Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

LV Thạc sỹ_Hoàn thiện công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh tại công ty thông tin di động VMS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 119 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của đề tài

Đối với doanh nghiệp, kế hoạch hoá là khâu đầu tiên, bộ phận quan trọng của
công tác quản lý. Hoạt động này giúp doanh nghiệp hoạch định các mục tiêu hoạt
động, dự báo các khả năng và nguồn lực, xác định và đánh giá các phương án hoạt
động nhằm thực hiện các mục tiêu sản xuất kinh doanh. Các phương án kế hoạch với
các sản phẩm khác nhau theo thời gian (chiến lược, chương trình, dự án, kế hoạch tác
nghiệp…) là công cụ để điều hành và chỉ huy sản xuất, là cơ sở xác định nhiệm vụ và
mối quan hệ công tác giữa các bộ phận và giữa những người lao động trong quá trình
thực thi các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh.
Nước ta đang hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế khu vực và thế giới với đỉnh
cao là việc gia nhập WTO tháng 11/2006. Cùng với quá trình hội nhập, môi trường
kinh doanh ngày càng trở nên biến động và mang tính cạnh tranh cao. Thực tế cho
thấy, để phát triển bền vững và đạt được tối đa mục tiêu đã đề ra trong phạm vi nguồn
lực hữu hạn, càng trong môi trường cạnh tranh cao, càng đòi hỏi doanh nghiệp phải có
kế hoạch kinh doanh cụ thể. Việc lập các mục đích, quyết định các mục tiêu của Công
ty, huy động các nguồn lực thực hiện và xác định cách đánh giá việc thực hiện các mục
tiêu đó,.. giúp công ty tận dụng các cơ hội để tăng khả năng thành công và dự phòng
các rủi ro có thể xảy ra.
Viễn thông là một ngành trong hệ thống kết cấu hạ tầng của nền kinh tế quốc
dân, có vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, phải phát triển trước một bước
so với các ngành kinh tế khác. Trong đó, dịch vụ thông tin di động là một trong những
dịch vụ viễn thông cơ bản. Cùng với quá trình hội nhập và phát triển, thị trường viễn
thông Việt Nam đang và sẽ có nhiều biến động lớn theo hướng tự do hơn, mở cửa hơn.
Trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ thông tin di động, tính đến thời điểm hiện nay,
ngoài bốn nhà cung cấp là Công ty Thông tin di động VMS-MobiFone, Công ty dịch
vụ viễn thông VinaPhone, và Công ty điện tử viễn thông quân đội (Viettel), Công ty cổ


phần viễn thông Hà Nội (HT Mobile) khai thác công nghệ GSM, có thêm 02 doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ theo chuẩn công nghệ CDMA là Công ty cổ phần dịch vụ bưu
chính viễn thông Sài gòn (S-Fone), Công ty điện tử viễn thông điện lực (EVN
Telecom).
Công ty Thông tin di động Việt nam (Vietnam Mobile Telecom Service
Company - viết tắt là VMS) là doanh nghiệp trực thuộc Tổng công ty Bưu chính Viễn

1


thông Việt nam, nay là Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt nam - VNPT. Được thành
lập tháng 04/1993, sự ra đời của Công ty đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong sự
phát triển của lĩnh vực thông tin di động nói riêng và của ngành bưu chính - viễn thông
nói chung. Là doanh nghiệp đầu tiên kinh doanh loại hình dịch vụ thông tin di động,
Công ty VMS đã sớm khẳng định được vị thế của mình, nhanh chóng chiếm lĩnh được
thị trường, kinh doanh có lãi, đưa thương hiệu dịch vụ MobiFone trở thành thương
hiệu có uy tín trên thị trường.
Để tiếp tục tăng trưởng và phát triển, giữ vững vị trí dẫn đầu trong môi trường
kinh doanh mang tính cạnh tranh cao trong thời gian tới, đòi hỏi Công ty VMS phải
đặc biệt chú trọng thực hiện tốt công tác kế hoạch. Các cán bộ quản trị, đặc biệt là các
cán bộ quản trị cấp cao, cần nhận thức đầy đủ vai trò, tầm quan trọng và nội dung của
công tác kế hoạch hoá để vận dụng trong quản trị điều hành hoạt động doanh nghiệp.
Trong công tác kế hoạch hoá, việc lập kế hoạch là hoạt động quan trọng nhất. Chính vì
lý do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện công tác xây dựng kế hoạch sản
xuất - kinh doanh tại Công ty Thông tin di động”. Mặc dù đây là một vấn đề quan
trọng và cấp thiết đối với Công ty nhưng cho tới nay vẫn chưa có tài liệu nghiên cứu
cụ thể về công tác xây dựng kế hoạch tại Công ty VMS.
2.

Mục đích nghiên cứu


-

Hệ thống hoá lý luận cơ bản về công tác xây dựng kế hoạch sản xuất - kinh
doanh của doanh nghiệp.

-

Phân tích và đánh giá thực trạng công tác xây dựng kế hoạch sản xuất - kinh
doanh của Công ty VMS để tìm ra giải pháp hoàn thiện.

3.

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác xây dựng kế hoạch sản xuất -kinh
doanh hàng năm tại Công ty VMS trong giai đoạn từ năm 2002 - 2007.
4.

Phương pháp nghiên cứu

Sử dụng một số phương pháp nghiên cứu kinh tế đặc trưng như phương pháp
phân tích tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, so sánh, khảo sát
thực nghiệm.
5.

Các đóng góp của luận văn

-


Hệ thống hoá các kiến thức, lý luận chung về công tác xây dựng kế hoạch trong
các doanh nghiệp viễn thông

-

Luận văn phân tích thực trạng công tác xây dựng kế hoạch sản xuất - kinh doanh
hiện nay của Công ty VMS, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn

2


thiện công tác xây dựng kế hoạch sản xuất - kinh doanh tại Công ty trong thời
gian tới.
6.

Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia thành ba chương:
-

Chương 1:

Lý luận chung về công tác xây dựng kế hoạch kinh doanh của doanh
nghiệp viễn thông

-

Chương 2:


Thực trạng công tác xây dựng kế hoạch sản xuất - kinh doanh của
công ty Thông tin di động

-

Chương 3:

Một số giải pháp hoàn thiện công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh tại Công ty Thông tin di động

3


CHƯƠNG 1



LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG KẾ HOẠCH

KINH DOANH

CỦA DOANH NGHIỆP VIỄN THÔNG
1.1

1.1.1

KẾ HOẠCH HOÁ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP

Khái niệm chung về kế hoạch hoá hoạt động kinh doanh

Kế hoạch hoá từ lâu đã được coi như là một công cụ để thiết lập cũng như thực

hiện các quyết định chiến lược. Tuy nhiên vai trò này không phải lúc nào cũng được
thừa nhận một cách nhất quán, nó có thể là công cụ quản lý không thể thiếu được đối
với đối tượng này, nhưng lại là nguyên nhân dẫn tới sự cứng nhắc đối với đối tượng
khác. Kế hoạch hoá có nhiều ý nghĩa khác nhau và đã từng là chủ đề của nhiều ý kiến
trái ngược, cho dù nó liên quan đến doanh nghiệp hay là nền kinh tế quốc dân.
Hiểu một cách tổng quát nhất, kế hoạch hoá là một phương thức quản lý theo
mục tiêu. Nó là hoạt động của con người trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy
luật xã hội và tự nhiên, đặc biệt là các quy luật kinh tế để tổ chức quản lý các đơn vị
kinh tế - kỹ thuật, các ngành, các lĩnh vực hoặc toàn bộ nền sản xuất xã hội theo những
mục tiêu thống nhất.
Theo cách hiểu trên, kế hoạch hoá được thực hiện ở nhiều quy mô và phạm vi
khác nhau như: kế hoạch hoá theo vùng, địa phương, kế hoạch hoá ngành, lĩnh vực, kế
hoạch hoá doanh nghiệp. Kế hoạch hoá doanh nghiệp được xác định là một phương
thức quản lý doanh nghiệp theo mục tiêu, nó bao gồm toàn bộ các hành vi can thiệp
một cách có chủ định của các nhà lãnh đạo và quản lý doanh nghiệp vào các lĩnh vực
sản xuất kinh doanh của đơn vị mình nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra. Hay nói
cách khác, kế hoạch hoá doanh nghiệp là một quy trình ra quyết định cho phép xây
dựng một hình ảnh mong muốn về trạng thái tương lai của doanh nghiệp và quá trình
tổ chức triển khai thực hiện mong muốn đó.
Như vậy, kế hoạch hoá trong doanh nghiệp là thể hiện kỹ năng tiên đoán mục
tiêu phát triển và tổ chức quá trình thực hiện mục tiêu đặt ra. Công tác này bao gồm
các hoạt động:
-

