Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Không gian công trình công cộng cho người khiếm thị tiếp cận – Nhìn từ góc độ pháp lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.32 KB, 11 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC
SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN
OF SAIGON UNIVERSITY
Số 68 (02/2020)
No. 68 (02/2020)
Email: ; Website: />
KHÔNG GIAN CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG CHO
NGƯỜI KHIẾM THỊ TIẾP CẬN – NHÌN TỪ GÓC ĐỘ PHÁP LÝ
Space of public works for visually impaired people –
View from legal perspective
ThS. Nguyễn Minh Kiên
Trường Đại học FPT
TÓM TẮT
Tại Việt Nam hiện nay, các công trình công cộng đang xây dựng và sử dụng hầu hết đều thiếu các
phương tiện và trang thiết bị, cũng như các giải pháp thiết kế để người khiếm thị tiếp cận. Đây là rào
cản hạn chế họ hòa nhập cộng đồng, phát huy năng lực và đóng góp cho xã hội. Bài nghiên cứu đặt ra
một số vấn đề nhìn từ góc độ pháp lý về quyền tiếp cận công trình công cộng của người khiếm thị.
Từ khóa: công trình công cộng, không gian, người khiếm thị, pháp lý
ABSTRACT
Nowadays in Vietnam, public works which have been constructed and used mostly lack facilities and
equipment, as well as design solutions for visually impaired people to access. This is a barrier that
restrains visually impaired people to integrate into the community, promote their capacities and
contribute to the society. The research raises several issues from legal perspective on the right of access
to public works of the visually impaired people.
Keywords: public works, space, visually impaired people, legal

ước mơ, hy vọng và những ý tưởng muốn
chia sẻ với cộng đồng. Mỗi người đều là


một phần của xã hội và đều có thể cống
hiến cho xã hội khả năng độc đáo của
riêng mình. Abraham Harold Maslow, giáo
sư tâm lý học người Mỹ đưa ra năm nhu
cầu cơ bản của con người:
- Nhu cầu sinh lý cơ bản
- Nhu cầu an toàn
- Nhu cầu về quan hệ xã hội
- Nhu cầu được kính nể, ngưỡng mộ…
- Nhu cầu được phát huy bản ngã,
thành đạt.v.v. (Nguyễn Quang Uẩn, 2010,
tr.12).

1. Đặt vấn đề
Hiện nay, người khuyết tật nói chung,
người khiếm thị nói riêng gặp nhiều khó
khăn trong việc tiếp cận các công trình
công cộng, thậm chí đó là những công
trình đặc biệt như các trung tâm người
khuyết tật, văn phòng hội người khuyết tật,
trường học cho người khuyết tật. Có rất
nhiều rào cản cản trở họ tham gia bình
đẳng như những người khác trong cuộc
sống, hầu hết những rào cản này lại do xã
hội dựng nên. Người khuyết tật mặc dù
gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt, hòa
nhập cuộc sống nhưng họ cũng có những
Email:

76



NGUYỄN MINH KIÊN

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Mỗi người đều có sự khác biệt, từ vẻ
bề ngoài tới những ý tưởng, suy nghĩ, trải
nghiệm, cách sống và khả năng. Sự khác
biệt, độc đáo trong mỗi người là tài sản vô
giá mà chúng ta cần trân trọng và chia sẻ.
Sự khác biệt tạo ra những cơ hội mới, hy
vọng mới, ước mơ mới và cả sự nhân ái
trong cộng đồng. Cộng đồng cần quan tâm
tới ước vọng cá nhân giúp cho con người
tìm được bản ngã đích thực của mình để
sống một cách thoải mái, cởi mở, hồn
nhiên và sáng tạo, “bản chất con người vốn
tốt đẹp, con người có lòng vị tha, có tiềm
năng kỳ diệu” (Nguyễn Quang Uẩn, 2010,
tr.12) và “con người ta phải đối xử với
nhau một cách tế nhị, cởi mở, biết lắng
nghe và chờ đợi, cảm thông với nhau”
(Nguyễn Quang Uẩn, 2010, tr.13). Quan
tâm tới người khiếm thị là một phần của sự
phát triển vì “chất lượng của một xã hội,
xét cho cùng, được đánh giá bằng cách đối
xử với những người dân yếu thế nhất trong
xã hội” (Nguyễn Thị Báo, 2011, tr.96).
2. Quyền được tiếp cận các công

trình công cộng của người khiếm thị
“Lịch sử loài người đã chứng minh
rằng, về mặt cơ thể học, xã hội bao giờ
cũng gồm hai nhóm người: người lành lặn
và người khuyết tật. Người khuyết tật là
một bộ phận dân cư, là nhóm người dễ bị
tổn thương, tồn tại khách quan trong xã hội
loài người” (Nguyễn Thị Báo, 2010, tr.5).
Người khuyết tật có ở các nước trên thế
giới, trong đó có Việt Nam. Tôn trọng và
đảm bảo quyền của người khuyết tật không
chỉ là vấn đề mang ý nghĩa nhân đạo, từ
thiện mà còn là vấn đề mang ý nghĩa kinh
tế, xã hội và pháp lý (Nguyễn Thị Báo,
2011, tr.5). Quyền của người khuyết tật đã
trở thành một định chế pháp lý quan trọng
trong luật quốc tế hiện đại. Đảm bảo quyền

của người khuyết tật là nghĩa vụ và lương
tri của nhân loại tiến bộ bởi vì “tất cả các
quyền con người và tự do cơ bản mang tính
phổ cập cho tất cả mọi người và do đó, cho
cả những người khuyết tật. Mọi người sinh
ra đều bình đẳng và đều có quyền sống và
phúc lợi, quyền được giáo dục và có việc
làm, quyền sống một cách độc lập và được
tham gia tích cực vào mọi mặt đời sống xã
hội. Bất kỳ một sự phân biệt trực tiếp hoặc
phân biệt đối xử tiêu cực khác đối với
người khuyết tật đều vi phạm các quyền

