed Fund). Quỹ khép là
Quỹ tương hỗ đã phát triển quá lớn, không còn phát hành chứng chỉ đầu tư
cho những người mới muốn tham gia vào quỹ, tuy nhiên nó cũng có thể tiếp
tục bán cho những cổ đông hiện hữu.
3.1.3. Sự
khác nhau giữa Quỹ đóng và Quỹ mở
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
7
Sự khác nhau giữa Quỹ đóng và Quỹ mở tác động tới hoạt động của các
nhà tư vấn đầu tư, cơ hội của những nhà đầu tư cá nhân để giảm thiểu rủi ro,
gia tăng lợi nhuận và những chi phí mà họ phải chịu khi đầu tư vào các quỹ.
Sự khác biệt được thể hiện ở một số điểm chính sau đây :
+ Việc mua và bán c
ổ phiếu ngân quỹ : Quỹ mở có số lượng chứng
khoán lưu hành luôn thay đổi. Nó được quyền mua lại chứng chỉ quỹ của
chính mình khi cần giảm số lượng chứng chỉ đang lưu hành trên thị trường và
bán chứng chỉ quỹ của mình bằng cách bán lại chứng chỉ ngân quỹ đã mua
hoặc phát hành thêm chứng chỉ mới.
Khác với Quỹ mở, Quỹ đóng chỉ được chào bán cho công chúng m
ột lần
nên số lượng chứng khoán lưu hành là cố định. Quỹ đóng cũng không mua lại
chứng chỉ quỹ của mình mà nhà đầu tư phải bán lại cho nhà đầu tư khác. Và
nếu nhà đầu tư muốn mua chứng chỉ Quỹ đóng thì chỉ được mua từ nhà đầu tư
khác.
+ Giá cả mua bán chứng chỉ quỹ : Đối với Quỹ đóng, giá mua bán
chứng chỉ quỹ là giá thị tr
ường được xác định bởi cung cầu trên thị trường là
chủ yếu.
Đối với Quỹ mở, giá mua bán chứng chỉ quỹ được công ty quản lý quỹ
xác định là giá trị tài sản ròng tại thời điểm đóng cửa của ngày giao dịch (hoặc
từng giờ giao dịch).
+ Các phí phải trả cho việc mua bán, quản lý điều hành hoạt động của
quỹ : Nhà đầu tư phải trả
phí môi giới mua bán cổ phiếu cho nhà môi giới và
phí điều hành hoạt động của quỹ cho công ty quản lý quỹ nếu đó là Quỹ đóng.
Đối với Quỹ mở, nhà đầu tư có thể phải hoặc không trả phí môi giới mua
bán chứng chỉ quỹ tuỳ hình thức quỹ là Quỹ thu phí (Load Mutual Fund) hay
Quỹ không thu phí (No-load Mutual Fund). Ngoài ra, nhà đầu tư trả cho công
ty quản lý quỹ phí điều hành và quản trị quỹ.
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
8
3.2. Căn cứ vào mục đích đầu tư
Các quỹ thường được thành lập với các mục tiêu cụ thể tương ứng với
một trong ba mục tiêu cơ bản sau:
- Thu nhập hiện tại
- Thu nhập ở một mức nào đó và sự tăng trưởng
- Tăng trưởng trong tương lai
3.2.1. Quỹ thu nhập (Income Fund)
Để có được thu nhập ổn định quỹ dành phần lớn vốn để đầu tư vào trái
phiếu và vào cổ phiếu ư
u đãi là những công cụ đầu tư có thu nhập thường
xuyên ổn định.
3.2.2. Quỹ tăng trưởng-thu nhập (Growth-income Fund)
Quỹ này đầu tư chủ yếu vào cổ phiếu thường có giá cao đồng thời có
mức cổ tức ổn định. Loại quỹ này muốn kết hợp cả hai yếu tố tăng vốn trong
dài hạn và dòng thu nhập ổn định trong ngắn hạn.
3.2.3. Quỹ tăng trưởng (Growth Fund)
Quỹ đầu tư vào cổ phiếu của các công ty kinh doanh thành đạt. Mục tiêu
chính là tăng giá trị của các khoản đầu tư chứ không nhằm vào dòng cổ tức thu
được. Người đầu tư vào các quỹ này quan tâm đến việc giá cổ phiếu tăng lên
hơn là khoản thu nhập từ cổ tức.
