Tải bản đầy đủ (.pdf) (175 trang)

luan van quản lý di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ở huyện hà trung, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.51 MB, 175 trang )

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI

********

NGUYỄN VĂN TÙNG

QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA CẤP
QUỐC GIA
Ở HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

Chuyên ngành: Quản lý văn hóa
Mã số: 60310642

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Văn Tiến

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS.TS. Bùi Văn Tiến. Những nội dung trình bày trong
luận văn là kết quả nghiên cứu của tôi, đảm bảo tính trung thực và chưa từng
được ai công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Những chỗ sử dụng kết quả
nghiên cứu của người khác, tôi đều trích dẫn rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách
nhiệm trước nhà trường về sự cam đoan này.
Hà Nội, ngày


tháng

Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Tùng

năm 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4
Chƣơng 1 ........................................................................................................ 15
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA ......... 15
VÀ HỆ THỐNG DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA CẤP QUỐC GIA ....... 15
Ở HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA.......................................... 15
1.Cơ sở lý luận về quản lý di tích lịch sử văn hóa ......................................................... 15
1.1.Một số khái niệm ................................................................................................... 15
1.2.Các loại di tích lịch sử- văn hóa tiêu biểu .............................................................. 26
1.3.Cơ sở pháp lý về quản lý di tích lịch sử- văn hóa .................................................. 31
2.Khái quát về huyện Hà Trung ....................................................................................... 33
2.1.Vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên .............................................................................. 33
2.2.Cư dân .................................................................................................................... 36
2.3.Sự phát triển kinh tế - xã hội.................................................................................. 36
2.4.Truyền thống lịch sử và văn hóa ............................................................................ 37
3.Tổng quan về hệ thống di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ở huyện Hà Trung .......... 40
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................................ 40

Chƣơng 2 ........................................................................................................ 41
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ- VĂN HÓA .................. 41
CẤP QUỐC GIA Ở HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA........... 41

1.Bộ máy tổ chức và cơ chế quản lý ................................................................................ 41
1.1.Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý di tích .................................................................. 41
1.2.Nguồn nhân lực quản lý di tích lịch sử- văn hóa ................................................... 47
1.3.Các hoạt động quản lý di tích lịch sử- văn hóa cấp quốc gia ở huyện Hà Trung .. 52
2.Đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong công tác quản lý di tích lịch sử- văn hóa ở
huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa .................................................................................... 67
2.1.Hạn chế .................................................................................................................. 70
2.2.Nguyên nhân .......................................................................................................... 73

Chƣơng 3 ........................................................................................................ 77
QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA CẤP QUỐC GIA ............... 77
Ở HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA.......................................... 77
1.Một số quan điểm quản lý di tích lịch sử- văn hóa cấp quốc gia .................................. 77
1.1.Quan điểm thống nhất vai trò quản lý di tích ........................................................ 77


1.2.Quan điểm bảo tồn và phát huy giá trị di tích phải đảm bảo tính trung thực, tính
nguyên gốc của các di tích ........................................................................................... 78
1.3.Quan điểm bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể gắn với các giá trị văn
hóa phi vật thể .............................................................................................................. 78
1.4.Quan điểm bảo tồn và phát huy giá trị di tích gắn với cộng đồng và vì cộng đồng
..................................................................................................................................... 79
1.5.Quan điểm bảo tồn, phát huy di tích gắn với sự phát triển kinh tế- xã hội của địa
phương ......................................................................................................................... 79
2.Định hướng và nhiệm vụ quản lý di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia đến năm 2025,
tầm nhìn đến năm 2030 ................................................................................................... 80
2.1.Định hướng ............................................................................................................ 80
2.2.Nhiệm vụ................................................................................................................ 80
3.Một số giải pháp quản lý di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ở huyện Hà Trung, tỉnh

Thanh Hóa........................................................................................................................ 80
3.1.Những căn cứ để đưa ra giải pháp ......................................................................... 80
3.2.Một số giải pháp cụ thể .......................................................................................... 82
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................................ 96

KẾT LUẬN .................................................................................................... 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 101
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 108
KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG ....................................................................................... 110
Trên đây là kế hoạch tham mưu cho UBND huyện trong việc quản lý di tích lịch sửvăn hóa và danh thắng trên địa bàn huyện. Đề nghị UBND huyện quan tâm chỉ đạo./. 158
PHỤ LỤC 4 ................................................................................................................... 159
MỘT SỐ HÌNH ẢNH DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA CẤP QUỐC GIA HUYỆN HÀ
TRUNG, TỈNH THANH HÓA ..................................................................................... 159
4.1. Đền thờ Trần Hưng Đạo ........................................................................................ 159
4.2. Ly cung ................................................................................................................... 160
4.3. Đình Gia Miêu ........................................................................................................ 162
4.5. Nhà thờ họ Nguyễn Hữu ......................................................................................... 163
4.6. Đình làng Đình Trung ............................................................................................. 164
4.8. Lăng miếu Triệu Tường .......................................................................................... 165