con người” (Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Trung tâm nghiên cứu quyền
con người, 1998, tr.126) và “… người
khuyết tật cần được đảm bảo cơ hội đồng
đều thông qua việc xóa bỏ tất cả các trở
ngại, định kiến xã hội về mặt thể chất, tài
chính, xã hội hoặc tâm lý mà đã loại trừ
hoặc hạn chế sự tham gia hoàn toàn của họ
vào đời sống xã hội” (Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm nghiên
cứu quyền con người, 1998, tr.127). Các
quy tắc tiêu chuẩn về bình đẳng hóa các cơ
hội cho người khuyết tật được Đại hội
đồng liên hợp quốc thông qua ngày 20-121993 (Nguyễn Thị Báo, 2011, tr.4; Nguyễn
Thị Báo, 2011, tr.16, tr.95, tr.97) là văn
bản ra đời từ kết quả của thập kỷ về người
khuyết tật. Công ước Quốc tế về người
khuyết tật được Liên Hợp quốc thông qua
ngày 13-12-2006 đã tiếp cận khái niệm
khuyết tật và người khuyết tật một cách
toàn diện dưới góc độ quyền con người
(Đàm Hữu Đắc, 2007, tr.4; Nguyễn Thị
Báo, 2011, tr.7, tr.95), công ước khẳng
định: “Tôn trọng sự khác biệt và chấp nhận
người khuyết tật như là một bộ phận và sự
đa dạng của con người và của nhân loại”
(Nguyễn Thị Báo, 2011, tr.17). Công ước
“thừa nhận rằng khuyết tật là một khái
77



SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 68 (02/2020)

vực tiếp cận các môi trường xây dựng và
giao thông công cộng (Bùi Sỹ Lợi, 2009,
tr.6; Nguyễn Thị Báo, 2007, tr.8).
Vấn đề quyền của người khuyết tật nói
chung, người khiếm thị nói riêng, không
còn là mối quan tâm của một quốc gia mà
đã trở thành mối quan tâm của cả cộng
đồng quốc tế. Năm 1981, Liên Hợp quốc
đã phát động “Năm quốc tế về người
khuyết tật” thông qua Chương trình hành
động vì người khuyết tật năm 1982 nhằm
đạt tới một xã hội công bằng cho tất cả mọi
người (Nguyễn Thị Báo, 2011, tr.5). Theo
tài liệu của Liên Hợp quốc, trên thế giới có
khoảng 700 triệu người khuyết tật, trong đó
có 200 triệu là trẻ em (Nguyễn Thị Kim
Anh và cộng sự, 2007, tr.15). Như vậy có
khoảng 10% dân số ở bất kỳ các quốc gia
là người khuyết tật. Hiến pháp các năm
1946, 1959, 1980, 1992 cũng đều khẳng
định người khuyết tật là công dân, là thành
viên của xã hội, có quyền lợi và nghĩa vụ
của một công dân, được chung hưởng
thành quả xã hội (Nguyễn Thị Báo, 2005,
tr.3; Bùi Hồng Lĩnh, 2009, tr.3). Chủ tịch

Hồ Chí Minh từng nói: tàn nhưng không
phế, câu nói đó khái quát và phản ánh rõ
quan điểm của Đảng, Nhà nước và nhân
dân Việt Nam luôn tôn trọng quyền, tự do,
phẩm giá và năng lực của người khuyết tật.
Người khuyết tật tuy là nhóm người đặc
biệt, dễ bị tổn thương cần được xã hội quan
tâm, nhưng họ vẫn có những quyền cơ bản
và bình đẳng như những người khác
(Nguyễn Thị Báo, 2011, tr.8). Người
khuyết tật cần xã hội quan tâm giúp đỡ
không chỉ để tồn tại mà họ có quyền yêu
cầu xã hội tạo cơ hội bình đẳng để họ thực
hiện quyền và nghĩa vụ của mình, khẳng
định vị trí và đóng góp vào sự phát triển
chung của xã hội (Nguyễn Thị Báo, 2011,

niệm ngày càng phát triển và rằng khuyết
tật là kết quả của việc tương tác giữa
những người bị khiếm khuyết và những rào
cản môi tường và thái độ làm mất đi sự
tham gia hiệu quả và đầy đủ của họ vào xã
hội trên cơ sở bình đẳng với những người
khác” và “những người khuyết tật là những
người có sự khiếm khuyết suốt đời cả về
thể chất, tinh thần, trí tuệ mà những khiếm
khuyết này tạo ra rào cản có thể hạn chế
khả năng tham gia đầy đủ và hiệu quả vào
xã hội trên cơ sở bình đẳng với những
người khác”. Các quốc gia tham gia Công

ước phải đảm bảo quyền được thụ hưởng
bình đẳng mọi dịch vụ công cộng của
người khuyết tật. Công ước quốc tế về các
quyền của người khuyết tật được xây dựng
dựa trên khuôn khổ tuyên ngôn Quốc tế về
nhân quyền, có hiệu lực ngày 3-5-2008 và
lần đầu tiên Công ước đã thiết lập quyền
của tất cả người khuyết tật trên toàn thế
giới. Đây là Hiệp ước đầu tiên mang lại vị
thế và quyền hợp pháp nhìn nhận tình trạng
khuyết tật như là một vấn đề về quyền con
người. Công ước còn có ý nghĩa đặc biệt
khi thay đổi cách nhìn đối với tình trạng
khuyết tật là một vấn đề xã hội chứ không
phải là vấn đề y tế và xác lập sự dịch
chuyển từ phương thức tiếp cận theo hướng
nhân đạo sang hướng nhân quyền. Ngoài
ra, còn có tuyên bố Melen Kellee về quyền
của những người mù, điếc năm 1977
(Nguyễn Thị Báo, 2007, tr.7), tuyên bố về
sự tham gia đầy đủ và bình đẳng của người
khuyết tật ở khu vực châu Á-Thái Bình
Dương năm 1993 (Nguyễn Thị Báo, 2007,
tr.7). Thập kỷ người khuyết tật khu vực
châu Á – Thái Bình Dương lần thứ hai từ
năm 2003 – 2012, khuôn khổ hành động
thiên niên kỷ Biwako hướng tới một xã hội
hòa nhập và không rào cản trong đó có lĩnh
78