3.3. Căn cứ vào đối tượng đầu tư của quỹ
Quỹ đầu tư chứng khoán không bắt buộc phải đầu tư toàn bộ vào chứng
khoán mà có thể đầu tư vào bất động sản hoặc các tài sản có giá trị như vàng,
kim loại quý. Tuy nhiên chứng khoán vẫn phải chiếm một tỷ lệ phần trăm nhất
định. Căn cứ vào tỷ lệ chứng khoán ta có :
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
9
3.3.1. Quỹ đầu tư cổ phiếu
Phần lớn tài sản quỹ đầu tư là cổ phiếu. Tuy nhiên việc đầu tư vào cổ
phiếu thường được giới hạn trong một tỷ lệ phần trăm nhất định, phần còn lại
sẽ đầu tư vào những lĩnh vực an toàn hơn như trái phiếu… Không như các nhà
đầu tư riêng lẻ thường mua các loại cổ phiếu khác nhau
để đa dạng hoá danh
mục đầu tư của họ, các quỹ thường tập trung vào một khu vực nào đó, như cổ
phiếu của các công ty thượng hạng (Blue Chips) hay các công ty nhỏ. Cổ tức
thường được trả mỗi năm một lần vào thời điểm kết toán tài khoản, từ cổ tức
mà quỹ thu được và các khoản thu nhập khác của quỹ. Khi hết thời hạn hoạt
độ
ng, toàn bộ tài sản của quỹ sẽ được thanh toán và hoàn trả cho người đầu tư.
3.3.2. Quỹ đầu tư trái phiếu
Một số lượng lớn tài sản của quỹ đầu tư vào trái phiếu. Đầu tư vào trái
phiếu cho phép nhà đầu tư đảm bảo ổn định về thu nhập bởi khoản thu nhập
không phụ thuộc vào kết quả hoạt động của chủ thể phát hành. Khoản lãi này
có thể nhận về hoặc lại tiếp tục đưa vào một quỹ gọi là quỹ tái đầu tư lãi.
3.3.3. Quỹ thị trường tiền tệ
Quỹ đầu tư vào các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ. Đây là
những công cụ đầu tư khá an toàn, ổn định như tín phiếu kho bạc, chứng chỉ
tiền gửi của các ngân hàng… Do vậy, Quỹ thị trường ti
ền tệ thường ít biến
động hơn các quỹ khác, nó thích hợp cho mục tiêu đầu tư ngắn hạn lại có thu
nhập ổn định.
3.4. Một số loại quỹ khác
3.4.1. Quỹ cân bằng (Balanced Fund)
Danh mục đầu tư cân bằng cố gắng để đạt được ba mục tiêu: thu nhập,
tăng trưởng vốn đều đặn và bảo toàn vốn. Chúng thực hiện điều này bằng cách
đầu tư vào các trái phiếu, các chứng khoán chuyển đổi và thêm một vài cổ
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
10
phiếu ưu tiên cũng như cổ phiếu thường. Nhìn chung các danh mục đầu tư này
đầu tư từ 40% đến 60% giá trị quỹ vào trái phiếu.
3.4.2. Quỹ đầu tư linh hoạt (Flexible Porfolio)
Quỹ đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu hoặc các công cụ trên thị trường tiền
tệ tuỳ thuộc vào điều kiện của thị trường. Người quản lý quỹ có quyền được
thay đổi linh hoạ
t danh mục đầu tư để đáp ứng những biến động trên thị
trường.
3.4.3. Quỹ ngành (Sector Fund)
Các Quỹ ngành tập trung vào các cổ phiếu của một ngành công nghiệp cụ
thể nào đó. Do hoạt động của các ngành thường có tính bất ổn định rất cao nên
các ngành này đều có thể mang đến cho nhà đầu tư nào đầu tư đúng hướng cơ
hội có những khoản lợi nhuận lớn.