Lập kế hoạch

Đây là khâu giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong công tác kế hoạch hoá doanh
nghiệp, nó là quá trình xác định các mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch và đề xuất chính sách

4



giải pháp áp dụng. Kết quả của việc lập kế hoạch là một bản kế hoạch của doanh
nghiệp được hình thành và nó chính là cơ sở cho việc thực hiện các công tác sau của
kế hoạch hoá. Bản kế hoạch doanh nghiệp là hệ thống các phương hướng, nhiệm vụ,
mục tiêu và các chỉ tiêu nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính cần thiết cho việc thực
hiện mục tiêu phát triển doanh nghiệp đặt ra trong thời kỳ kế hoạch nhất định. Kế
hoạch doanh nghiệp chính là thể hiện ý đồ phát triển của các nhà lãnh đạo và quản lý
đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các giải pháp thực thi.
Mặc dù là định hướng tương lai, nhưng việc lập kế hoạch khác với việc dự báo
và xác định triển vọng. Quá trình dự báo thường nhằm mục đích trả lời câu hỏi cái gì
sẽ xảy ra thông qua con đường ngoại suy, việc xác định triển vọng cũng trả lời câu hỏi
trên nhưng bằng con đường nội suy. Kế hoạch ngoài việc dự báo và xác định triển
vọng còn xác định hành động sẽ làm để đạt mục tiêu.
Như vậy, có thể hiểu bản kế hoạch doanh nghiệp được hình thành thông qua
những câu hỏi mang tính bản chất của nó như sau: (1) Trạng thái của doanh nghiệp
hiện tại, kết quả và những điều kiện hoạt động kinh doanh? (2) Hướng phát triển của
doanh nghiệp? (3) Làm thế nào để sử dụng có hiệu quả nguồn lực của doanh nghiệp
nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra?
-

Tổ chức thực hiện kế hoạch, kiểm tra, điều chỉnh và đánh giá kế hoạch

Là những hành động tiếp sau của công tác kế hoạch hoá nhằm đưa kế hoạch
vào thực tế hoạt động của doanh nghiệp. Đây là quá trình tổ chức, phối hợp hoạt động
của các bộ phận, các nguồn lực của doanh nghiệp, triển khai các hoạt động khác nhau
theo các mục tiêu kế hoạch đặt ra. Quá trình triển khai kế hoạch không chỉ đơn thuần
là xem xét những hoạt động cần thiết của doanh nghiệp mà nó còn thể hiện ở khả năng
dự kiến, phát hiện những điều bất ngờ có thể xuất hiện trong quá trình hoạt động và
khả năng ứng phó với nó. Quá trình kiểm tra, theo dõi, điều chỉnh kế hoạch giúp doanh

nghiệp không chỉ xác định được tất cả những rủi ro trong hoạt động của mình mà còn
có khả năng quản lý rủi ro với sự hỗ trợ của việc tiên đoán có hiệu quả và xử lý những
rủi ro đó trong quá trình thực hiện mục tiêu đặt ra. Công tác đánh giá kế hoạch sẽ là cơ
sở giúp cho doanh nghiệp xây dựng những phương án kế hoạch tiếp sau một cách
chính xác và sát thực hơn.
1.1.2

Phân loại kế hoạch hoá trong doanh nghiệp

Đứng trên mỗi góc độ khác nhau, kế hoạch hoá trong doanh nghiệp được phân
chia thành những loại khác nhau.

5




Kế hoạch hóa theo mục tiêu

Kế hoạch hoá theo mục tiêu là việc xây dựng kế hoạch theo từng mục tiêu đã
xác định. Kế hoạch hoá theo mục tiêu thường có tại các doanh nghiệp xây lắp, cung
cấp dịch vụ tư vấn,…
Đặc điểm chung của việc kế hoạch hoá hoạt động sản xuất kinh doanh theo mục
tiêu là kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh đó là xác định. Nội dung kế hoạch là
việc lập tiến độ thực hiện theo từng phần việc cụ thể, tổ chức thực hiện theo tiến độ,
đánh giá điều chỉnh theo tiến độ.


Kế hoạch hoá theo thời gian


Đây là việc xây dựng kế hoạch theo những khoảng thời gian nhất định. Theo
góc độ này, kế hoạch doanh nghiệp bao gồm các loại sau:
- Kế hoạch dài hạn bao trùm lên khoảng thời gian dài khoảng 10 năm. Quá trình soạn
lập kế hoạch dài hạn được đặc trưng bởi:
+

Môi trường kinh doanh có liên quan đến doanh nghiệp;

+

Dự báo trên cơ sở ngoại suy từ quá khứ, bao gồm xu hướng dự tính của nhu
cầu, giá cả và hành vi cạnh tranh;

+

Chủ yếu nhấn mạnh các ràng buộc về tài chính;

+

Sử dụng rộng rãi các phương pháp kinh tế lượng để dự báo.

- Kế hoạch trung hạn cụ thể hoá những định hướng của kế hoạch dài hạn ra các
khoảng thời gian ngắn hơn, thường là 3 hoặc 5 năm.
- Kế hoạch hàng năm: thường được gọi là kế hoạch sản xuất - kinh doanh. Kế hoạch
sản xuất - kinh doanh đề ra các chỉ tiêu cụ thể phải đạt được trong năm kế hoạch, đồng
thời bao gồm các phương pháp cụ thể sử dụng nguồn lực của doanh nghiệp để đạt
được mục tiêu. Kế hoạch năm phản ánh mọi hoạt động của doanh nghiệp dự kiến thực
hiện trong năm kế hoạch như tiêu thụ, sản xuất, kỹ thuật công nghệ, tiền lương,…
- Kế hoạch quý, 06 tháng: là việc chia nhỏ kế hoạch năm nhằm tiến hành các phân
tích, đánh giá tình hình thực hiện trong thời gian qua, đề ra những công việc cần thực

hiện để hoàn thành kế hoạch năm, hoặc điều chỉnh kế hoạch theo thực tế. Nhìn chung,
kế hoạch quý, 06 tháng chỉ bao gồm các chỉ tiêu chủ yếu, quan trọng trong kế hoạch
của doanh nghiệp như sản xuất, doanh thu, đầu tư,…
- Kế hoạch tác nghiệp tháng, tuần, ngày: là việc chia nhỏ các kế hoạch quý nhằm phân
tải hoạt động của doanh nghiệp một cách hợp lý. Đồng thời giúp các cấp quản trị theo

6


dõi, bám sát thực tế hoạt động sản xuất - kinh doanh và phát hiện kịp thời các thay đổi,
vướng mắc trong quá trình sản xuất kinh doanh để có giải pháp.
Việc phân chia thời hạn của các kế hoạch chỉ mang tính tương đối, nhất là trong
điều kiện thị trường hiện nay thay đổi với tốc độ nhanh hơn nhiều so với cách đây vài
thập kỷ. Do vậy, trong một số lĩnh vực mà điều kiện thị trường của nó biến động nhiều
(chu kỳ thay đổi công nghệ nhanh, vòng đời sản phẩm ngắn,…) thì những kế hoạch từ
3 đến 5 năm cũng có thể coi là dài hạn.
Các loại kế hoạch theo thời gian cần phải được liên kết chặt chẽ với nhau và
không được phủ nhận lẫn nhau. Việc giải quyết mối quan hệ giữa các loại kế hoạch
theo thời gian là rất quan trọng vì trên thực tế, đã nảy sinh nhiều lãng phí từ các quyết
định theo những tình huống trước mắt mà không đánh giá được ảnh hưởng của các
quyết định này đối với các mục tiêu dài hạn hơn. Nhiều kế hoạch ngắn hạn đã không
những không đóng góp gì cho một kế hoạch dài hạn mà còn gây nhiều trở ngại, tốn
kém đối với việc thực hiện các kế hoạch dài hạn. Ví dụ như nếu một doanh nghiệp nhỏ
nhận một đơn đặt hàng lớn mà không tính đến ảnh hưởng của đơn đặt hàng tới khả
năng sản xuất hay cung cấp tiền mặt của doanh nghiệp thì điều đó có thể cản trở tới
khả năng tương lai để trang trải tài chính cho mở rộng một cách hệ thống, đủ để tạo ra
những thay đổi trong chương trình dài hạn của doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp
quyết định sa thải một số công nhân không có lý do chính đáng có thể cản trở mục tiêu
dài hạn của công ty trong việc phát triển một chương trình nhân sự đúng đắn và có
hiệu quả.