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Di tích lịch sử - văn hóa là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn
trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Để bảo vệ và phát
huy giá trị di sản văn hoá, đáp ứng nhu cầu về văn hoá ngày càng cao của
nhân dân, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc và đóng góp vào kho tàng di sản văn hoá thế giới,
đồng thời tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm của

nhân dân trong việc tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá.
Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc
gia bao gồm: công trình xây dựng, địa điểm ghi dấu sự kiện, mốc lịch sử quan
trọng của dân tộc hoặc gắn với anh hùng dân tộc, danh nhân, nhà hoạt động
chính trị, văn hóa, nghệ thuật, khoa học nổi tiếng có ảnh hưởng quan trọng
đối với tiến trình lịch sử của dân tộc.
Những công trình kiến trúc, nghệ thuật, quần thể kiến trúc, tổng thể kiến trúc
đô thị và địa điểm cư trú có giá trị tiêu biểu trong các giai đoạn phát triển
kiến trúc, nghệ thuật Việt Nam.
Địa điểm khảo cổ có giá trị nổi bật đánh dấu các giai đoạn phát triển của văn
hóa khảo cổ.
Cảnh quan thiên nhiên đẹp hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên
nhiên với công trình kiến trúc, nghệ thuật hoặc khu vực thiên nhiên có giá
trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý, đa dạng sinh học, hệ sinh thái đặc
thù.
Hà Trung, mảnh đất địa linh, nhân kiệt, giàu truyền thống lịch sử, văn hóa,
nơi có nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể nổi tiếng của Xứ Thanh.


Qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài, các di sản văn hóa đã gắn
liền chặt chẽ đời sống của người dân nơi đây. Từ những dấu vết hoạt động
chủ yếu của con người cổ xưa được các nhà khảo cổ học phát hiện và khai
quật ở các di chỉ Cồn Cổ Ngựa, Hang Chùa trong thời đại đồ Đá mới
khoảng hơn 5000 năm phát triển qua thời đại văn minh Đông Sơn, rồi
1000 năm đô hộ của phong kiến Phương Bắc, đến thời nhà nước phong
kiến tự chủ trên dưới 1000 năm và gần một thế kỷ đấu tranh cách mạng
kiên cường của dân tộc [37].
Trải qua các thời kỳ lịch sử, huyện Hà Trung với những tên gọi khác nhau:
Tống Giang, Tống Sơn. Đời Lê- Quang Thuận (1460- 1470), huyện Tống
Giang thuộc phủ Hà Trung. Đời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVI) đổi Tống

Giang thành Tống Sơn. Vùng đất này là nơi phát tích của triều Nguyễn,
một triều đại phong kiến phát triển cực thịnh với các thiết chế Nhà nước
được xây dựng hoàn hảo từ Trung ương tới địa phương, từ bang giao đến
mở mang bờ cõi, từ phát triển kinh tế đến chấn hưng và phát triển văn hóa
dân tộc. Thời kỳ nào cũng vậy! Người Hà Trung luôn cần cù, dũng cảm,
thông minh, giàu tình thương, trọng lẽ phải, anh dũng, kiên cường trong
chiến đầu chống giặc ngoại xâm, cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất,
kiên gan bền bỉ trong phòng chống và khắc phục thiên tai [37].
Với diện tích tự nhiên là 24.450,48 ha, dân số 110.544 người, với 30.492 hộ.
Toàn huyện có 24 xã và 01 thị trấn với 201 thôn, tiểu khu thuộc 154 làng
cổ. Người Kinh chiếm 98,4%, còn lại là dân tộc Mường chủ yếu cư trú ở
xã Hà Long. Với tổng số gần 700 di tích lịch sử - văn hóa, trong đó có
406 di tích lịch sử - văn hóa đã được kiểm kê gồm: 342 di sản văn hóa vật
thể, 64 di sản văn hóa phi vật thể. Về di sản văn hóa vật thể đã có 72 di
tích lịch sử - văn hóa được xếp hạng, bao gồm: 08 di tích lịch sử- văn hóa
được xếp hạng di tích cấp Quốc gia, 64 di tích được xếp hạng di tích cấp


tỉnh. Về văn hóa phi vật thể có 28 di sản văn hóa mang đậm bản sắc dân
tộc vùng miền được khôi phục, phát triển, tiêu biểu như: Lễ hội Đốt Đình
Liệu xã Hà Tiến, Lễ hội Cơm Thi xã Hà Thanh, Lễ hội Rước nước, Lễ hội
Kỳ Phúc, Lễ hội rước bóng tại các đình, đền... Hà Trung được người xưa
ca ngợi là vùng đất “non thanh cẩm tú” có nhiều núi, đồi, hang động như:
núi Chiếu Bạch, các ngọn núi Thần Đầu, Ngưỡng Sơn, Thiên Tôn, Chum
Vàng... đã đi vào ca dao, tục ngữ, đặc biệt còn lưu lại trong các thi phẩm
của Nguyễn Trung Ngạn, Nguyễn Trãi, Ngô Thì Sĩ...[37].
Trong những năm qua, dưới sự lãnh, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính
quyền, sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, ngành, đoàn thể sự đồng thuận,
hưởng ứng của nhân dân, công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản trên địa
bàn huyện đặc biệt được quan tâm. Trong đó, đã tập trung chỉ đạo thực hiện