NGUYỄN MINH KIÊN

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

tr.12). Pháp lệnh về người khuyết tật năm
1989 cũng đã khẳng định “Nhà nước
khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi
cho người tàn tật thực hiện các quyền bình
đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
và phát triển khả năng để ổn định cuộc
sống, hòa nhập cộng đồng và tham gia các
hoạt động xã hội” (Đàm Hữu Đắc, 2007,
tr.4-5). Nhằm đảm bảo quyền lợi và cơ hội
của người khuyết tật phù hợp với luật pháp
quốc tế, ngày 23-11-2007 Việt Nam đã ký
Công ước quốc tế về người khuyết tật
(Đàm Hữu Đắc, 2007, tr.5) và “các quốc
gia thành viên cam kết bảo đảm thúc đẩy
sự hiện thực hóa đầy đủ các quyền và tự do
cơ bản của toàn bộ những người khuyết tật
mà không có bất cứ sự phân biệt nào dựa
trên cơ sở khuyết tật” (Nguyễn Thị Báo
2011, tr.50). Năm 2010, Quốc hội đã thông
qua Luật người khuyết tật (Nguyễn Linh
Giang và cộng sự, 2014, tr.21; Nguyễn Thị
Báo, 2011, tr.149), trong đó có các quy
định khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi
để người khuyết tật thực hiện quyền bình
đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,

thúc đẩy an sinh xã hội và thực hiện mục
tiêu Thiên niên kỷ (Nguyễn Linh Giang và
cộng sự, 2014, tr.21).
Những rào cản về điều kiện cơ sở vật
chất ngăn cản những người khiếm thị có
thể tiếp cận bình đẳng như giao thông công
cộng, các công sở, công trình phúc lợi,
trường học, bệnh viện.v.v. Xã hội cần xem
người khiếm thị như là một bộ phận cấu
thành không thể tách rời của xã hội, họ
cũng có trách nhiệm tham gia vào các hoạt
động của cộng đồng và đóng góp năng lực
vào sự phát triển, đồng thời có quyền được
hưởng đầy đủ những thành quả phát triển
của nhân loại vì “mục tiêu và động lực
chính của sự phát triển là vì con người, do

con người” (Nguyễn Thị Báo, 2011, tr.74)
và “chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh
phúc con người là động lực to lớn phát huy
tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”
(Nguyễn Thị Báo, 2011, tr.76).
Điều 26, Pháp lệnh về người khuyết tật
đã quy định: “Việc đầu tư xây dựng mới
hoặc cải tạo công trình nhà ở, các công
trình công cộng và thiết kế, chế tạo các
dụng cụ sinh hoạt, các phương tiện giao
thông liên lạc phải tính đến nhu cầu sử
dụng của người khuyết tật, trước hết là

người khuyết tật các dạng thị giác, đồng
thời phải tuân thủ tiêu chuẩn, quy chuẩn
xây dựng do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành”. Ngày 10-7-1999, Chính
phủ ban hành nghị định số 55/1999/NĐCP, quy định chi tiết thi hành một số điều
của Pháp lệnh về Người khuyết tật, trong
đó có quy định các bộ, ngành phải có kế
hoạch triển khai pháp lệnh trên. Thực hiện
Pháp lệnh về Người khuyết tật và nghị định
của Chính phủ, năm 2002, Bộ xây dựng đã
chính thức ban hành Hệ thống quy chuẩn,
tiêu chuẩn xây dựng (Đăng Doanh, 2008,
tr.8; Nguyễn Thị Báo, 2011, tr.19; Nguyễn
Trọng Đàm, 2009, tr.5). Đây là hệ thống
các văn bản pháp quy và hướng dẫn về kỹ
thuật đảm bảo việc thiết kế xây dựng mới
và cải tạo các công trình công cộng, đường
và hè phố cho người khuyết tật có thể tiếp
cận và sử dụng, đồng thời là cơ sở pháp lý
cho các cơ quan chức năng khi xem xét,
thẩm định cấp phép các dự án đầu tư xây
(Đàm Hữu Đắc, 2007, tr.5; Nguyễn Thị
Báo, 2011, tr.219). Ngày 1-7-2004, Luật
xây dựng cũng đã chính thức có hiệu lực
thi hành, trong đó tại Điều 52 ghi rõ: “Đối
với các công trình công cộng, phải đảm
bảo thiết kế theo tiêu chuẩn cho người
79



SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 68 (02/2020)

khuyết tật”, hơn nữa “người khuyết tật chỉ
có cơ hội hòa nhập cộng đồng khi nhà
nước và xã hội tạo điều kiện cho người
khuyết tật có cơ hội tiếp cận và hưởng thụ
quyền được tiếp cận các công trình công
cộng” (Nguyễn Thị Báo, 2011, tr.218).
Luật của Người khuyết tật năm 2010 đã
quy định về quyền được hưởng thụ các giá
trị văn hóa, tiếp cận các công trình công
cộng và hòa nhập cộng đồng (Nguyễn Linh
Giang và cộng sự, 2014, tr.21; Nguyễn Thị
Báo, 2011, tr.221). Theo điều 40, đến ngày
01-01-2020, các công trình công cộng phải
đảm bảo điều kiện tiếp cận đối với NKT
như trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước,
nhà ga, bến xe, bến tầu, cơ sở giáo dục dạy
nghề, công trình văn hóa thể dục thể thao
(Nguyễn Thị Báo, 2011, tr.222). Đến ngày
01-01-2025, tất cả nhà chung cư, trụ sở làm
việc phải đảm bảo điều kiện tiếp cận đối
với người khuyết tật (Nguyễn Thị Báo,
2011, tr.223).
Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã phê
duyệt đề án Trợ giúp người khuyết tật giai
đoạn 2012-2020 nhằm đẩy mạnh chính
sách trợ giúp người khuyết tật (Nguyễn

Linh Giang và cộng sự, 2014, tr.21). Theo
đó, đề án đưa ra những chỉ tiêu cụ thể
nhằm thúc đẩy sự hòa nhập của người
khuyết tật trong các lĩnh vực y tế, giáo dục.
lao động, xây dựng, giao thông, công nghệ
thông tin, văn hóa, thể thao, pháp lý. Như
vậy, có thể thấy Việt Nam có lộ trình rõ
ràng để trở thành thành viên chính thức của
Công ước về Quyền của người khuyết tật.
Một trong những chính sách thúc đẩy
người khuyết tật tham gia hòa nhập cộng
đồng là nâng cao khả năng tiếp cận các
công trình công cộng (Bùi Hồng Lĩnh,
2009, tr. 4).
Để đảm bảo mọi hoạt động xây dựng

tuân thủ theo quy chuẩn xây dựng đã được
ban hành theo và thực hiện theo quy định
của Luật xây dựng, các cơ quan chức năng
phải thực hiện chặt chẽ khâu kiểm tra,
giám sát và thẩm định thiết kế cơ sở, thiết
kế kỹ thuật trong quá trình thực hiện các
dự án đầu tư xây dựng công trình công
cộng và các công trình giao thông, tạo điều
kiện cho người khuyết tật tiếp cận và sử
dụng dễ dàng (Nguyễn Thị Báo, 2011,
tr.219), đây là yêu cầu tất yếu trên tinh thần
“tôn trọng sự khác biệt và chấp nhận người
khuyết tật như là một phần của sự đa dạng
nhân loại và nhân văn” (Nguyễn Thị Báo,

2011, tr.48), phát huy truyền thống tương
thân, tương ái đối với những người yếu thế
trong xã hội, đảm bảo rằng mọi cá nhân
đều có thể bình đẳng đóng góp năng lực
cho sự phát triển của cộng đồng.
Theo tài liệu (Bộ Xây dựng, 2004,
tr.5), các thể loại công trình sau phải đảm
bảo để người khuyết tật sử dụng:
- Các công trình y tế: bệnh viện, trung
tâm chỉnh hình và phục hồi chức năng,
các cơ sở khám chữa bệnh, trung tâm điều
dưỡng;
- Các cơ quan hành chính các cấp:
ủy ban hành chính các cấp, tòa án, viện
kiểm sát;
- Các công trình giáo dục: trường
học phổ thông các cấp, trường dạy nghề,
trường đại học, trường trung học và chuyên
nghiệp;
- Các công trình thể thao: sân vận
động, sân thể thao, nhà thi đấu thể thao;
- Các công trình văn hóa: công viên,
khu vui chơi giải trí, vườn thú, nhà hát, rạp
chiếu bóng, bảo tàng, triển lãm, nhà văn
hóa, câu lạc bộ, thư viện, các khu du lịch,
danh lam thắng cảnh;
- Các công trình dịch vụ công cộng:
80



NGUYỄN MINH KIÊN

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

khảo sát vấn đề người tàn tật. Tuy nhiên,
các cuộc điều tra với quy mô hạn hẹp chỉ
phục vụ cho mục đích thực hiện các nhiệm
vụ hoặc yêu cầu cụ thể của ngành hay địa
phương, đó là chưa kể sự thiếu nhất quán,
không rõ ràng ngay từ những khái niệm,
định nghĩa cho tới các tiêu chí phân loại,
tiêu chí đánh giá… dẫn tới kết quả nhiều số
liệu còn thiếu hoặc trùng lặp, chưa phản
ánh đầy đủ về hiện trạng về vấn đề người
khuyết tật ở Việt Nam. Theo thống kê của
Viện mắt Trung ương, tỷ lệ người khiếm
thị năm 2015 là 1,8% dân số, tỷ lệ người
hơn 50 tuổi với thị lực kém tăng lên tới 2,1
triệu người (Nguyễn Xuân Hiệp, 2018).
Trong những năm gần đây, các tật khúc xạ
về mắt phổ biến trong thanh thiếu niên với
khoảng 15-20% học sinh ở nông thôn, 3040% học sinh ở thành phố (Nguyễn Xuân
Hiệp, 2018). Có thể thấy tỷ lệ về tật thị
giác ngày càng gia tăng sẽ gây trở ngại lớn
trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát
triển kinh tế - văn hóa - xã hội một cách
bền vững.
“Một trong các yếu tố cơ bản của quy
hoạch đô thị bền vững là tổ chức địa điểm
cho các cuộc gặp gỡ và tăng cường liên kết