Để thực hiện được mối quan hệ giữa các loại kế hoạch theo thời gian, các nhà
lãnh đạo chủ chốt các doanh nghiệp nên thường xuyên xem xét và sửa đổi các quyết
định trước mắt xem chúng có phục vụ các chương trình dài hạn hay không và các nhà
quản lý cấp dưới nên được thông báo một cách thường xuyên về kế hoạch dài hạn của
doanh nghiệp sao cho các quyết định của họ phù hợp với các mục tiêu dài hạn của
doanh nghiệp.


Kế hoạch hoá theo cấp độ

Xét về tính chất hay cấp độ của kế hoạch hoá, chúng ta có thể chia hệ thống kế
hoạch doanh nghiệp làm hai bộ phận: kế hoạch chiến lược và kế hoạch chiến thuật
(hay kế hoạch tác nghiệp).
-

Kế hoạch chiến lược

Khái niệm chiến lược xuất hiện đầu tiên trong lĩnh vực quân sự. Chiến lược có
nghĩa là “nghệ thuật của tướng lĩnh” để tìm ra con đường đúng đắn nhất giành chiến

7


thắng. Lập kế hoạch chiến lược cho doanh nghiệp phổ biến vào những năm 1960 đối
với các doanh nghiệp lớn khi mà hoạt động của chúng trở nên phức tạp hơn, đồng thời
cạnh tranh gay gắt hơn, đa dạng hơn trong khi các tiến bộ về khoa học công nghệ trở
nên tăng tốc hơn khiến cho các doanh nghiệp khó khăn trong việc lựa chọn mục tiêu
phát triển công nghệ và sản phẩm mới, thâm nhập thị trường, lựa chọn các phương
thức phát triển ….
Kế hoạch chiến lược áp dụng trong các doanh nghiệp là định hướng lớn cho

phép doanh nghiệp thay đổi, cải thiện, củng cố vị thế cạnh tranh của mình và những
phương pháp cơ bản để đạt được mục tiêu đó. Soạn lập kế hoạch chiến lược không
phải từ những kỳ vọng mà doanh nghiệp muốn đạt tới mà là xuất phát từ khả năng
thực tế của doanh nghiệp và như vậy nó là sự phản ứng của doanh nghiệp đối với hoàn
cảnh khách quan bên trong và bên ngoài của doanh nghiệp.
Thường thì kế hoạch chiến lược được soạn thảo cho thời gian dài, tuy vậy nó
không đồng nghĩa với kế hoạch dài hạn. Nhiều doanh nghiệp đã dựa vào những kế
hoạch chiến lược ngắn hạn. Nói đến kế hoạch chiến lược không phải là nói đến góc độ
thời gian của kế hoạch mà nói đến tính chất định hướng của kế hoạch và bao gồm toàn
bộ mục tiêu tổng thể phát triển doanh nghiệp. Trách nhiệm soạn thảo kế hoạch chiến
lược trước hết là của lãnh đạo doanh nghiệp, vì kế hoạch chiến lược đòi hỏi trách
nhiệm rất cao, quy mô hoạt động rộng lớn của các nhà quản lý.
-

Kế hoạch chiến thuật

Kế hoạch chiến thuật hay còn gọi là kế hoạch tác nghiệp là công cụ cho phép
chuyển các định hướng chiến lược thành các chương trình áp dụng cho các bộ phận
của doanh nghiệp trong khuôn khổ các hoạt động của doanh nghiệp, nhằm thực hiện
được các mục tiêu của kế hoạch chiến lược. Kế hoạch tác nghiệp được thể hiện cụ thể
ở những bộ phận kế hoạch riêng biệt trong tổng thể hoạt động kinh doanh như: kế
hoạch sản xuất, kế hoạch marketing, kế hoạch tài chính, nhân ,…
Kế hoạch chiến lược tập trung vào các lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến tương
lai của doanh nghiệp, trong khi đó kế hoạch tác nghiệp liên quan đến tất cả các lĩnh
vực và tất cả các bộ phận của doanh nghiệp, quy trình kế hoạch hoá chiến lược đòi hỏi
chủ yếu là sự tham gia của các nhà lãnh đạo trong khi kế hoạch tác nghiệp huy động
tất cả các cán bộ phụ trách bộ phận.
1.1.3

Vai trò của kế hoạch hoá đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp


Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp hoạt động tuân theo các quy luật
kinh tế khách quan, hay còn gọi là cơ chế thị trường. Do đó, những dấu hiệu thị trường
là cơ sở để các doanh nghiệp quyết định và thực hiện hành vi sản xuất, kinh doanh của

8


mình. Tuy vậy, kế hoạch hoá vẫn hết sức cần thiết và hữu hiệu đối với các doanh
nghiệp. Sở dĩ như vậy xuất phát từ vai trò của kế hoạch hoá trong quản lý doanh
nghiệp. Những vai trò chính được thể hiện như sau:
-

Kế hoạch hoá giúp cho doanh nghiệp ứng phó với những thay đổi của môi trường
kinh doanh

Trong nền kinh tế thị trường, môi trường kinh doanh thường xuyên biến động,
tác động mạnh đến doanh nghiệp. Đồng thời trong bản thân doanh nghiệp, các mối
quan hệ tương tác giữa các bộ phận, các hoạt động khác nhau cũng vô cùng chặt chẽ.
Kế hoạch hoá giúp nhà quản trị phác thảo bức tranh tổng thể của doanh nghiệp, các lực
lượng tác động từ bên ngoài, các mối quan hệ đan xen bên trong. Nhờ đó, khi mỗi yếu
tố thay đổi, doanh nghiệp có thể nhận thức nhanh chóng điều đó có ảnh hưởng gì, cần
giải quyết như thế nào để tận dụng cơ hội hoặc giảm thiểu rủi ro.
-

Kế hoạch hoá giúp doanh nghiệp khai thác các nguồn lực, tập trung chúng vào
việc thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp

Kế hoạch hoá là nhằm đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp, cho nên chính
các hoạt động của công tác kế hoạch hoá là tập trung sự chú ý của doanh nghiệp vào

những mục tiêu này. Thông qua sự tập trung vào mục tiêu, các nguồn lực của doanh
nghiệp được khai thác tối đa.
-

Kích thích sự tham gia một cách chủ động của các thành viên trong doanh nghiệp
vào hoạt động kinh doanh

Việc lập kế hoạch không chỉ giúp các cấp quản trị, mà toàn thể nhân viên trong
doanh nghiệp suy nghĩ, đề xuất các ý tưởng, giải pháp nhằm phát triển và nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mặt khác, kế hoạch được Hội đồng quản trị hay Giám
đốc Công ty phê duyệt và giao cho các đơn vị trực thuộc, là nhiệm vụ của đơn vị. Để
hoàn thành nhiệm vụ, toàn thể đơn vị đó phải chủ động tham gia vào quá trình triển
khai thực hiện kế hoạch, đánh giá, điều chỉnh,…
-

Tạo ra sự phối hợp tốt giữa các bộ phận trong doanh nghiệp

Kế hoạch hoá là hệ thống bao gồm kế hoạch chung của doanh nghiệp và các bộ
phận trực thuộc. Các kế hoạch bộ phận này có những chỉ tiêu riêng nhưng giữa chúng
có quan hệ mật thiết với nhau mà tác dụng của nó không gì ngoài việc hướng tới hoàn
thành kế hoạch chung. Trong quá trình kế hoạch hoá, giữa các bộ phận thường xuyên
có những mâu thuẫn mà kết quả của nó dẫn tới việc các cấp quản trị phải điều hoà, giải
quyết. Chính bởi vậy, kế hoạch hoá giúp các bộ phận có xu hướng phối hợp tốt với
nhau trong hoạt động.