kiểm kê di tích lịch sử- văn hóa và di sản văn hóa phi vật thể; lập quy
hoạch, khoanh vùng, cắm mốc và huy động nguồn lực để thực hiện bảo tồn
các di sản văn hóa, công tác lập hồ sơ khoa học để xếp hạng di tích, đề nghị
cấp có thẩm quyền công nhận di sản văn hóa được quan tâm chỉ đạo. Đặc
biệt là hoạt động quản lý Nhà nước trong bảo tồn và phát huy giá trị các di
tích lịch sử- văn hóa ngày càng được quan tâm, góp phần bảo tồn và phát
huy giá trị các di tích lịch sử- văn hóa một cách chuyên nghiệp góp phần
xây dựng quê hương Hà Trung ngày một giàu đẹp, văn minh.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý, bảo tồn, phát
huy các di sản văn hóa vẫn chưa tương xứng với giá trị và tiềm năng; nhất
là việc quản lý, bảo vệ, khai thác và phát huy giá trị các di tích lịch sử- văn
hóa cấp quốc gia trên địa bàn chưa thực sự hiệu quả; một số di tích bị
xuống cấp, mai một, thu hẹp về diện tích, một số địa phương được giao làm
chủ đầu tư thực hiện bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích không tuân thủ theo
hồ sơ thiết kế, việc quản lý, sử dụng kinh phí hỗ trợ chống xuống cấp sai


mục đích, tiếp nhận các hiện vật từ cá nhân không đúng quy định, việc
quản lý di tích ở một số địa phương còn lỏng lẻo, đội ngũ làm trong các di
tích lịch sử - văn hóa còn thiếu, yếu, chưa được đào tạo đúng chuyên
ngành, cơ sở vật chất ở nhiều di tích còn nghèo nàn, môi trường di tích
chưa thực sự trong sạch, kinh phí đầu tư cho việc trùng tu, tôn tạo, khôi
phục phát huy giá trị di sản còn thấp; hoạt động dịch vụ trong các di tích, lễ
hội chưa phong phú, đa dạng; bản sắc của địa phương chưa rõ nét. Chính vì
vậy, công tác quản lý di tích lịch sử- văn hóa cấp quốc gia ở huyện Hà
Trung đang là nhiệm vụ quan trọng kể cả trước mắt và lâu dài, đây không
những là trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, hệ thống chính
trị mà cần sự chung tay vào cuộc của cộng đồng, dân cư nơi có di tích và
của toàn xã hội; không những thế, đòi hỏi phải có sự tập trung lãnh đạo,
chỉ đạo và đầu tư tương xứng với tiềm năng và giá trị của các di tích lịch

sử- văn hóa cấp quốc gia trên địa bàn.
Hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu tổng thể để khảo cứu, đánh giá ý
nghĩa cũng như kiến nghị và đề xuất những phương hướng và giải pháp có
tính khả thi nhằm quản lý, bảo tồn và phát huy tốt, nâng cao hoạt động
quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của những di tích lịch sử- văn hóa cấp
quốc gia trên địa bàn huyện.
Trước thực trạng và sự cấp thiết của vấn đề nghiên cứu, trên cơ sở khoa học,
thực tiễn, tiếp thu những công trình khoa học đi trước, tôi đã chọn đề tài
“Quản lý di tích lịch sử- văn hóa cấp quốc gia ở huyện Hà Trung, tỉnh
Thanh Hóa” để nghiên cứu nghiên cứu trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ
Văn hóa học, chuyên ngành Quản lý văn hóa.
2. Tình hình nghiên cứu


Ở trong nước, những năm gần đây có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu
được đăng trên các tạp chí, sách chuyên ngành đề cập tới lĩnh vực quản lý
di sản văn hóa nói chung, quản lý di sản văn hóa vật thể (trong đó nhiều
phần đề cập tới quản lý di tích lịch sử văn hóa) nói riêng. Trong bối cảnh
của đất nước hiện nay, Đảng và Nhà nước dành sự quan tâm tới các di sản
văn hóa với nhiều chính sách nhằm bảo vệ, lưu giữ và phát huy các giá trị
của chúng. Theo xu hướng đó, các nghiên cứu của các tác giả trong nước
tập trung xoay quanh các vấn đề về lý luận, kinh nghiệm thực tiễn của
hoạt động quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn hóa trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập và phát triển, từ đó đề ra các
giải pháp, kiến nghị cho từng trường hợp cụ thể. Các bài viết theo dạng
này chiếm số lượng khá lớn. Thực tế quản lý di sản văn hóa nhất là đối
với các di sản văn hóa vật thể, mọi hoạt động quản lý đều hướng tới mục
đích quan trọng nhất đó là duy trì sự tồn tại của các di sản ở trạng thái tốt
nhất, từ đó có thể khai thác, phát huy phục vụ cho cộng đồng xã hội.
Trong bài Một số vấn đề về di tích lịch sử văn hóa [63, tr.496 -511], khi đề

cập đến vấn đề quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo tồn di tích, GS Lưu
Trần Tiêu cho rằng, hoạt động bảo tồn di tích thể hiện ở 3 mặt cụ thể là:
bảo vệ di tích về mặt pháp lý và khoa học; bảo vệ di tích về mặt vật chất
kỹ thuật; cuối cùng là sử dụng di tích phục vụ nhu cầu hiện của xã hội. Cụ
thể, trong công tác quản lý tập trung vào 3 vấn đề là: công nhận di tích,
quản lý cổ vật và phân cấp quản lý di tích. Tác giả nhấn mạnh: các di tích
lịch sử văn hóa chỉ có thể được bảo vệ và phát huy cao nhất giá trị văn
hóa khi thực hiện một cách đồng bộ 3 mặt hoạt động này. Do đó cần thiết
phải thực hiện: Thứ nhất, thiết lập cơ chế, chính sách đúng đắn có tác
dụng thúc đẩy sự nghiệp bảo tồn, bảo tàng trong cả nước; Thứ hai, cần có