cộng đồng, không gian đó được gọi là
không gian công cộng” (Lê Thị Bích
Thuận, 2016b). Công trình công cộng ngày
càng phát triển với nhiều loại hình, từ
những loại hình cơ bản ban đầu như đình
làng, chợ, đường phố, quảng trường tới các
loại hình không gian công cộng của xu
hướng đô thị hiện đại như nhà hát, nhà thi
đấu, công viên, trung tâm mua sắm, khu
vực đi dạo, vườn hoa.v.v. Sự thay đổi về
cấu trúc văn hóa và lối sống tạo nên các
hình thái mới về không gian công cộng,
phong phú và đa dạng hơn, nhằm đáp ứng
nhu cầu thiết yếu của xã hội. Để đảm bảo

khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ, ga hàng
không, ga xe lửa, bến xe ô tô, bến cảng vận
chuyển hành khách, cửa hàng ăn uống, bưu
điện, trung tâm thương mại, chợ, siêu thị,
ngân hàng;
- Nhà ở chung cư;
- Đường và hè phố.v.v.
3. Thực trạng vấn đề tiếp cận không
gian công cộng của người khiếm thị tại
Việt Nam
Đặc thù lịch sử Việt Nam trải qua
nhiều cuộc chiến tranh, những di chứng
của chiến tranh để lại không hề nhỏ, nhiều
người khuyết tật là bệnh binh, thương
binh. Có nhiều nguyên nhân gây ra khuyết

tật như bẩm sinh (35,8%), bị bệnh (32,34
%), tai nạn lao động, tai nạn giao thông và
khuyết tật do hậu quả chiến tranh cũng
chiếm tới 25,65% (Bùi Hồng Lĩnh, 2007,
tr.3; Nguyễn Thị Báo, 2011, tr.31). Với
truyền thống uống nước nhớ nguôn, tạo
điều kiện để những người có công với đất
nước có thể hòa nhập bình đẳng trong xã
hội. Dự báo trong nhiều năm tới, số lượng
người khuyết tật nói chung, người khiếm
thị nói riêng chưa giảm do tác động của ô
nhiễm môi trường, tai nạn giao thông, tai
nạn lao động, hậu quả thiên tai.v.v. Ngoài
ra, Việt Nam là một trong những quốc gia
có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất ở châu
Á và đứng thứ bảy trên thế giới (Nguyễn
Linh Giang và cộng sự, 2014, tr.19). Số
lượng người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay
là 7,5 triệu người, chiếm khoảng 8.7% dân
số cả nước (Nguyễn Linh Giang và cộng
sự, 2014, tr.19). Sự lão hóa dân số kéo
theo vấn đề suy giảm thị lực ở một bộ
phận dân cư.
Trong những năm gần đây, với chức
năng nhiệm vụ được giao, nhiều tổ chức,
cơ quan đã tiến hành một số cuộc điều tra,
81


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY


No. 68 (02/2020)

sự hài hòa trong không gian công trình
công cộng, cần hướng tới sự cân bằng lợi
ích, thiết lập những giá trị văn minh, mang
tính giáo dục và phát triển cộng đồng,
trong đó có quyền được tiếp cận của người
khuyết tật, “phân biệt đối xử với bất kỳ
một người nào căn cứ trên sự khuyết tật
của họ đều là sự xâm hại đến nhân phẩm và
chân giá trị vốn có của con người” (Công
ước Quốc tế về các quyền của người
khuyết tật) và “nhu cầu của người khuyết
tật phải được đảm bảo thụ hưởng một cách
đầy đủ và không có bất kỳ sự phân biệt đối
xử” (Công ước Quốc tế về các quyền của
người khuyết tật).
Theo khảo sát sơ bộ, mặc dù đã có
những tiến bộ trong thời gian gần đây
nhưng không gian công trình công cộng tại
Việt nam hầu như chưa có những yếu tố
cho người khiếm thị tiếp cận (Mai Long,
2016). Theo kết quả điều tra (Lê Thị Bích
Thuận, 2016a) (Châu Anh, 2019) tại 137
công trình công cộng tại quận Hoàn Kiếm
và quận Ba Đình do tổ chức người khuyết
tật Quốc tế thực hiện, chỉ 11% công trình
cho phép người khuyết tật sử dụng thuận
tiện. Hầu như các trung tâm thương mại,

giáo dục, y tế, hành chính… không có
không gian dành cho người khuyết tật. Hệ
thống giao thông cũng không có lối đi dành
cho người khiếm thị, tạo ra một rào cản
khá lớn hạn chế người khiếm thị có thể tiếp
cận và hòa nhập cộng đồng. Tại vỉa hè,
vườn hoa, đường đi dạo không đáp ứng
theo quy định, quy chuẩn xây dựng công
trình đảm bảo người khuyết tật sử dụng.
Thiếu hệ thống biển báo, biển chỉ dẫn hỗ
trợ người khuyết tật, trong khi chúng ta đã
có Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Quy chuẩn,
Tiêu chuẩn, đề án trợ giúp người khuyết
tật. Nhưng vì nhiều lý do khách quan và

chủ quan nên trong quá trình thực hiện
thiếu sự đồng bộ, phụ thuộc nhiều vào mức
độ quan tâm của các cấp chính quyền nên
không đạt được hiệu quả như mong muốn.
Có thể thấy, từ những văn bản, quy định
đến thực tế cuộc sống là cả một vấn đề và
cần có thời gian để thực hiện. Không khó
để nhận ra, trong hàng nghìn công trình
kiến trúc hiện đại đã và đang mọc lên ngày
càng nhiều trong các đô thị lớn như
Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh đều thiếu
những giải pháp cho người khuyết tật nói
chung, người khiếm thị nói riêng tiếp cận
và hòa nhập. Công ước Quốc tế về các
quyền của người khuyết tật chỉ ra tầm quan