4. Vai trò củ
a Quỹ đầu tư chứng khoán
4.1. Đối với nền kinh tế
Quỹ đầu tư huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế ngay cả đối với nguồn
vốn nhỏ lẻ và trực tiếp tiến hành đầu tư chứ không phải cho vay. Quỹ còn hấp
dẫn đối với nguồn vốn từ nước ngoài chảy vào nhờ vào việc phát hành các
chứng chỉ quỹ có tính hấp dẫn cao với nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó,
Quỹ đầu t
ư là một phương thức đầu tư hữu hiệu cho các nhà đầu tư nước
ngoài còn bởi vì thông qua quỹ, nhà đầu tư nước ngoài có thể vượt qua những
hạn chế về giao dịch mua chứng khoán trực tiếp đối với người nước ngoài do
nhà nước đặt ra, cộng với nhiều hạn chế trong việc nắm bắt những thông tin về
chứng khoán ở nước sở tại và chi phí giao dịch cao. Đố
i với thị trường trong
nước, quỹ còn góp phần tạo nên sự đa dạng của các đối tượng tham gia trên thị
trường chứng khoán. Thông qua hoạt động của các Quỹ đầu tư nước ngoài,
các Quỹ đầu tư trong nước sẽ tiếp thu được kinh nghiệm quản lý, phân tích và
đầu tư chứng khoán.
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
11
4.2. Đối với thị trường chứng khoán
Quỹ đầu tư góp phần vào sự phát triển của thị trường sơ cấp và ổn định
thị trường thứ cấp. Các quỹ tham gia bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ
và trái phiếu doanh nghiệp, phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư làm tăng lượng
cung chứng khoán trên thị trường chứng khoán, tạo sự đa dạng về hàng hoá
cho thị trường. Khi Quỹ đầu tư mua bán với khối lượng lớ
n một loại chứng
khoán nào đó thường ảnh hưởng lớn tới sự biến động của thị trường chứng
khoán. Nó góp phần bình ổn giá cả giao dịch trên thị trường thứ cấp, giúp cho
sự phát triển của thị trường này thông qua các hoạt động đầu tư chuyên nghiệp
với các phương pháp đầu tư khoa học. Ví dụ, khi thị trường chứng khoán thiếu
cung, Quỹ đầu tư bán chứ
ng khoán do nó nắm giữ thì sẽ làm tăng đáng kể
lượng cung làm giá chứng khoán thấp xuống. Ngược lại, nếu lượng cung quá
cao, quỹ có thể mua chứng khoán làm cầu tăng lên, kéo theo giá chứng khoán
tăng, phản ánh giá trị thực của chứng khoán.
Quỹ đầu tư góp phần làm xã hội hoá hoạt động đầu tư chứng khoán. Các
quỹ tạo một phương thức đầu tư được các nhà đầu tư nhỏ, ít có sự
hiểu biết về
chứng khoán yêu thích. Nó góp phần tăng tiết kiệm của công chúng đầu tư
bằng việc thu hút tiền đầu tư vào quỹ.
4.3. Đối với người đầu tư và người nhận đầu tư
4.3.1. Quỹ đầu tư chứng khoán cung cấp cho những nhà đầu tư riêng lẻ những
thuận lợi cơ bản để giúp họ đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi ích
Tính thanh khoản của chứng khoán đầu tư. Các nhà đầu tư vào Quỹ đầu
tư chứng khoán có thể bán chứng chỉ quỹ hoặc cổ phiếu quỹ mình đang nắm
giữ vào bất cứ lúc nào cho chính Quỹ
đầu tư (trong trường hợp Quỹ mở) hoặc
trên thị trường thứ cấp (đối với Quỹ đóng) để thu hồi vốn. Giá bán chứng chỉ
quỹ thay đổi phụ thuộc vào thay đổi của tổng giá trị tài sản danh mục của Quỹ
đầu tư phát hành ra cổ phiếu. Đặc biệt, chứng chỉ, cổ phiếu của các Quỹ thị
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
12
trường tiền tệ có tính thanh khoản rất cao, người sở hữu cổ phiếu có thể bán
lại cổ phiếu bất cứ lúc nào trên thị trường mà giá cả biến động rất ít. Do vậy,
trong tài sản của các công ty, cổ phiếu Quỹ thị trường tiền tệ được coi như
tương đương với tiền.
Đa dạng hoá danh mục đầu tư và phân tán rủi ro. Bằng việc sử dụ
ng tiền
thu được từ những nhà đầu tư để đầu tư phân tán vào danh mục các chứng
khoán, các Quỹ đầu tư làm giảm rủi ro cho các khoản đầu tư và làm tăng cơ
hội thu nhập cho các khoản đầu tư đó.