9


-


Tạo ra hệ thống kiểm tra có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp

Kết quả sản xuất kinh doanh được so sánh với kế hoạch đã đề ra, phân tích đánh
giá nguyên nhân dẫn tới việc hoàn thành hay không hoàn thành kế hoạch. Do đó, nó
trở thành hệ thống kiểm tra tự nhiên, chi tiết, đầy đủ và có hiệu quả đối với mọi hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2

KẾ HOẠCH SẢN XUẤT - KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP

1.2.1 Các bộ phận của kế hoạch sản xuất - kinh doanh
Kế hoạch sản xuất - kinh doanh đề ra các chỉ tiêu cụ thể phải đạt được trong
năm kế hoạch. Nó cũng đưa ra kế hoạch hành động, tức là các biện pháp phải tổ chức
thực hiện để đạt được những chỉ tiêu đó.
Kế hoạch sản xuất - kinh doanh thông thường bao gồm các bộ phận chính sau:
-

Kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm;

-

Kế hoạch khoa học - công nghệ;

-

Kế hoạch xây dựng cơ bản và sửa chữa lớn;

-


Kế hoạch lao động tiền lương;

-

Kế hoạch cung ứng - vật tư;

-

Kế hoạch giá thành sản phẩm;

-

Kế hoạch tài chính.

1.2.1.1 Kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
-

Vị trí

Kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chiếm vị trị chủ đạo trong kế hoạch sản
xuất kinh doanh hàng năm. Mọi bộ phận kế hoạch khác đều phải bắt đầu và dựa vào kế
hoạch tiêu thụ và sản xuất để mà lập các chỉ tiêu kế hoạch bộ phận.
-

Các nội dung chủ yếu
+

Danh mục các mặt hàng, sản phẩm hoặc dịch vụ sẽ sản xuất và tiêu thụ trong
năm kế hoạch.


+

Tên từng mặt hàng dịch vụ, chất lượng quy cách và số lượng sẽ tiêu thụ trong
năm kế hoạch.

+

Tổng doanh thu từ tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ.
Để có những chỉ tiêu này, nội dung công tác kế hoạch bao gồm các việc sau:

10


+

Xác định danh mục mặt hàng sản phẩm, dịch vụ sẽ sản xuất kinh doanh năm
kế hoạch.

+

Xác định số lượng từng sản phẩm, dịch vụ có thể tiêu thụ.

+

Xác định số lượng từng mặt hàng sẽ sản xuất sau khi cân đối số tiêu thụ với
tồn kho đầu năm cuối năm.

+

Phân phối nhiệm vụ kế hoạch sản xuất cho các đơn vị sản xuất.


+

Phân phối nhiệm vụ sản xuất cho các quý, tháng trong năm.

-

Căn cứ lập kế hoạch

Để lập kế hoạch tiêu thụ và sản xuất sản phẩm, nhà xây dựng kế hoạch phải dựa
vào một số căn cứ nhất định. Những căn cứ quan trọng nhất là:
+

Chiến lược kinh doanh trong dài hạn.

+

Phân tích tình hình tiêu thụ mặt hàng, dịch vụ năm trước, kỳ trước.

+

Đơn đặt hàng hoặc hợp đồng đã ký.

+

Dự đoán sự thay đổi của cầu.

+

Cân đối quan hệ cung cầu.


+

Năng lực sản xuất của doanh nghiệp.

Tuỳ thuộc vào ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh và loại mặt hàng dịch vụ cụ thể
mà doanh nghiệp này dựa vào căn cứ này nhiều, dựa vào căn cứ khác ít hơn. Với tất cả
các doanh nghiệp, không thể bỏ qua căn cứ năng lực sản xuất của chính bản thân
doanh nghiệp.
Trong các căn cứ chủ yếu nói trên, việc phân tích tình hình tiêu thụ năm trước
cũng như đơn đặt hàng đã có được thống kê một cách chính xác và không mất nhiều
thời gian. Năng lực sản xuất của doanh nghiệp cũng là yếu tố có thể kiểm soát chính
xác được đối với người lập kế hoạch. Các yếu tố về cầu và cân đối cung cầu trên thị
trường là những yếu tố rất khó kiểm soát và dự báo chính xác. Chính vì vậy, việc lập
kế hoạch có chính xác, hiệu quả hay không phụ thuộc nhiều vào trình độ của người lập
kế hoạch, kinh nghiệm, sự nhạy bén và khả năng nắm bắt, tổng hợp thông tin để biết
cách sử dụng hợp lý hệ thống các căn cứ nói trên.
Một trong những căn cứ quan trọng mà các doanh nghiệp đều phải xem xét khi
lập kế hoạch sản xuất, đó là năng lực sản xuất của chính doanh nghiệp. Bởi bên cạnh
việc căn cứ nhu cầu thị trường, thì người lập kế hoạch phải căn cứ vào năng lực của
doanh nghiệp có thể đáp ứng nhu cầu ở mức độ nào, cả về số lượng và chất lượng, để
cân đối xây dựng kế hoạch sản xuất cho doanh nghiệp.

11


Năng lực sản xuất của doanh nghiệp là khả năng tối đa về sản xuất sản phẩm
trong một năm và được đo bằng đơn vị hiện vật. Vì năng lực sản xuất là đại lượng
động, nó thay đổi khi điều kiện sản xuất thay đổi. Khi máy móc thiết bị được mua sắm
thêm hoặc nâng cấp, hiện đại hoá, khi công nhân được đào tạo bồi dưỡng làm trình độ

chuyên môn tay nghề nâng lên,… thì năng lực sản xuất của doanh nghiệp cũng tăng
lên và ngược lại. Do đó, người lập kế hoạch phải rà soát lại năng lực sản xuất của
doanh nghiệp mình trước khi lập kế hoạch tiêu thụ và sản xuất sản phẩm.
Năng lực sản xuất của một doanh nghiệp được tính toán theo công thức tổng
quát sau:
n

Nbq

=

∑ Si x Nhi x Tki
i=1

trong đó:
Si: là số máy chính trong một công đoạn hay một hệ thống sản xuất (có thể là
dây chuyền sản xuất hay phân xưởng sản xuất,…)
Nhi: năng suất định mức mỗi giờ của Si tương ứng
Tki: thời gian hoạt động của Si trong một năm (quy theo giờ)
-

Phương pháp xác định các chỉ tiêu

Tuỳ thuộc vào đặc điểm của hoạt động sản xuất - kinh doanh, sản phẩm kinh
doanh mà áp dụng các phương pháp tính khác nhau
Đối với doanh nghiệp hoạt động trong ngành nghề mà không có người mua,
người bán chi phối thị trường, kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là tích số giữa
kết quả sản xuất tiêu thụ năm hiện tại nhân với tốc độ tăng trưởng của cầu trên thị
trường.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm dịch vụ theo đơn đặt

hàng thì thì kế hoạch sản xuất và tiêu thụ là tổng các đơn đặt hàng của khách hàng dự
kiến năm kế hoạch.
Đối với một số doanh nghiệp đặc thù, hoạt động mang tính độc quyền như điện
nước, dầu mỏ,… kế hoạch sản xuất và tiêu thụ được xác định theo năng lực sản xuất
của doanh nghiệp.
-

Phân phối kế hoạch sản xuất, tiêu thụ sản phẩm cho các đơn vị trực thuộc và
theo quý, tháng trong năm

Sau khi hoàn thành kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp phải cân đối với
sản phẩm tồn kho (nếu có) để xác định chính xác kế hoạch sản xuất. Trên cơ sở năng

12


lực sản xuất của các đơn vị trực thuộc, hiệu quả sản xuất, tiết kiệm chi phí vận chuyển,
bán hàng,… doanh nghiệp giao kế hoạch sản xuất và tiêu thụ cho từng đơn vị.
Việc xác lập kế hoạch quý, tháng được xây dựng căn cứ vào:
+

Đơn đặt hàng

+

Nhu cầu thị trường mang tính mùa vụ

+

Các ngày lễ, tết.