một hệ thống tổ chức thích hợp đủ khả năng biến các chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước thành hiện thực; Thứ ba, cần tổ chức để đưa
các hoạt động bảo tồn thực sự trở thành sự nghiệp của toàn dân. Từ đó,
tác giả đã đề ra 6 biện pháp mang tính cấp bách nhằm tăng cường việc
thống nhất quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo tồn di tích: 1/Thể chế hóa
bằng pháp luật các chính sách, cơ chế của nhà nước; 2/Quy hoạch toàn bộ
các di tích được công nhận; 3/Phân cấp quản lý; 4/Xã hội hóa hoạt động
bảo tồn; 5/Ưu tiên đầu tư ngân sách; 6/Nâng cao trình độ chuyên môn và
năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ.
Trong bài Vấn đề quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo tồn di sản văn
hóa, tác giả Đặng Văn Bài đã đưa ra một số nội dung chủ yếu của công
tác quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa, coi đây là các vấn đề then
chốt, cần quan tâm. Các nội dung bao gồm: Quản lý nhà nước bằng văn
bản pháp quy (gồm có các văn bản pháp quy về bảo vệ, phát huy giá trị di
sản văn hóa; quyết định về cơ chế, tổ chức quy hoạch và kế hoạch phát
triển; quyết định phân cấp quản lý...); Việc phân cấp quản lý di tích; Hệ
thống tổ chức ngành bảo tồn- bảo tàng và đầu tư ngân sách cho các cơ
quan quản lý di tích- là yếu tố có tính chất quyết định nhằm tăng cường

hiệu quả quản lý [3, tr.11- 13].
Hai tác giả Nguyễn Thị Kim Loan (chủ biên) và Nguyễn Trường Tân trong
giáo trình Quản lý di sản văn hóa của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
[42], đã đưa ra một số nội dung như: 1/Khái niệm chung về quản lý và
quản lý nhà nước về di sản văn hóa; 2/Quan điểm phát triển văn hóa của
Đảng và Nhà nước liên quan đến quản lý di sản văn hóa dân tộc; 3/Nội
dung cơ bản của quản lý nhà nước về di sản văn hóa. Hai tác giả trên cho


đây là một số nội dung về nghiệp vụ quản lý di sản văn hóa mà thực chất
đây là các mặt hoạt động bảo tồn di sản văn hóa.
Trong cuốn Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội
nhập quốc tế của hai tác giả Phan Hồng Giang và Bùi Hoài Sơn (đồng
chủ biên) đã đề cập đến nhiều lĩnh vực cụ thể của hoạt động quản lý văn
hóa ở nước ta hiện nay trong đó có quản lý di sản văn hóa. Ở lĩnh vực
này, các tác giả đưa ra thực trạng quản lý di tích lịch sử văn hóa, bảo tàng
và di sản văn hóa phi vật thể. Nội dung quản lý được đề cập trên hai khía
cạnh: 1/Công tác quản lý nhà nước: bao gồm việc ban hành các văn bản
pháp quy, các văn bản thể hiện chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà
nước về bảo tồn di sản văn hóa dân tộc; 2/Công tác phát triển sự nghiệp:
tập trung phân tích những ưu điểm trong hoạt động bảo tồn di tích như
nhà nước đã đầu tư toàn bộ kinh phí cho các di tích cách mạng kháng
chiến, các di tích được đầu tư tu bổ, chống xuống cấp đã trở thành các
điểm tham quan hấp dẫn. Đồng thời nêu ra những hạn chế như chưa có
quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị, các dự án chưa đồng bộ, chưa đáp
ứng nhu cầu bảo tồn... Từ thực trạng này các tác giả đã đề ra những giải
pháp cụ thể cho từng lĩnh vực của di tích như: đầu tư đồng bộ trong bảo
tồn, tôn tạo, triển khai việc quy hoạch chi tiết đối với các di tích để giải
quyết hợp lý, hài hòa bền vững...[26, tr.486].
Đề tài nghiên cứu Bảo vệ di sản văn hóa trong quá trình phát triển kinh

tế - xã hội và hội nhập quốc tế [34] của Cục Di sản văn hóa do TS
Nguyễn Thế Hùng làm chủ nhiệm cũng đã đề cập tới những ảnh hưởng
của sự đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến việc bảo vệ di sản văn
hóa. Đề tài nghiên cứu về thực trạng hoạt động bảo vệ, phát huy trên các
lĩnh vực di sản văn hóa vật thể và phi vật thể trên phạm vi cả nước với