trọng của việc tiếp cận đối với người
khuyết tật trong môi trường vật chất, kinh
tế, văn hóa, xã hội, chỉ như vậy mới hỗ trợ
người khuyết tật được hưởng quyền con
người và các quyền tự do cơ bản một cách
đầy đủ. “Rất nhiều rào cản trên con đường
của người khiếm thị, nhiệm vụ của chúng
ta là phải loại bỏ rào cản đó” (Peter Backer
và cộng sự, 1995, tr.7), cần có những giải
pháp thiết kế phù hợp với cho người khiếm
thị. Hạn chế về khả năng thị giác, người
khiếm thị sử dụng các giác quan khác để
định hướng và di chuyển như khứu giác,
thính giác, mạc giác, cảm giác vận động,
cảm giác thăng bằng (Nguyễn Minh Kiên,
2018, tr.11), những người được xem là
khuyết tật về thị giác khi mất khả năng
nhìn và cảm nhận ánh sáng, mầu sắc, hình
ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi
trường bình thường, người khuyết tật thị
giác có thể ở các mức độ khác nhau như
không có khả năng phân biệt sáng tối, hạn
chế tầm nhìn, hạn chế khả năng nhìn rõ, bị
lóa khi gặp ánh sáng mạnh (Nhà xuất bản
xây dựng, 2015, tr.10), đây là những cơ sở
để các nhà thiết kế, kiến trúc sư có thể kiến
82


NGUYỄN MINH KIÊN


TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

giữa con người với nghệ thuật và giữa con
người với nhau. Bản chất của nghệ thuật là
hoạt động sáng tạo để truyền tải cảm xúc.
Ngôn ngữ thị giác trong mỗi không gian
công trình công cộng có thể không tạo
nhiều giá trị cảm xúc thẩm mỹ với người
khiếm thị do những hạn chế khả năng nhìn,
nhưng những giải pháp giúp họ tiếp cận
các công trình công cộng có thể tạo cho họ
nguồn cảm xúc khác, đó là cảm xúc được
quan tâm, chia sẻ. Với cảm xúc nào thì đó
cũng là thành công của nghệ thuật, bởi vì
giá trị của một tác phẩm nghệ thuật chính
là sự lan tỏa cảm xúc tới nhiều người nhất
với nhiều cung bậc khác nhau. Người
khiếm thị cảm nhận được giá trị của nghệ
thuật không chỉ bằng khả năng thị giác còn
lại, mà còn là sự cảm nhận của nhiều giác
quan khác, trong đó có cảm nhận giá trị
nhân bản từ cộng đồng. Những không gian
như vậy sẽ chạm tới cảm xúc sâu kín và
tinh tế nhất trong mỗi con người, đó là lòng
trắc ẩn, bởi ở đó không chỉ là nghệ thuật,
mà còn là sự trăn trở và suy tư về xã hội.
Nghệ thuật vị nhân sinh, vì vậy nghệ thuật
cũng phải đáp ứng mọi nhu cầu của xã hội.
Người khuyết tật nói chung, người khiếm

thị nói riêng cần được “công nhận phẩm
giá và giá trị vốn có, quyền bình đẳng và
bất di bất dịch của tất cả các thành viên
trong gia đình nhân loại như một nền tảng
tự do, công bằng và hòa bình trên thế giới”
(Công ước Quốc tế về các quyền của người
khuyết tật).
Cuộc sống mưu sinh của người khuyết
tật nói chung, người khiếm thị nói riêng
gặp vô vàn khó khăn và số phận của họ
cũng không ai giống ai. Mỗi mảnh đời là
những câu chuyện của ý chí và nghị lực, là
nỗi khắc khoải và trái tim khát khao thể
hiện giá trị bản thân. Cộng đồng phải tạo

tạo không gian công trình công cộng vừa
đảm bảo được giá trị nghệ thuật, vừa đảm
bảo cho người khiếm thị có thể tiếp cận
theo quan điểm của Thiết kế phổ quát
(Selwyn Goldsmith, 2000, tr.1), loại bỏ tất
cả những trở ngại, rào cản đối với người
khuyết tật nhằm “thúc đẩy sự tham gia của
họ trong mọi lĩnh vực văn hóa, xã hội,
chính trị, kinh tế, dân sự với những cơ hội
bình đẳng” (Công ước quốc tế về các
quyền của người khuyết tật) và “mỗi cá
nhân có trách nhiệm với các cá nhân khác
và với cộng đồng của chính họ, đều phải có
trách nhiệm nỗ lực thúc đẩy và tuân thủ các
quyền được công nhận trong Luật quốc tế

về nhân quyền” (Công ước Quốc tế về các
quyền của người khuyết tật). “Không gian
công cộng có thể hiểu là những không gian
mà ở đó tất cả mọi người đều có quyền tiếp
cận bất luận địa vị xã hội hay điều kiện
kinh tế, quyền này được bảo vệ bởi pháp
luật. Môi trường công cộng được cấu thành
từ các yếu tố không gian, môi trường, tính
công cộng và cộng đồng, bao gồm cả các
yếu tố vật thể như không gian thuộc sở hữu
công cộng và được tham gia các hoạt động
sống, lao động, nghỉ ngơi… bởi cộng
đồng” (Nguyễn Việt Huy và cộng sự,
2018, tr.22). Không gian công cộng cộng
có thể là quảng trường, trung tâm thương
mại, giáo dục, y tế, văn hóa, hành chính.
Vẻ đẹp của không gian công trình công
cộng, hay nói một cách khác, vẻ đẹp của
một tác phẩm nghệ thuật không chỉ đẹp về
tỷ lệ, hình khối, mầu sắc, ánh sáng, mà ở
trong tác phẩm đó, ta còn nhận thấy vẻ đẹp
của sự cảm thông và chia sẻ, của sự nhân ái
trong cộng đồng. Trong không gian công
cộng như vậy, chúng ta sẽ có một chút
ngậm ngùi, một chút tĩnh lặng trước những
ồn ào của cuộc sống, đó là nơi giao cảm
83