+

Năng lực sản xuất của đơn vị trực thuộc và toàn doanh nghiệp

+

Loại hình sản xuất của doanh nghiệp.

Có ba phương pháp chính để phân phối kế hoạch tiêu thụ và sản xuất: phương
pháp song song, phương pháp trực tiếp và phương pháp hỗn hợp (kết hợp cả hai
phương pháp trên).
1.2.1.2 Kế hoạch khoa học - công nghệ
-

Vị trí

Kế hoạch khoa học - công nghệ chiếm vị trí trung tâm trong kế hoạch sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Nó quyết định chủng loại, số lượng và chất lượng sản
phẩm mà doanh nghiệp cung cấp trên thị trường. Mặc dù xuất phát từ việc đáp ứng yêu
cầu của kế hoạch sản xuất và tiêu thụ, nhưng kế hoạch khoa học - công nghệ lại quyết
định có đáp ứng hay đáp ứng ở mức độ nào yêu cầu đó. Các kế hoạch khác được xây
dựng theo kế hoạch khoa học - công nghệ.
Kế hoạch khoa học - công nghệ nhằm hai mục tiêu: nâng cao hiệu quả kinh
doanh và thực hiện kế hoạch chiến lược của doanh nghiệp.
-

Các nội dung chủ yếu

Kế hoạch khoa học - công nghệ dự kiến những biện pháp tổ chức - kỹ thuật kết

thúc giai đoạn nghiên cứu chuẩn bị, sẽ đưa vào triển khai trong năm kế hoạch. Nó có
thể bao gồm:

-

+

Hệ thống máy móc, dây chuyền sản xuất được đầu tư đưa vào hoạt động trong
năm kế hoạch. Trong đó phản ánh các chỉ tiêu như tiêu chuẩn thiết bị, chi tiết
chủng loại sản phẩm, công suất thiết kế, chi phí vận hành khai thác,…

+

Phương pháp sản xuất, tổ chức quản lý mới sẽ được ứng dụng, hiệu quả đối
với hoạt động sản xuất kinh doanh có liên quan.

+

Lượng hóa nguồn lực cần thiết để triển khai
Căn cứ lập kế hoạch

13


Việc lập kế hoạch khoa học cần căn cứ vào nhiều yếu tố. Trong đó thông
thường dựa trên những căn cứ chủ yếu sau:
+

Xu hướng phát triển của thị trường công nghệ, thị trường sản phẩm và nhu cầu
khách hàng


+

Định hướng phát triển khoa học - công nghệ của Chính phủ, ngành, doanh
nghiệp cấp trên.

+

Chiến lược hoặc định hướng kinh doanh của doanh nghiệp trong dài hạn.

+

Khả năng nghiên cứu, phát triển, ứng dụng và tích hợp với các nguồn lực và
cơ sở vật chất hiện có của doanh nghiệp.

+

Tiến độ triển khai thực hiện đối với từng nội dung / dự án cụ thể

-

Phương pháp xác định các chỉ tiêu

Các chỉ tiêu phản ánh đầu ra của kế hoạch khoa học - công nghệ được xác định
căn cứ vào tính năng kỹ thuật, công suất thiết kế của dây chuyền máy móc, thiết bị.
Các chỉ tiêu phản ánh nguồn lực cần thiết để triển khai dự án như chi phí triển
khai thực hiện xét theo giá đấu thầu hoặc chi phí cho các dự án tương tự đã thực hiện
gần đây.
1.2.1.3 Kế hoạch xây dựng cơ bản và sửa chữa lớn
-


Vị trí

Kế hoạch xây dựng cơ bản và sửa chữa lớn nhằm nâng cao năng lực sản xuất
của doanh nghiệp, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao năng suất lao động đáp ứng
yêu cầu của kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
-

Các nội dung chủ yếu

Kế hoạch xây dựng cơ bản và sửa chữa lớn bao gồm các dự án xây mới hoặc
cải tạo nhà xưởng, văn phòng làm việc, các dự án duy tu bảo dưỡng, nâng cấp, mở
rộng năng lực sản xuất của hệ thống máy móc, dây chuyền thiết bị hiện có,… và kinh
phí, tiến độ thực hiện.
-

Căn cứ lập kế hoạch

Thông thường việc lập kế hoạch xây dựng cơ bản và sửa chữa lớn dựa trên
những căn cứ chủ yếu sau:
+

Kế hoạch sản xuất tiêu thụ sản phẩm

+

Kế hoạch phát triển doanh nghiệp

+


Tình trạng máy móc, thiết bị sản xuất hiện tại của doanh nghiệp

+

Điều kiện, môi trường làm việc hiện tại của người lao động

14


+
-

Tiến độ triển khai thực hiện đối với từng nội dung / dự án cụ thể, kinh phí dự
kiến
Phương pháp xác định các chỉ tiêu

Các chỉ tiêu phản ánh đầu ra của kế hoạch xây dựng cơ bản và sửa chữa lớn
được xác định căn cứ vào công suất dự kiến của máy móc, thiết bị sau khi sửa chữa,
nâng cấp; mức độ phục vụ người lao động trong quá trình làm việc,..
Các chỉ tiêu phản ánh nguồn lực cần thiết để triển khai dự án như chi phí triển
khai thực hiện tính theo các định mức xây dựng cơ bản Nhà nước ban hành, hoặc theo
giá đấu thầu các dự án tương tự đã thực hiện gần đây.
1.2.1.4 Kế hoạch lao động tiền lương
-

Vị trí

Kế hoạch lao động tiền lương là một bộ phận của kế hoạch sản xuất - kinh
doanh của doanh nghiệp. Nó xác định những chỉ tiêu về lao động và tiền lương nhằm
bảo đảm thực hiện kế hoạch sản xuất sản phẩm và dịch vụ, hoặc chuẩn bị nguồn lực

lao động cho việc thực hiện các mục tiêu chiến lược khác của doanh nghiệp. Kế hoạch
này có nhiệm vụ không ngừng khai thác những khả năng tiềm tàng trong doanh
nghiệp, nhằm giảm tiêu hao thời gian lao động cho sản xuất một đơn vị sản phẩm, nhờ
đó mà tăng năng suất lao động, giảm được chi phí tiền lương trên 1 đơn vị sản phẩm.
-

Các nội dung chủ yếu: được xác định theo trình tự như sau
+

Các biện pháp tổ chức, kỹ thuật nhằm tăng năng suất lao động

Là những biện pháp đưa ra nhằm giảm tiêu hao lao động, giảm chi phí tiền
lương trên một đơn vị sản phẩm. Chúng được lập nên trên cơ sở những đề xuất, sáng
kiến của cán bộ, công nhân, qua đó người quản trị kế hoạch lao động tiền lương thiết
kế thành những giải pháp và triển khai thực hiện đảm bảo hiệu quả.
+

Xác định thời gian lao động thực tế của công nhân

Là việc tính toán, đưa ra số ngày làm việc bình quân của một công nhân sản
xuất trong năm kế hoạch. Đây là căn cứ để xác định số lao động và quỹ tiền lương năm
kế hoạch. Kế hoạch này được lập dưới dạng bảng cân đối thời gian lao động của một
công nhân. Thực chất của việc này là xác định tổng số ngày vắng mặt bình quân của
một công nhân theo các lý do như: nghỉ phép, nghỉ ốm, nghỉ thai sản, nghỉ hội họp,…
(những ngày còn lại đã có chế độ nhà nước quy định).
+