những thành tựu đạt được cũng như hạn chế trong hoạt động này. Tác giả
đề tài đề xuất 6 nhóm giải pháp chính nhằm đẩy mạnh sự nghiệp bảo vệ
và phát huy giá trị di sản văn hóa như: tăng cường công tác quản lý nhà
nước; củng cố hoàn thiện bộ máy ngành; chính sách đầu tư; xã hội hóa;
đào tạo nguồn lực con người; tăng cường hợp tác quốc tế...
Đối với trường hợp cụ thể hơn, chuyên luận Nghiên cứu thực trạng và giải
pháp bảo tồn di sản văn hóa tại các vùng đang trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở đồng bằng sông Hồng [35] là công trình
nghiên cứu khoa học của TS Phạm Thị Thu Hương. Chuyên luận nghiên
cứu thực trạng bảo vệ di sản văn hóa vật thể và phi vật thể ở một số địa
phương vùng đồng bằng sông Hồng- đây là các khu vực có tốc độ phát
triển mạnh mẽ, có tác động rõ nét tới di sản văn hóa. Tác giả cho rằng,
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa có tác động theo hai xu hướng
tích cực và tiêu cực đến di sản văn hóa: ở chiều tích cực, quá trình này đã
tạo ra những nguồn lực kinh phí ngân sách của nhà nước và xã hội để đầu
tư cho việc tu bổ tôn tạo di sản văn hóa, nhiều thành tựu của khoa học
công nghệ được áp dụng vào lĩnh vực bảo tồn, phát huy giá trị di sản...
Theo chiều ngược lại thì các khu công nghiệp, các đô thị phát triển nhanh
không lưu ý đúng mức đến sự tồn tại bền vững của di sản dẫn đến tình
trạng di sản văn hóa lấn át, hư hỏng, biến dạng hoặc bị hủy hoại. Cùng với
sự hư hỏng hoặc hủy hoại của di sản văn hóa vật thể, các di sản văn hóa
phi vật thể tồn tại song song cũng không thể không bị ảnh hưởng tương
tự.

Bên cạnh những công trình nghiên cứu, những cuốn sách đã nêu trên, còn có
một số lượng khá lớn các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành như:
Di sản văn hóa, Văn hóa Nghệ thuật, Văn hóa học, Nghiên cứu văn hóa...


có nội dung bàn luận về hai vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa ở nước ta. Các bài viết này có xu hướng đề cập cả những vấn đề lý
luận cũng như thực tiễn của việc bảo tồn, phát huy và vai trò của di sản
văn hóa trong bối cảnh phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế hiện nay.
Tuy nhiên, số lượng các bài viết thuộc dạng này khá lớn, do vậy khó có
thể bao quát hết toàn bộ quan điểm, nội dung của tất cả các bài viết đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu, trình bày một cách có hệ thống về công tác quản lý di tích lịch
sử- văn hóa cấp quốc gia ở huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa giai đoạn
2016- 2020.
- Đánh giá thực trạng quản lý di tích lịch sử- văn hóa cấp quốc gia ở huyện Hà
Trung, tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2011- 2016, phân tích những mặt tích
cực, hạn chế, tìm hiểu nguyên nhân từ đó đề xuất một số giải pháp khả thi
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động quản lý di tích lịch sử- văn
hóa cấp quốc gia ở huyện Hà Trung giai đoạn 2016- 2020.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, hệ thống hóa các nguồn tư liệu từ trước đến nay về huyện
Hà trung, tỉnh Thanh Hóa hệ và quá trình hình thành, tồn tại và phát triển
của thống di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia của huyện;
- Làm sâu sắc hơn cơ sở khoa học và pháp lý của quản lý nhà nước về di tích
lịch sử - văn hóa nói chung và quản lý di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc
gia nói riêng;
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về di tích lịch
sử - văn hóa cấp quốc gia trên địa bàn huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.



- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước
về di tích lịch sử- văn hóa quốc gia trên địa bàn huyện Hà Trung, tỉnh
Thanh Hóa.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác quản lý di tích lịch sử- văn hóa cấp quốc gia ở huyện Hà Trung, tỉnh
Thanh Hóa, giai đoạn 2016- 2020.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn chủ yếu tập trung vào hoạt động quản lý di tích lịch sử- văn hóa
theo tinh thần nội dung của Luật di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi,
bổ sung năm 2009.
- Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu về các di tích lịch sử- văn hóa
cấp quốc gia trên địa bàn huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.
- Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu về hoạt động quản lý di tích lịch sửvăn hóa cấp quốc gia ở huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 20162020.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu liên ngành

Văn hóa học, Quản lý văn hóa, Sử học, Bảo tồn di tích lịch sử văn hóa...
5.2. Phương pháp khảo sát, điền dã tại thực địa
Khảo sát thực địa tại một số di tích lịch sử- văn hóa cấp quốc gia trên địa bàn
huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa nhằm tập hợp những thông tin bước đầu
về thực trạng quản lý các di tích theo các loại hình tại các địa phương này.
5.3. Áp dụng phương pháp nghiên cứu của xã hội học văn hóa


Với mục đích thu được thông tin từ nhiều nguồn khác nhau nhằm làm sáng tỏ
nội dung nghiên cứu, tác giả luận văn sử dụng cách tiếp cận của xã hội
học văn hóa với các phương pháp cụ thể của ngành khoa học này. Trong

đó, các phương pháp nghiên cứu định tính (quan sát, phỏng vấn cá nhân,
phỏng vấn nhóm.), và xây dựng nội dung phỏng vấn sâu đối với các nhà
quản lý, cộng đồng địa phương, các nhà khoa học...
5.4. Phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê và phân loại
Tổng hợp và phân tích các nguồn tài liệu của nhằm xem xét, đánh giá các lý
thuyết, các quan điểm nghiên cứu có liên quan đến đối tượng nghiên cứu
của luận văn. Nguồn tài liệu nghiên cứu đi trước sẽ được tìm hiểu theo các
vấn đề liên quan như: di sản văn hóa, quản lý di sản văn hóa, quản lý di
tích lịch sử- văn hóa, các nghiên cứu về các di tích lịch sử- văn hóa cụ thể
ở huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa với tư cách là đối tượng quản lý, các
vấn đề xây dựng chiến lược, xây dựng dự án nhằm bảo tồn và phát huy
giá trị của di sản văn hóa, di tích lịch sử văn hóa...
Trên cơ sở nghiên cứu điều kiện tự nhiên, tiềm năng về di sản cũng như thực
trạng của hoạt động quản lý di tích lịch sử - văn hóa hiện nay, định hướng
phát triển của địa phương, luận văn sẽ phân tích những điều đó để thấy
được những điểm mạnh, những hạn chế, chỉ ra được những thuận lợi và
thách thức trong hoạt động quản lý di tích. Đó chính là cơ sở để tác giả
luận văn có thể bước đầu đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
của công tác quản lý di tích lịch sử- văn hóa ở huyện Hà Trung, tỉnh
Thanh Hóa trong những điều kiện phát triển hiện nay.
6. Đóng góp của luận văn
- Bước đầu đánh giá thực trạng công tác quản lý di tích lịch sử văn hóa cấp
quốc gia trên địa bàn huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.