Tăng cường tính chuyên nghiệp của việc đầu tư. Thay cho việc người đầu
tư phải đi thuê tư vấn để quản lý tài sản của mình thì họ ch
ỉ cần đầu tư vào
một quỹ với chi phí giảm đi rất nhiều. Tiền tập hợp trong các Quỹ đầu tư
chứng khoán được đặt dưới sự quản lý của các nhà đầu tư chuyên nghiệp - các
công ty quản lý quỹ. Các chuyên gia của quỹ hay công ty quản lý quỹ sẽ tìm
hiểu thị trường, đánh giá cơ hội tốt nhất để mua chứng khoán, quản lý danh
mục đầu tư th
ường xuyên, xác định chính xác thời điểm để mua bán chứng
khoán. Trong các quỹ thường có các cán bộ nghiên cứu, những người quản lý
danh mục đầu tư, họ biết được các công ty hay khu vực thị trường nào hoạt
động hiệu quả. Không những thế, các chuyên gia còn có khả năng thâm nhập
tới nhiều nguồn thông tin, nguồn hàng hơn bất kì một người đầu tư cá nhân
nào.
Tiết kiệm chi phí đầu tư. Vì là những danh mụ
c đầu tư lớn được quản lý
chuyên nghiệp, Quỹ đầu tư chịu chi phí giao dịch thấp hay được hưởng những
ưu đãi về phí giao dịch hơn các cá nhân đầu tư, kể cả những người mua bán
thông qua những công ty môi giới có mức phí hoa hồng thấp nhất.
Tính dễ tiếp cận. Do loại hình Quỹ đầu tư là loại hình cho các nhà đầu tư
cá nhân, cho công chúng nên một khi hình thành, các Quỹ đầu tư luôn tạo
những điều kiện thuận lợi cho công chúng dễ tiếp cận và giao dịch. Và để thu
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
13
hút sự tham gia của công chúng, các quỹ đều cung cấp thông tin sẵn có trên
các phương tiện thông tin đại chúng, trên các báo hay qua Internet.
Cung cấp các lựa chọn cho các nhà đầu tư. Một nhà đầu tư có thể có
được các lựa chọn khác nhau khi đầu tư vào các quỹ tuỳ thuộc vào mục đích
hay sở thích của họ. Họ có thể đầu tư vào danh mục các cổ phiếu, trái phiếu,
danh mục hỗn hợp hay danh mục các công cụ thị trường tiền t
ệ trong hơn vài
chục loại quỹ khác nhau.
An toàn trước các hành vi không công bằng. Người đầu tư có thể bị thiệt
hại nếu danh mục đầu tư của quỹ bị giảm giá trị do sự biến động giá chứng
khoán trên thị trường, nhưng xác suất bị tổn thất do gian lận, bê bối hoặc phá
sản liên quan đến công ty quản lý quỹ là rất nhỏ. Khuôn khổ pháp lý và việc
quản lý chặt ch
ẽ của cơ quan có thẩm quyền đối với Quỹ đầu tư đem lại những
đảm bảo cơ bản.
4.3.2. Quỹ đầu tư đem lại cho người nhận đầu tư (thường là các doanh
nghiệp) một số lợi ích căn bản sau
Chi phí cho nguồn vốn phát triển thấp hơn khi vay ngân hàng. Trước
đây, hệ thống ngân hàng chiếm vai trò thống trị nền tài chính. Để vay được
v
ốn, doanh nghiệp phải thoả mãn một số điều kiện nhất định và lãi suất vay
cao. Quỹ đầu tư ra đời sẽ hạn chế được những nhược điểm của cơ chế cho vay
của ngân hàng. Hơn nữa, việc đầu tư về tài chính qua các quỹ thường có giới
hạn nhất định về quyền và nghĩa vụ nên doanh nghiệp được đầu tư đảm b
ảo
được tính tự chủ trong hoạt động kinh doanh.
Tiếp cận nguồn tài chính dài hạn. Lợi ích này có được từ việc quỹ phát
hành và giao dịch các loại chứng khoán này trên thị trường đã thu hút sự chú ý
của các nhà đầu tư, đặc biệt là các chủ thể có khả năng tài chính lớn như ngân
hàng, các tổng công ty, các công ty bảo hiểm… đầu tư vào quỹ. Quỹ sẽ chính
là cầu nối giữa doanh nghiệp mà quỹ đầu tư
vào với các tổ chức tài chính này.