Xác định số lượng lao động cần thiết

15



Tính toán, xác định số lao động theo từng loại, tại từng bộ phận để đảm bảo
thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh. Về căn bản, lao động trong một doanh nghiệp
có thể phân thành hai loại: lao động trực tiếp và lao động gián tiếp.
Lao động gián tiếp bao gồm tất cả những nhân viên và những nhà quản lý ở các
phòng ban quản lý doanh nghiệp như nhân viên quản lý hành chính, quản lý nghiệp vụ,
kỹ thuật. Lao động gián tiếp cũng bao gồm cả những người quản lý ở các phân xưởng
làm nhiệm vụ chỉ huy sản xuất hoặc quản lý kỹ thuật ở phân xưởng như ban quản đốc,
kỹ thuật viên,… Việc xây dựng kế hoạch số lượng lao động gián tiếp tương đối định
tính vì lượng lao động gián tiếp thường không có sự thay đổi lớn. Trường hợp nếu có
người về hưu hoặc chuyển công tác thì có kế hoạch tuyển dụng thay thế. Trường hợp
có sự thay đổi lớn về sản lượng hoặc công nghệ sản xuất thì tiến hành bổ sung lao
động cho các bộ phận liên quan. Số lượng lao động bổ sung được tính toán dựa trên
chiến lược phát triển và mức độ quan trọng của công việc mà lao động bổ sung đảm
nhiệm.
Lao động trực tiếp gồm tất cả các công nhân sản xuất, kể cả sản xuất chính và
sản xuất phụ. Công nhân chính trực tiếp tham gia vào chế biến, gia công, sản xuất sản
phẩm. Công nhân phụ phục vụ cho công nhân chính như sửa chữa máy móc thiết bị
hoặc phục vụ điện nước và công nhân của các phân xưởng phụ như phân xưởng cơ khí
- sửa chữa, phân xưởng sản xuất hơi nước.
Xác định số công nhân chính trực tiếp là nội dung then chốt và phức tạp nhất
của công tác lập kế hoạch số lượng lao động. Sở dĩ như vậy vì đây là lực lượng trực
tiếp thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kế hoạch sản xuất kinh
doanh lại luôn khác nhau giữa các năm, cả về quy mô cũng như nội dung, cơ cấu, do
vậy số công nhân sản xuất chính cần phải được tính toán lại.
+

Đơn giá tiền lương và quỹ lương doanh nghiệp


Đơn giá tiền lương là số tiền lương được phép chi cho một đơn vị sản phẩm sản
xuất ra hoặc cho 1 đồng giá trị sản phẩm hàng hoá bán ra (còn gọi là doanh thu). Đơn
giá tiền lương được dùng làm căn cứ để xác định quỹ lương thực hiện và cả để dự tính
quỹ lương kế hoạch.
Đơn giá tiền lương trả cho một sản phẩm thường được áp dụng cho các doanh
nghiệp / bộ phận trực tiếp sản xuất, gia công hàng hoá, dịch vụ.
Đơn giá tiền lương cho một đồng doanh thu (để tiện tính toán thường định mức
cho 1000 đồng doanh thu) thường để dùng tính toán cho các đơn vị trực thuộc tổng
công ty (theo hình thức khoán doanh thu). Hình thức này cũng được áp dụng rộng rãi

16


trong các doanh nghiệp sản xuất dịch vụ như doanh nghiệp xây dựng, bưu điện, và các
ngành sản xuất dịch vụ khác.
Quỹ lương kế hoạch là tổng số tiền lương dự kiến doanh nghiệp phải chi trả cho
người lao động trong năm kế hoạch, bao gồm cả quỹ lương sản phẩm, quỹ lương bổ
sung (phần quỹ lương nằm ngoài quỹ lương sản phẩm, dùng để trả cho những ngày
nghỉ việc được hưởng lương và lương trả cho những lao động mà thời gian công tác
của họ chưa tính vào đơn giá lương tổng hợp) và các khoản khác như phụ cấp, dự
phòng tiền lương nâng bậc đối với doanh nghiệp nhà nước, dự phòng khác nếu có.
-

Căn cứ lập kế hoạch
+

Các mức lao động: như định mức năng suất (M ns – quy định số sản phẩm tối
thiểu phải làm ra trong một ca sản xuất cho một hoặc một nhóm công nhân),
định mức thời gian (Mtg – quy định thời gian tối đa để sản xuất / hoàn thành
một đơn vị sản phẩm / một công việc), định mức phục vụ (M pv – quy định mỗi

máy / số đối tượng phải đồng thời phục vụ để đảm bảo tiến độ sản xuất
chung).

+

Hệ số thực hiện mức (h).

+

Quỹ thời gian có mặt làm việc bình quân 1 công nhân (F).

+

Kế hoạch sản xuất (Q) của loại sản phẩm, hoặc sản phẩm quy ước.

+

Chế độ, chính sách của Nhà nước về tiền lương và quy chế tiền lương của
doanh nghiệp.

-

Phương pháp xác định các chỉ tiêu
+

Phương pháp xác định thời gian lao động thực tế của công nhân

Xác định tổng số ngày vắng mặt bình quân của một công nhân theo các lý do
như: nghỉ phép, nghỉ ốm, nghỉ thai sản, nghỉ hội họp,…. Phương pháp lập cho mỗi loại
như sau:



Số ngày nghỉ phép được tính bình quân gia quyền theo số công nhân có số
ngày phép giống nhau thuộc các nhóm khác nhau.



Số ngày nghỉ ốm được tính bằng số ngày nghỉ ốm của toàn bộ lao động
trong năm trước kết hợp với hiệu quả của các biện pháp cải tiến điều kiện
làm việc doanh nghiệp thực hiện trong năm kế hoạch.



Số ngày nghỉ thai sản được lập dựa trên kế hoạch nghỉ sinh của chị em đã
đăng ký và chế độ nhà nước quy định.

17


Số ngày nghỉ khác (hội họp, học nghị quyết, tập quân sự, tập huấn nghiệp



vụ,…) được tính theo thực tế năm trước.
Số ngày nghỉ lễ, nghỉ cuối tuần: theo quy định của Nhà nước và của doanh



nghiệp.
Tổng hợp các ngày nghỉ nêu trên ta có tổng số ngày vắng mặt dự kiến của 1

công nhân trong năm. Từ đó tính được số ngày làm việc của 1 công nhân trong năm kế
hoạch.
Độ dài làm việc bình quân ngày thông thường là 8 giờ / ngày. Đối với một số
doanh nghiệp do điều kiện làm việc độc hại thì có chế độ riêng.
Số ngày làm việc bình quân và độ dài làm việc bình quân một ngày của mỗi
công nhân là căn cứ để tính toán số công nhân sản xuất chính.
+

Phương pháp xác định số công nhân chính

Tuỳ thuộc vào tính chất công việc thực hiện, dây chuyền sản xuất (sản xuất từ
đầu đến cuối một loại sản phẩm hay đảm nhận một khâu gia công của nhiều loại sản
phẩm khác nhau) và mức lao động cho từng công việc, có công thức xác định khác
nhau:


Đối với trường hợp ban hành mức năng suất: số công nhân chính (S) được
xác định như sau:
Q
S=
Mns x h x F



Đối với trường hợp ban hành mức thời gian:
Mtg x h x Q
S=
F




Đối với trường hợp ban hành mức phục vụ nhiều máy, nhiều thiết bị:
Số máy (thiết bị) trong bộ phận

S=

x số ca / ngày làm việc
Mpv

trong đó, lưu ý số ngày làm việc là số ngày làm việc trong năm trừ đi số ngày sửa chữa
lớn máy móc thiết bị theo định mức.

18


Việc sử dụng các công thức trên được áp dụng linh hoạt tại từng bước công
việc. Sau khi tính được số công nhân tại từng bước công việc, tổng hợp lại sẽ có số
công nhân chính cần thiết cho toàn bộ nhà máy, xí nghiệp.
Việc xác định số lượng công nhân phụ được dựa vào định mức phục vụ công
nhân chính hoặc định mức phục vụ máy. Công nhân phụ là công nhân phục vụ cho quá
trình sản xuất, cho công nhân chính gồm công nhân sửa chữa máy móc thiết bị của
phân xưởng như thợ nguội, thợ điện hoặc công nhân vận chuyển bán thành phẩm giữa
các dây chuyền sản xuất. Đây là đối tượng mà nhu cầu về số lượng ít biến động theo
hàng năm nhưng thực tế lại thường xuyên biến động do công nhân phụ thường có xu
hướng chuyển sang các công việc đòi hỏi ít sức lực hoặc được hưởng lương cao hơn.
+

Xác định đơn giá tiền lương



Đơn giá tiền lương trên 1000 đồng doanh thu:

Được xác định bằng một trong hai cách: dựa trên quỹ lương kế hoạch và doanh
thu kế hoạch, hoặc dựa trên quỹ lương thực hiện và doanh thu thực hiện năm trước có
điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện của năm kế hoạch.
Cách 1: dựa trên quỹ lương và doanh thu kế hoạch. Công thức xác định như sau:
Quỹ lương kế hoạch
ĐML / 1000đ DT =

x 1000
Doanh thu kế hoạch

Trong đó, doanh thu kế hoạch dựa trên kế hoạch tiêu thụ sản phẩm và mức giá kế
hoạch của các loại sản phẩm để xác định. Quỹ lương kế hoạch (QL) được tính như sau:
n

QL =



Si x Hi x Lgmin x 12 tháng + Tổng phụ cấp các loại

i =1

trong đó,
Lgmin - là lương tối thiểu của doanh nghiệp.
Si - là số lượng lao động hưởng hệ số lương cấp bậc giống nhau
Hi - hệ số cấp bậc lương của nhóm lao động thứ i
n - số nhóm lao động có hệ số lương cấp bậc giống nhau.
Công thức trên áp dụng đối với doanh nghiệp nhà nước vận dụng chế độ lương nhà

nước quy định. Đối với các loại hình doanh nghiệp không áp dụng chế độ lương theo
quy định của nhà nước thì quỹ lương kế hoạch được xác định như sau:
n

QL =



Si x Li x 12 tháng

i =1

19


với Si là số lao động hưởng mức lương tháng giống nhau và L i là mức lương tháng của
nhóm (theo thoả thuận tại hợp đồng lao động).
Cách 2: dựa trên quỹ lương và doanh thu thực hiện năm trước. Công thức xác định
như sau:
Quỹ lương thực hiện năm trước
ĐML / 1000đ DT =

x 1000 x k
Doanh thu thực hiện năm trước

Trong đó k là hệ số điều chỉnh giá sinh hoạt bình quân do doanh nghiệp tự xác định.


Đơn giá tiền lương theo sản phẩm: có hai loại như sau


- Đơn giá tiền lương sản phẩm cá nhân trực tiếp: là đơn giá mà doanh nghiệp dựa vào
đó và số sản phẩm cá nhân trực tiếp làm ra trong tháng để tính lương trực tiếp cho từng
công nhân hàng tháng. Đơn giá này được xác định dựa vào mức năng suất hoặc mức
thời gian và mức lương ngày:
Mức lương ngày
Đcn =
Mức năng suất / ca

nếu là quy định mức
năng suất

hoặc,
Đcn = Mtg x Mức lương giờ nếu là quy định mức thời gian.
- Đơn giá tiền lương sản phẩm tập thể: muốn áp dụng hình thức trả lương này phải có
đơn giá lương sản phẩm của tập thể. Đơn giá tiền lương sản phẩm của phân xưởng,
công trường, đội xe là đơn giá trả lương của công ty cho phân xưởng, tính cho 1 đơn vị
sản phẩm cuối cùng của phân xưởng hay công trường, còn gọi là đơn giá lương tổng
hợp, vì nó bao gồm tiền lương của cả tập thể phân xưởng.
Đơn giá tiền lương tổng hợp là đơn giá tiền lương theo sản phẩm cuối cùng của
phân xưởng. Nó được xác định như sau:
Đi = Mth x Lg (1 + k)
Trong đó Đi là đơn giá tiền lương tổng hợp của phân xưởng theo sản phẩm i;
Mth là mức lao động tổng hợp của sản phẩm i: là tổng các mức lao động công nghệ
(Mcn), mức lao động phục vụ (Mpv), mức lao động quản lý (Mql)
Lg là mức tiền lương bình quân 1 giờ công: được xác định bằng mức lương tháng chia
cho số giờ làm việc / tháng của mỗi công nhân.

20



k là tổng các hệ số phụ cấp đưa vào đơn giá lương: được tính theo phần trăm trên
lương chính hoặc tiền lương tối thiểu. Bao gồm các loại như phụ cấp đắt đỏ, phụ cấp
khu vực, phụ cấp độc hại, phụ cấp làm thêm giờ, phụ cấp trách nhiệm,...
+

Xác định quỹ tiền lương năm kế hoạch:
Quỹ lương năm kế hoạch của doanh nghiệp được xác định theo công thức:
n

QL =



Qi x Đi + Quỹ lương bổ sung

i =1

Trong đó, Qi là số lượng theo kế hoạch sản xuất sản phẩm i;
Đi là đơn giá lương tổng hợp cho 1 đơn vị sản phẩm i;
n- số loại sản phẩm sản xuất năm kế hoạch.
Quỹ lương bổ sung là phần quỹ lương nằm ngoài quỹ lương sản phẩm, dùng để
trả cho những ngày nghỉ việc được hưởng lương và lương trả cho những lao động mà
thời gian công tác của họ chưa tính vào đơn giá lương tổng hợp và các khoản khác, cụ
thể bao gồm:
- Tiền lương trả cho những ngày nghỉ việc được hưởng lương (TL 1), dựa vào
bảng cân đối thời gian lao động của công nhân
TL1 =

Số ngày vắng mặt theo
lý do nghỉ phép, hội họp,

công tác

x

Mức lương
bình quân
ngày

x

Số công nhân

- Tiền lương trả cho bộ máy quản lý doanh nghiệp (TL2)
- Các loại phụ cấp chưa đưa vào đơn giá lương tổng hợp (TL3)
- Tiền lương trả cho các phân xưởng phụ, phụ trợ (TL4)
- Dự phòng tiền lương nâng bậc đối với doanh nghiệp nhà nước (TL5).
- Các khoản dự phòng khác nếu có.
1.2.1.5 Kế hoạch cung ứng vật tư
-

Vị trí

Kế hoạch cung ứng vật tư là một bộ phận hợp thành của kế hoạch sản xuất kinh doanh. Nhiệm vụ của kế hoạch này là phải lập kế hoạch cung ứng hợp lý, giảm
tồn đọng vật tư (bao gồm nguyên nhiên vật liệu, bán thành phẩm mua ngoài, phụ tùng
dự trữ,…) trong kho dài ngày làm tăng vốn lưu động, có kế hoạch sử dụng vật tư tiết
kiệm nhất.
-

Các nội dung chủ yếu


21


+

Xác định các mức tiêu hao vật tư cho 1 đơn vị sản phẩm

+

Lập kế hoạch số lượng vật tư cần dùng, cần mua.

+

Xác định lượng dự trữ vật tư hợp lý

+

Lập biểu đồ cung ứng các loại vật tư

-

Căn cứ lập kế hoạch
+

Định mức tiêu hao vật tư

+

Kế hoạch sản xuất tiêu thụ sản phẩm


+

Thời gian hoàn thành một đơn hàng mua vật tư.

-

Phương pháp xác định các chỉ tiêu
+

Xác định định mức tiêu hao vật tư cho 1 đơn vị sản phẩm

Định mức tiêu hao vật tư cho một đơn vị sản phẩm thường không có sự biến
động lớn qua các năm. Tuy vậy, trước khi tiến hành xây dựng kế hoạch hàng năm, cần
tiến hành rà soát lại các định mức này nhằm giảm bớt lượng vật tư dự trữ thừa / thiếu
không cần thiết. Đồng thời đây là chỉ tiêu quan trọng đối với việc giảm giá thành đơn
vị sản phẩm.
Các phương pháp định mức tiêu hao vật tư bao gồm


Phương pháp thống kê

Dựa vào số liệu thống kê về mức tiêu dùng nguyên vật liệu cho 1 đơn vị sản
phẩm để định mức tiêu hao nguyên vật liệu cho năm sau. Phương pháp này thường chỉ
được sử dụng trong trường hợp các yếu tố ảnh hưởng tới mức tiêu hao trong năm kế
hoạch không có biến động đáng kể.
Để tạo động lực tiết kiệm vật tư tiêu hao tại các bộ phận sản xuất, thông thường
người ta sử dụng mức tiêu dùng vật tư trung bình tiên tiến của hai năm gần nhất làm
định mức tiêu hao vật tư năm kế hoạch.



Phương pháp thử nghiệm – thí nghiệm

Theo phương pháp này, người ta xác định mức tiêu hao vật tư trong phòng thí
nghiệm hoặc trong quy mô một phân xưởng sản xuất thử. Phương pháp này áp dụng
cho đối với trường hợp sản phẩm mới đưa vào sản xuất, do đó chưa thể có số liệu
thống kê trong quá khứ.