- Đề xuất các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản
lý di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia trên địa bàn huyện Hà Trung trong
thời gian tới.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dung làm cơ sở khoa học
giúp các cấp lãnh đạo của UBND, phòng VH&TT huyện Hà Trung

nghiên cứu, xây dựng kế hoạch và biện pháp đổi mới công tác quản lý di
tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia trên địa bàn huyện.
- Luận văn cũng góp thêm một nguồn tài liệu tham khảo cho các huyện lân cận
có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng xem xét, vận dụng vào quá trình đổi
mới công tác quản lý di tích lịch sử văn hóa của địa phương mình.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính
của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý di tích lịch sử văn hóa và hệ thống di tích
lịch sử văn hóa cấp Quốc gia ở huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa
Chương 2: Thực trạng quản lý di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia ở huyện
Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa
Chương 3: Quan điểm, định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
quản lý di tích lịch sử- văn hóa cấp quốc gia ở huyện Hà Trung, tỉnh
Thanh Hóa.



Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA
VÀ HỆ THỐNG DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA CẤP QUỐC GIA
Ở HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA
1.

Cơ sở lý luận về quản lý di tích lịch sử văn hóa

1.1.
1.1.1.

Một số khái niệm

Khái niệm Di tích lịch sử văn hóa
Di tích lịch sử văn hóa là một thành tố quan trọng cấu thành di sản văn

hóa. Sở dĩ gọi là di tích lịch sử văn hóa vì chúng được tạo ra bởi con người.
Văn hóa ở đây bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, văn hóa vật
thể và văn hóa phi vật thể. Khái niệm di tích lịch sử văn hóa được đề cập
trong nhiều ngôn ngữ khác nhau và hàm nghĩa của nó cũng rất phong phú, đa
dạng, chẳng hạn tiếng Anh và tiếng Pháp gọi là di tích là vestige; tiếng Trung
Quốc gọi là cổ tích, tiếng Nga gọi là pamiatnik, ...
Theo Điều 1 Hiến chương Venice (Italia) năm 1964 thì khái niệm di
tích lịch sử không chỉ dùng để chỉ một công trình kiến trúc đơn chiếc mà là cả
một khung cảnh đô thị hoặc nông thôn có chứng tích của một nền văn minh
riêng, một phát triển có ý nghĩa hoặc sự kiện lịch sử. Khái niệm di tích lịch sử
văn hóa không chỉ áp dụng với những công trình nghệ thuật to lớn mà còn cả
với những công trình khiêm tốn hơn mà theo dòng thời gian nó đã tích hợp
trong mình một ý nghĩa văn hóa [Các Hiến chương quốc tế về bảo tồn và
trùng tu (2004), Nxb Xây dựng, Hà Nội]
Di tích lịch sử - văn hóa là một khái niệm có hàm nghĩa rất rộng, vì
vậy, ở Việt Nam cũng có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về di tích
lịch sử văn hóa. Từ điển tiếng Việt thì nêu ra định nghĩa: Di tích là các loại
dấu vết của quá khứ, chủ yếu là nơi cư trú và mộ táng của người xưa được
khoa học nghiên cứu. Theo nghĩa di tích văn hóa thì nó là di tích lịch sử, văn


hóa bất động. [Nguyễn Như Ý (Chủ biên), (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb
VHTT, Hà Nội]. Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa “Di tích (lịch sử
văn hóa - NVT) là các loại dấu vết của quá khứ, là đối tượng nghiên cứu của
khảo cổ học, sử học... Di tích là di sản văn hoá – lịch sử được pháp luật bảo
vệ, không ai được tuỳ tiện dịch chuyển, thay đổi, phá huỷ” [Từ điển Bách
khoa Việt Nam, T1, tr. 667].