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY


No. 68 (02/2020)

điều kiện để người khuyết tật hòa nhập trên
tinh thần của Công ước về các quyền của
người khuyết tật tại Điều 5: bình đẳng và
không phân biệt đối xử. Chúng ta biết, nhà
vật lý lý thuyết Stephan Hawking, người
đầu tiên khởi đầu cho một nền khoa học vũ
trụ dựa trên sự thống nhất giữa thuyết
tương đối tổng quát và cơ học lượng tử.
John Bramblitt, họa sỹ khiếm thị đương đại
nổi tiếng nước Mỹ, sử dụng kỹ thuật đặc
biệt để vẽ tranh mà không cần đến thị giác.
Nick Vujicic bằng ý chí và nghị lực, đã
truyền cảm hứng khát vọng trong cuộc
sống cho giới trẻ toàn thế giới. Đó là
những minh chứng về khả năng phi thường
trong mỗi con người, dù họ là người tàn tật
và kém may mắn. Công ước Quốc tế về các
quyền của người khuyết tật “ghi nhận
những đóng góp hiện tại và tiềm năng có
giá trị mà người khuyết tật đã cống hiến
cho sự thịnh vượng và đa dạng của cộng
đồng, và rằng nhận thức của người khuyết
tật được nâng cao về việc mình thuộc về xã
hội và những tiến bộ trong quá trình phát
triển kinh tế, xã hội, con người và quá trình
xóa đói giảm nghèo là kết quả của việc
thúc đẩy cơ hội hưởng thụ đầy đủ quyền

con người, các quyền tự do cơ bản và sự
tham gia của người khuyết tật”. Quan tâm
tới người khiếm thị cũng chính là sự tiếp
nối truyền thống rất nhân văn của dân tộc
trên tinh thần tương thân tương ái: Lá lành
đùm lá rách, hãy cho những người khuyết
tật nói chung, người khiếm thị nói riêng
một điểm tựa, đó là sự đồng cảm và chia sẻ
với những khó khăn, họ sẽ có cơ hội phát
huy bản ngã và giá trị năng lực độc đáo của
mỗi cá nhân, góp phần vào sự phát triển đa
dạng của cộng đồng.
4. Kết luận
Nhìn chung, người khuyết tật được xã

hội xem như những người phụ thuộc vào
người khác trong cuộc sống hàng ngày. Họ
không có được sự tôn trọng về khả năng
cũng như những sở thích riêng, đó là
nguyên nhân gây cản trở người khuyết tật
hòa nhập trở lại với cộng đồng. Mặc dù
trong những năm gần đây đã có những cải
thiện đáng kể, nhưng thành kiến vẫn tồn
tại, người khuyết tật vẫn không có địa vị
bình đẳng trong xã hội so với những người
bình thường. Để thay đổi định kiến và cải
thiện tình hình, cần giáo dục và tuyên
truyền và xúc tiến những hoạt động tương
tác giữa người khuyết tật với cộng đồng,
phát triển tiềm năng và khả năng đặc biệt

của người khuyết tật, cần loại bỏ các rào
cản cản trở người khuyết tật tiếp cận các
công trình công cộng, “nâng cao khả năng
sử dụng các công trình công cộng đảm bảo
cho người khuyết tật ngày càng tiếp cận
được dễ dàng, thuận lợi hơn” (Nguyễn
Trọng Đàm, 2009, tr.9), “cần khẳng định
rằng đây không phải là những ưu tiên, từ
thiện hay nhân đạo của Nhà nước, xã hội
đối với người khuyết tật mà là trách nhiệm
bảo đảm các quyền đó của người khuyết tật
với tư cách là những quyền con người tự
nhiên, vốn có, bình đẳng như những thành
viên khác trong xã hội” (Trần Thái Dương,
2015).
Việt Nam đã tham gia công ước quốc
tế về người khuyết tật, vì vậy cần có lộ
trình rõ ràng để các chính sách dành cho
người khuyết tật được thực thi, trong đó có
vấn đề quyền được tiếp cận các công trình
công cộng, đây cũng là chuẩn mực cho một
cộng đồng phát triển văn minh, hiện đại,
bền vững và phù hợp với xu thế hội nhập
Quốc tế. Trước mắt cần cải tạo ở mức phù
hợp các công trình công cộng đã xây dựng
nhưng chưa đạt tiêu chuẩn người khuyết tật
84


NGUYỄN MINH KIÊN


TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

tiếp cận. Các giai đoạn sau cần đầu tư có
chiều sâu, tổ chức không gian cho tất cả
các công trình công cộng theo tiêu chuẩn
tiếp cận của người khuyết tật như lắp đặt
hệ thống nghe nhìn, hỗ trợ tín hiệu âm
thanh, tín hiệu xúc giác, hệ thống biển báo
chữ nổi Braille. Đây cũng là vấn đề được
đưa ra trong Công ước Quốc tế về các
quyền của người khuyết tật tại Điều 9. Các
công trình công cộng nếu đầu tư xây dựng
có tính đến nhu cầu của người khuyết tật sẽ
giúp họ hoà nhập và đóng góp vào sự phát
triển xã hội một cách dễ dàng hơn. Hạn chế
về khả năng thị giác, người khiếm thị có
thể không cảm nhận được giá trị nghệ thuật
của công trình công cộng, tuy nhiên họ có
thể cảm nhận giá trị nhân bản từ cộng
đồng. Điều này được coi là đòi hỏi tất yếu
khách quan, xuất phát từ nhu cầu tôn trọng