Phương pháp phân tích – tính toán

Nội dung của phương pháp này là xây dựng mức tiêu hao vật tư cho 1 đơn vị
sản phẩm dựa vào mức tiêu hao lý thuyết và phân tích lượng tiêu hao do thực tế sản
xuất tạo ra (chỉ tính các tiêu hao hợp lý).

22


Phương pháp thử nghiệm – sản xuất



Nội dung của phương pháp này là xác định mức tiêu hao vật tư trong điều kiện
thiết kế các biện pháp loại trừ tổn thất và các điều kiện tốt nhất cho sử dụng vật tư. Các
bước thực hiện phương pháp bao gồm:
Bước 1: Thiết kế các biện pháp loại trừ tổn thất bất hợp lý và điều kiện sử dụng vật tư
tốt nhất.
Bước 2: Phổ biến kinh nghiệm sử dụng vật tư tiết kiệm đến những người có liên quan.
Bước 3: Thực hiện biện pháp và theo dõi số liệu thống kê từ 06 tháng đến 1 năm.
Bước 4: Xác định mức tiêu hao vật tư mới sau thời gian thử nghiệm bằng phương pháp
thống kê các số liệu đã theo dõi được.

+

Phương pháp xác định số lượng vật tư cần dùng, cần mua năm kế hoạch

Sau khi xác định được định mức tiêu hao vật tư, khối lượng vật tư cần dùng
phục vụ kế hoạch sản xuất kinh doanh được xác định bằng công thức:
Vij = aijQj + aijPj – Vi thu hồi
Trong đó:
Vij:

số lượng vật tư i cần dùng cho sản xuất sản phẩm j;

aij:

định mức tiêu hao vật tư i cho một đơn vị sản phẩm j;

Qj :

số lượng thành phẩm j theo kế hoạch sản xuất;

Pj:

số lượng sản phẩm hỏng không sửa được gây tổn thất vật tư
Pj = (T.Qj)/100

Vi thu hồi:

với T là tỷ lệ sản phẩm hỏng theo định mức

số lượng vật tư i thu hồi lại được từ phế phẩm.


Số lượng vật tư i cần mua năm kế hoạch xác định dựa vào lượng vật tư tồn kho
đầu kỳ và cuối kỳ:
m

Vcần mua =



Vij + Tồn kho cuối năm - Tồn đầu năm

j =1

m:

số loại sản phẩm cần dùng vật tư i.

Tồn cuối năm là lượng vật tư gối đầu cho năm sau năm kế hoạch, được xác định
dựa vào tiến độ và số lượng cung ứng vật tư đợt cuối cùng trong năm kế hoạch và mức
tiêu dùng bình quân ngày.
+

Phương pháp xác định dự trữ vật tư

Dự trữ vật tư cho sản xuất nhằm đảm bảo cho sản xuất liên tục. Xác định dự trữ
vật tư hợp lý có ý nghĩa quan trọng đối với hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Có hai

23



dạng dự trữ vật tư là dự trữ vật tư thường xuyên và dự trữ vật tư bảo hiểm. Dự trữ
thường xuyên là dự trữ vật tư tại kho bãi để đảm bảo cho sản xuất liên tục giữa hai đợt
cung ứng liền nhau theo hợp đồng. Dự trữ thường xuyên tương đối tính bằng ngày. Dự
trữ bảo hiểm là dự trữ vật tư để sử dụng trong trường hợp dự trữ thường xuyên trong
kho bãi đã hết mà đợt vật tư phải cung ứng theo kế hoạch chưa về. Phương pháp xác
định mức dự trữ kế hoạch cho mỗi dạng có sự khác nhau:


Xác định mức dự trữ thường xuyên: có thể tính bằng số ngày đảm bảo vật
tư cho sản xuất hoặc tính số lượng vật tư cần dự trữ cụ thể. Nếu tính bằng
số lượng, công thức xác định như sau:
Dtx = Mbqn x Ncc

Mbqn: là mức tiêu dùng bình quân ngày của vật tư i;
Ncc:

là số ngày cung cấp cách nhau giữa hai đợt liền kề;


Xác định mức dự trữ bảo hiểm:
Dbh = Nbh x Mbqn

Nbh:

là số ngày dự trữ bảo hiểm, phụ thuộc vào việc cung ứng thực tế sai lệch so với
kế hoạch có thường xuyên hay không. Số ngày này có thể được tính dựa trên số
ngày chênh lệch bình quân giữa kế hoạch cung ứng và thực tế nhập vật tư trong
năm báo cáo hoặc theo thời gian cần thiết để có đợt cung ứng vật tư gấp:
Nbh = Ncb + Nvc + Nkt


với Ncb là số ngày cần để cho nhà cung ứng chuẩn bị nguyên vật liệu khi đặt hàng, N vc
là số ngày vận chuyển từ địa điểm bán tới địa điểm giao hàng, N kt là số ngày cần cho
kiểm tra số chất lượng vật tư trước khi nhập kho.
+

Xác định tiến độ cung ứng vật tư

Trên thực tế, mặc dù có đầy đủ lượng dự trữ vật tư, tuy nhiên quá trình sản xuất
vẫn gặp những chậm trễ, lãng phí thời gian, nguồn lực do vấn đề vật tư mang lại. Sở dĩ
như vậy vì, thông thường quá trình sản xuất thường có nhiều loại nguyên vật liệu khác
nhau, kho dự trữ vật tư cách xa nơi sản xuất, hoặc thủ tục cung ứng không đảm bảo.
Chính vì lý do đó, cần xác định thời gian biểu cung ứng vật tư nhằm san tải quản lý
kho, phương tiện vận tải bốc dỡ.
+

Tối ưu hoá dự trữ vật tư – hàng hoá

Đối với các doanh nghiệp sản xuất các loại hàng hóa mà sử dụng bán thành
phẩm mua ngoài nhiều loại với số lượng lớn (như sản xuất ô tô, xe máy, hàng điện tử,
…) cũng như các doanh nghiệp thương mại phải thường xuyên dự trữ hàng để bán tối
ưu nhất đảm bảo quay vòng vốn nhanh, đồng thời lại giảm chi phí đặt hàng và lưu kho

24


thì việc tối ưu hoá dự trữ vật tư hàng hoá có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trường hợp
này có thể sử dụng mô hình Wilson để xác định số lượng hàng cho 1 lần cung ứng (đợt
nhập hàng) tối ưu. Số lượng đặt hàng tối ưu là số lượng làm cực tiểu tổng chi phí cho
dự trữ vật tư. Tổng chi phí cho dự trữ vật tư bao gồm chi phí lưu kho, chi phí đặ mua
và nhập hàng. Nếu gọi:

Vi là số lượng vật tư i cần mua trong năm; Q là số lượng
hàng của một lần nhập; Vi/Q là số lần nhập (hay cung ứng) vật tư hàng hoá về doanh
nghiệp; C1 là chi phí cho 1 lần đi mua và nhập hàng về - chi phí này không phụ thuộc
nhiều vào số lượng 1 lần đặt hàng.
Khi đó tổng chi phí đi mua và nhập hàng 1 năm là:
Vi
C1 x
Q
Với Q/2 là số lượng lưu kho trung bình; C 2 là chi phí lưu kho trung bình cho 1 đơn vị
hàng hoá - vật tư. Tổng chi phí lưu kho 1 năm bằng:
Q
C2 x
2
Gọi TC là tổng chi phí dự trữ vật tư hàng hoá, mô hình của Wilson có dạng:
Vi
TC =

Q

C1 x

+ C2 x
Q

2

Đây là hàm số mà biến số là Q còn C 1, C2, Vi là các thông số đã biết. Phải xác định Q
sao cho hàm chi phí này đạt cực tiểu, hay:
d TC (Q)


Vi C1
= -

dQ
Q=

C2
+

Q2

=0
2

2ViC1
= Q*
C2

Khi đó, Q* là số lượng hàng hoá hay vật tư tối ưu cho 1 lần cung ứng.
1.2.1.6 Kế hoạch giá thành sản phẩm
-

Vị trí

25


×