Theo giáo trình "Bảo tồn di tích lịch sử, văn hóa" của Trường Đại học Văn
hóa Hà Nội thì di tích là những không gian, vật chất cụ thể, khách quan, trong đó
chứa đựng các giá trị điển hình lịch sử: do tập thể hoặc cá nhân con người hoạt
động sáng tạo ra trong lịch sử để lại [Trịnh Thị Minh Đức, Nguyễn Duy Đăng
(1993), Bảo tồn di tích lịch sử văn hóa, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội].
Pháp lệnh số 14/LCT/HĐNN7 ngày 04 tháng 4 năm 1984 của Hội đồng
nhà nước về "Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng
cảnh" thì quy định: "Di tích lịc sử văn hóa là những công trình xây dựng, địa
điểm, đồ vật, tài liệu và tác phẩm có giá trị lịch sử, khoa học nghệ thuật cũng
như có giá trị về văn hóa khác hoặc có liên quan đến những sự kiện lịch sử,
quá trình phát triển văn hóa xã hội" [Pháp lệnh số 14/LCT/HĐNN7 ngày 04
tháng 4 năm 1984 về "Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa và danh lam
thắng cảnh"].
Theo luật di sản văn hóa năm 2001 được sửa đổi, bổ sung năm 2009
thì coi di tích lịch sử văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật,
cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình địa điểm đó, có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học. [Luật Di sản văn hóa (2001) và được sửa đổi bổ sung một số
điều năm 2009, Nxb CTQG, Hà Nội].
Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Di sản văn hóa quy định tại Điều
11 nêu rõ: "Di tích là các di tích lịch sử (di tích lưu niệm sự kiện, di tích lưu


niệm danh nhân), di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích khảo cổ, danh lam thắng
cảnh" [Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Di sản văn hóa].
Chúng ta cũng tìm thấy có những ý kiến khác nhau tương tự trong các
công trình nghiên cứu, trong các văn bản pháp qui có liên quan tới di tích lịch
sử văn hóa. Song, dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng các khái
niệm đó đều có chung một nội dung, đó là di tích lịch sử văn hóa là những

không gian vật chất cụ thể, khách quan của quá khứ còn tồn tại đến ngày nay,
trong đó chứa đựng các giá trị điển hình của lịch sử, do tập thể hoặc cá nhân
sáng tạo ra trong lịch sử. Có thể nói rằng văn bản qui định nội hàm của khái
niệm di tích lịch sử văn hóa được xem là đầy đủ nhất và cụ thể nhất phải kể
đến Luật Di sản văn hoá do Quốc hội nước CHXH chủ nghĩa Việt Nam ban
hành năm 2001, được sửa đổi, bổ sung thành Luật Di sản văn hoá năm 2009.
Điều 28 của Bộ Luật này còn qui định thêm rằng:
a. di tích lịch sử văn hóa phải có một trong các tiêu chí cụ thể như sau:
- Công trình xây dựng địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu trong
quá trình dựng nước và giữ nước;
- Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh
hùng dân tộc, danh nhân của đất nước;
- Công trình xây dựng, địa điểm găn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của
các thời kì cách mạng, kháng chiến;
- Địa điểm có giá trị tiêu biểu về khảo cổ;
- Quần thể các công trình kiến trúc hoặc công trình kiến trúc đơn lẻ có
giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử.
b. Danh lam thắng cảnh phải có một trong các tiêu chí sau đây:
- Cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan
thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu;


- Khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý,
đa dạng sinh học, hệ sinh thái đặc thù hoặc khu vực thiên nhiên chứa đựng
những dấu tích vật chất về các giai đoạn phát triển của trái đất [Luật Di sản
văn hóa (2001) và được sửa đổi bổ sung một số điều năm 2009, Nxb CTQG,
Hà Nội].
Như vậy, có thể nói rằng di tích lịch sử văn hóa là những nơi lưu giữ
các giá trị văn hóa khảo cổ, những địa điểm ghi dấu tích về lịch sử dân tộc,
những nơi diễn ra những sự kiện chính trị quan trọng, có ý nghĩa đối với lịch

sử dân tộc, lịch sử địa phương, những địa điểm ghi dấu chiến công trống xâm
lược, chống áp bức, những nơi có giá trị lưu niệm về nhân vật lịch sử, anh
hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, khoa học, những công trình kiến trúc nghệ
thuật có giá trị. Mỗi di tích lịch sử văn hóa đều mang một giá trị văn hóa, lịch
sử nhất định, phản ánh một chặng đường lịch sử của cộng đồng dân cư, quá
trình hình thành và phát triển xã hội qua mỗi thời đại. Nghị quyết TW5, khóa
VIII của Đảng đã khẳng định văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm
lao động, sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn hóa
của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình [Ban Chấp
hành Trung ương 5 khoá VIII, Nghị quyết lần thứ 5 (1998), Xây dựng và phát
triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc].
1.1.2.

Khái niệm quản lý
Bản thân khái niệm quản lý có tính đa nghĩa nên có sự khác biệt giữa

nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Hơn nữa, do sự khác biệt về thời đại, chế độ xã hội,
về nghề nghiệp, v.v... mà nội dung của quản lý cũng được lý giải bằng nhiều
cách khác nhau. Với sự phát triển của phương thức sản xuất xã hội và sự mở
rộng trong nhận thức của con người hiện nay, sự khác biệt về nhận thức và lý
giải về khái niệm quản lý ngày càng trở nên rõ rệt. Chính vì vậy mà cho đến


nay chúng ta vẫn chưa thấy có một định nghĩa thống nhất về quản lý. Xuất
phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, rất nhiều học giả trong và ngoài
nước đã nêu ra những quan niệm không giống nhau về khái niệm quản lý.
Xuất phát từ việc cho rằng hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân
công lao động và hợp tác lao động, cho nên cần có hoạt động quản lý. Về vấn
đề này C.Mác đã cho rằng: “Bất cứ lao động xã hội hay lao động chung nào