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
14
Tận dụng được những kiến thức quản lý đầu tư, marketing và tài chính từ
các Quỹ đầu tư. Ngoài cung cấp vốn cho doanh nghiệp, các công ty quản lý
quỹ đầu tư còn có dịch vụ cung cấp các thông tin tài chính, tư vấn về kế hoạch
tài chính, marketing và các mối quan hệ với các tổ chức tài chính và doanh
nghiệp khác. Điều này có lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh
nghiệp mới thành lập ít bạn hàng, thiếu thông tin về th
ị trường.
5. Mô hình tổ chức hoạt động Quỹ đầu tư chứng khoán
Hiện nay, Quỹ đầu tư được tổ chức theo hai mô hình :
- Mô hình công ty
- Mô hình tín thác
5.1. Mô hình công ty
Trong mô hình này, Quỹ đầu tư được thành lập bởi số tiền đóng góp ấn
định của các nhà đầu tư. Nó được thành lập và tổ chức như một công ty cổ
phần, tức là về cơ cấu tổ chức nó cũng có đại hội cổ đông, hội đồng quản trị,
ban giám đốc…
Do Quỹ đầu tư mô hình công ty có tư cách pháp nhân đầy đủ nên người
đầu tư góp vốn vào quỹ trở thành cổ đông và có quyền biểu quyết, có quyền
bầu ra hội đồng quản trị và tham gia quyết định các vấn đề lớn của công ty.
Hội đồng quản trị là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của quỹ, đại diện cho
Quỹ đầu tư
Công ty quản lý
Hội đồng quản
Tổ chức bảo quản tài
Người đầu
tư
Người đầu
tư
Người đầu tư
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
15
quỹ lựa chọn công ty quản lý quỹ, ngân hàng bảo quản tài sản và có nhiệm vụ
giám sát hoạt động của cả hai tổ chức này.
Ngân hàng bảo quản tài sản trong mô hình này chỉ đóng vai trò bảo quản
an toàn cho tài sản của quỹ, định giá tài sản, theo dõi sự biến động tài sản của
quỹ trong quá trình đầu tư vào chứng khoán, không tham gia vào công tác
quản lý quỹ, kinh doanh hoặc tư vấn, cũng không bảo vệ người đầu t
ư trong
việc đưa ra những biện pháp bảo vệ đầu tư cho họ.
Công ty quản lý quỹ được hội đồng quản trị đứng ra thuê và thực hiện
chức năng quản lý thuần tuý. Công ty quản lý quỹ có trách nhiệm cử chuyên
gia để giúp quỹ điều hành và sử dụng vốn của quỹ vào đầu tư chứng khoán và
các tài sản khác một cách có hiệu quả nhất nhằm thu phí dịch vụ. Trong quá
trình lựa chọn phương án đầu tư trước khi đi đến quyết định đều phải có sự
thống nhất thông qua hội đồng quản trị.
Ngoài các tổ chức tham gia chính đã đề cập tới như trên thì tuỳ từng nước
còn có thể có các đại lý chuyển nhượng hoặc nhà bảo lãnh phát hành tham gia
vào hoạt động của quỹ. Đại lý chuyển nhượng thường được uỷ nhiệm để tiến
hành việc bán hoặc mua lại cổ phần của quỹ (nếu là Quỹ mở). Nhà bảo lãnh
phát hành giúp quỹ chào bán và phân phối cổ phần của quỹ cho các nhà đầu
tư.
Quỹ đầu tư chứng khoán mô hình công ty được phép phát hành cổ phiếu
để huy động vốn và những nhà đầu tư sở hữu nó có quyền tương tự như các cổ
đông, tức là có quyền biểu quyết các hoạt động kinh doanh cũng như bầ
u hội
đồng quản trị. Các cổ phiếu phát hành có thể được niêm yết trên Sở giao dịch
chứng khoán hay là được mua bán trên OTC. Quỹ mô hình công ty không
được phép phát hành các trái phiếu hoặc sử dụng nguồn vốn vay khác để đầu
tư mà chỉ có thể vay ngắn hạn để thanh toán cho những nhu cầu cần thiết khi
chưa có khả năng thu hồi vốn ngay.