và bác ái, là tiếng gọi của lương tri nhân
loại, “người khuyết tật có các quyền cơ bản
của con người như mọi thành viên khác
trong xã hội” và “có quyền hưởng thụ văn
hóa, tiếp cận các công trình công cộng, hòa
nhập cộng đồng” (Nguyễn Thị Báo, 2011,
tr.51). Hỗ trợ người khuyết tật hòa nhập

cộng đồng, tạo cơ hội bình đẳng để họ
vươn lên làm chủ cuộc sống, tức là chuyển
từ việc hỗ trợ mang tính phong trào thiện
nguyện, ban ơn sang hỗ trợ nguồn lực và
phương thức cho người khuyết tật nói
chung, người khiếm thị nói riêng chủ động
xây dựng cuộc sống bằng chính năng lực
và trí tuệ của họ, đây chính là sự phát triển
mang tính bền vững, chuyển từ sự chăm
sóc tách biệt cộng đồng sang hòa nhập
cộng đồng, cùng đóng góp năng lực phát
triển xã hội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Châu Anh. (2019, ngày 08 tháng 5). Người khuyết tật khó tiếp cận công trình công cộng.
Truy xuất từ http:// www.baodansinh.vn.
Nguyễn Thị Kim Anh, Nguyễn Hồng Hương. (2007). “Không gian dành cho người khuyết
tật”. Tạp chí Xây dựng, số 8, tr.15.
Nguyễn Thị Báo. (2005). “Các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của người khuyết tật trong
pháp luật Việt Nam”. Tạp chí Luật học, số 6, tr.3.
Nguyễn Thị Báo. (2007). “Quyền của người khuyết tật trong các văn kiện Quốc tế về
quyền con người”. Tạp chí Luật học, số 10, tr.5, tr.7, tr.8.
Nguyễn Thị Báo. (2011). Pháp luật về quyền của Người khuyết tật Việt Nam hiện nay.
NXB Tư pháp, tr.3, tr.5, tr.8, tr.12, tr.16-17, tr.19, tr.31,tr.48-51, tr.74, tr.76, tr.95-97,
tr.218-219, tr.221-222.
Bộ Xây dựng. (2004). Quy chuẩn và tiêu chuẩn Xây dựng công trình để đảm bảo người tàn
tật tiếp cận sử dụng, tr.5.
Đăng Doanh. (2008). “Những hướng đi mới cho người khiếm thị”. Tạp chí Lao động và Xã
hội, số 332, tr.42-43.
Trần Thái Dương. (2015). Phê chuẩn công ước về quyền của người khuyết tật và việc thực

thi nghĩa vụ thành viên công ước. Truy xuất từ .
85


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 68 (02/2020)

Đàm Hữu Đắc. (2007). “Tạo cơ hội cho người khuyết tật hòa nhập và tiếp cận đầy đủ trong
quá trình phát triển”. Tạp chí Lao động và Xã hội, số 324, tr.4-5.
Nguyễn Trọng Đàm. (2009). “Tình hình thực hiện chính sách trợ giúp người tàn tật và
những vấn đề đặt ra”. Tạp chí Lao động và Xã hội, tr. 9.
Nguyễn Linh Giang, Nguyễn Thu Hương. (2014). “Đảm bảo quyền của một số đối tượng
dễ bị tổn thương”. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2(311), tr.19, tr.21.
Nguyễn Xuân Hiệp. (2018, ngày 06 tháng 11). Phòng, chống mù lòa ở Việt Nam: Thành
tựu và những thách thức mới. Truy xuất từ .
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm nghiên cứu quyền con người. (1998).
Các văn kiện quốc tế về quyền con người. NXB Chính trị quốc gia, tr.126-127.
Nguyễn Việt Huy, Nguyễn Hải Vân Hiền. (2018). “Đôi điều suy nghĩ về không gian công
cộng ở Việt Nam”. Tạp chí Kiến trúc, Hội kiến trúc sư Việt Nam, số 6, tr.22.
Nguyễn Minh Kiên. (2018). “Nghệ thuật tổ chức không gian nội thất công trình công cộng
cho người khiếm thị tiếp cận - từ giá trị nhân văn tới giá trị thẩm mỹ”. Tạp chí Kiến
trúc và Xây dựng, số 30, ISSN 1859-350X, tr.10-14.
Bùi Hồng Lĩnh. (2009). “Quan điểm của Đảng, Nhà nước về chính sách trợ giúp người
khuyết tật ở nước ta và một số định hướng”. Tạp chí Lao động và Xã hội, số 356,
tr.3, tr.4.
Mai Long. (2016, ngày 20 tháng 9). Người khuyết tật khó tiếp cận an sinh xã hội. Truy
xuất từ .
Bùi Sỹ Lợi. (2009). “Sự cần thiết phải ban hành luật về người khuyết tật”. Tạp chí Lao
động và Xã hội, số 356, tr.6.

NXB Xây dựng. (2015). Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây dựng công trình đảm bảo
người khuyết tật tiếp cận và sử dụng, tr.10.
Barker, P., Barrick, J., Wilson, R. (1995). Building Sight. RNIB, ISPN 1 85878 057 8
(hardback), ISBN 1 85878 074 8 (paperback), pg.7.
Goldsmith, S. (2000). Universal design. Architectural press, Oxfort, First published, pg.1.
Lê Thị Bích Thuận. (2016a, ngày 25 tháng 10). Không gian công cộng tại Hà Nội: Người
khuyết tật khó tiếp cận. Truy xuất từ .
Lê Thị Bích Thuận. (2016b, ngày 31 tháng 12). Kiến trúc vì cộng đồng cho người khuyết
tật tại Hà Nội. Truy xuất từ .
Nguyễn Quang Uẩn. (2010). Tâm lý học đại cương. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội,
tr.12-13.
Ngày nhận bài: 26/8/2019

Biên tập xong: 15/02/2020
86

Duyệt đăng: 20/02/2020



×