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
16
Do người đầu tư là các cổ đông của quỹ nên cơ cấu vốn của quỹ khá ổn
định. Vì vậy phạm vi đầu tư của quỹ rất rộng. Ngoài hoạt động chính là đầu tư
vào chứng khoán và tài sản có tính thanh khoản cao, quỹ còn có thể đầu tư vào
các mục tiêu có tính chất dài hạn như bất động sản… nhằm thu lợi nhuận cao
hơn.
Trong mô hình công ty, quỹ là một pháp nhân được tổ
chức như một
công ty cổ phần. Tuy vậy, quỹ không chỉ chịu sự điều chỉnh của Luật công ty
mà còn chịu sự điều chỉnh của một hệ thống luật riêng. Các nước thường ban
hành các luật riêng về Quỹ đầu tư như Luật công ty đầu tư sửa đổi 1988 của
Pháp, Luật công ty đầu tư sửa đổi 1988 của Đức… Riêng ở Mỹ, các Qu
ỹ đầu
tư chịu sự điều chỉnh của tới bốn đạo luật là Luật công ty đầu tư 1940, Luật
chứng khoán 1933, Luật giao dịch chứng khoán 1934 và Luật tư vấn đầu tư
1940. Đến năm 1995, Mỹ sửa đổi lại Luật công ty cho phù hợp với các nghiệp
vụ hiện đại mới phát sinh trên thị trường chứng khoán.
5.2. Mô hình tín thác
Quỹ đầu tư chứng khoán mô hình tín thác không phải là một công ty mà
được thành lập bởi công ty quản lý quỹ, quản lý một số vốn nhất định của
người đầu tư để thực hiện đầu tư theo mục tiêu đã xác định. Khác với các Quỹ
đầu tư theo mô hình công ty, các quỹ mô hình tín thác được thành lập theo
Luật đầu tư tín thác. Theo luật này, một hợp đồng tín thác được ký kết bởi tất
cả các bên tham gia vào quỹ
: công ty quản lý quỹ, tổ chức giám sát bảo quản
và những người hưởng lợi.
Quỹ đầu
tư
Công ty quản lý
Tổ chức bảo quản giám
Người đầu
tư
Người đầu
tư
Người đầu
tư
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
17
Trong mô hình này, muốn thành lập Quỹ đầu tư chứng khoán trước hết
phải thành lập công ty quản lý quỹ. Mỗi công ty quản lý quỹ có thể có nhiều
Quỹ đầu tư trực thuộc tuỳ thuộc vào mục tiêu đầu tư. Công ty quản lý quỹ
đóng một vai trò rất quan trọng vì đó là một tổ chức đứng ra phát hành chứng
chỉ quỹ đầu tư huy động vốn để thành lậ
p Quỹ đầu tư và sử dụng vốn thu được
để đầu tư vào những nơi có hiệu quả nhất. Ngoài chức năng huy động vốn và
thực hiện đầu tư, nó còn đưa ra các chỉ dẫn cho ngân hàng giám sát mua bán
chứng khoán và các tài sản khác bằng tiền của nhà đầu tư. Nó hoạt động như
những nhà tư vấn cho Quỹ đầu tư chứng khoán.
Ngân hàng giám sát bảo quản ở mô hình này có vai trò quan trọng hơ
n
nhiều so với ngân hàng bảo quản trong mô hình công ty. Ngoài vai trò bảo
quản vốn và các tài sản của quỹ, ngân hàng giám sát bảo quản còn làm nhiệm
vụ giám sát hoạt động của công ty quản lý quỹ để đảm bảo việc tuân thủ các
mục tiêu và chính sách đã đề ra. Quan hệ giữa công ty quản lý quỹ và ngân
hàng giám sát bảo quản được thể hiện bằng hợp đồng quản lý giám sát trong
đó quy định quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong việ
c thực hiện và giám
sát đầu tư để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư.
Người đầu tư là những người góp vốn vào quỹ và uỷ thác việc đầu tư cho
công ty quản lý quỹ để đảm bảo khả năng sinh lợi cao nhất từ khoản vốn đóng
góp của họ. Việc góp vốn của các nhà đầu tư được thể hiện bằng việc h
ọ mua
các chứng chỉ đầu tư do công ty quản lý quỹ thay mặt quỹ phát hành. Các nhà
đầu tư trong mô hình này không phải là các cổ đông như quỹ đầu tư mô hình
công ty mà chỉ đơn thuần là những người thụ hưởng kết quả kinh doanh từ
hoạt động đầu tư của quỹ.