mà tiến hành trên quy mô khá lớn đều yêu cầu có sự chỉ đạo, điều hòa giữa
những hoạt động cá nhân... một nhạc sĩ độc tấu thì tự điều khiển lấy mình
nhưng một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” [C. Mác và F. Ăng-ghen.
Toàn tập, tập 23. Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1993].
Bản thân khái niệm quản lý có tính đa nghĩa nên có sự khác biệt giữa
nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Hơn nữa, do sự khác biệt về thời đại, chế độ xã hội,
về nghề nghiệp, v.v... mà quản lý cũng có nhiều cách giải thích, lý giải khác
nhau. Với sự phát triển của phương thức sản xuất xã hội và sự mở rộng trong
nhận thức của con người hiện nay, sự khác biệt về nhận thức và lý giải về
khái niệm quản lí ngày càng trở nên rõ rệt. Xuất phát từ những góc độ nghiên
cứu khác nhau, các học giả trong và ngoài nước đã đưa ra những quan niệm
khác nhau về quản lý. Có thể nói rằng cho đến nay vẫn chưa có một định
nghĩa thống nhất về quản lý, nhất là trong giai đoạn hiện nay, với sự phát triển
mang tính chất bùng nổ của kinh tế-xã hội, các quan niệm về quản lý lại càng
thêm phong phú.
Thông thường, người ta xem xét khái niệm quản lý dưới hai góc độ:
góc độ chính trị - xã hội và góc độ hành động.
Ở góc độ chính trị - xã hội, quản lý được hiểu là sự kết hợp giữa tri
thức và lãnh đạo mà trong sự vận hành của nó cần có một cơ chế phù hợp. Cơ
chế đúng và hợp lý thì thúc đẩy sự phát triển của xã hội, ngược lại, nếu cơ chế
sai, không hợp lý thì sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội, thậm chí càng làm


cho xã hội rối ren thêm. Còn ở góc độ hành động, quản lý được hiểu là sự chỉ
huy, điều khiển, điều hành.
Nhìn vào sự vận hành của hoạt động quản lý, chúng ta có thể thấy rằng
về thực chất, quản lý cũng là một hành vi, trong đó có người tác động, người
chịu tác động và mục đích của hành vi đó. Nói cách khác, trong hoạt động
quản lý có chủ thể quản lý, đối tượng quản lý và mục đích quản lý, 3 yếu tố
này hợp thành hoạt động quản lý và có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Bên

cạnh đó, cũng cần lưu ý rằng, bất cứ hoạt động quản lý nào cũng không phải
là hoạt động độc lập, nó cần được tiến hành trong môi trường, trong những
điều kiện cụ thể.
Như vậy, có thể hiểu rằng quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể
quản lý lên đối tượng quản lý để chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình
xã hội và hành vi của từng cá nhân nhằm hướng đến một mục đích hoạt động
chung và phù hợp với qui luật khách quan, dựa trên những chuẩn mực chung
trong những thời điểm cụ thể.
Trong định nghĩa này, chủ thể quản lý là người quản lý, tổ chức quản
lý; khách thể hay đối tượng quản lý là các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội,
kinh tế, v.v… Hoạt động quản lý diễn ra tuân theo một hệ thống pháp luật,
các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể
nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng quản
lý.Trong xã hội luôn có nhiều nhiều phương diện, nhiều nhu cầu, đòi hỏi phải
có nhiều lĩnh vực hoạt động của con người để đáp ứng những nhu cầu đó,
chẳng hạn như: hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, khoa
học, văn hóa, giáo dục. Mỗi lĩnh vực đều đặt dưới sự điều chỉnh của một cơ
chế quản lý toàn xã hội, có sự chỉ đạo để điều hòa hoạt động của các cá nhân
từ đó hình thành nên hoạt động quản lý. Thực chất hoạt động quản lý bắt
nguồn từ sự phân công lao động, hợp tác lao động. Quản lý diễn ra ở mọi tổ


chức từ phạm vi nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp. Trình độ xã hội hóa
càng cao, yêu cầu quản lý càng lớn và vai trò của nó càng tăng lên. Quản lý ra
đời chính là nhằm đến hiệu quả lớn hơn, năng suất cao hơn trong công việc.
Nhìn chung, có thể nói rằng quản lý là chức năng nhằm bảo vệ và duy
trì các cơ cấu xác định của một tổ chức. Đồng thời, duy trì chế độ hoạt động
thực hiện một chương trình và một mục tiêu của hoạt động đã được ý thức
hóa của một tập đoàn người, của một tổ chức xã hội hoặc một cá nhân nào đó
với tư cách là một chủ thể của hoạt động quản lý. Hiểu theo nghĩa thông

thường thì quản lý là hoạt động nhằm tác động một cách có tổ chức và định
hướng của chủ thể quản lý vào đối tượng nhất định để điều chỉnh các quá
trình xã hội và hành vi của con người nhằm duy trì tính ổn định và phát triển
của đối tượng theo những mục tiêu đã định.
Trong xã hội hiện đại, quản lý có một vai trò đặc biệt vì nó giữ vị trí
định hướng cho sự phát triển của một chế độ xã hội thông qua các phương
pháp, cách thức thể chế hóa, đường lối chung. Chức năng quản lý một lĩnh
vực, một ngành bao gồm việc hoạch định chính sách, quy hoạch phát triển;
chỉ đạo điều hành thông qua các chế tài và giám sát; quản lý hoạt động của
ngành hay lĩnh vực đó.
1.1.3.

Quản lý di sản văn hóa
Quản lý di sản văn hóa là quá trình xuyên suốt trong đời sống xã hội ở

tất các các cấp độ, các địa phương. Công tác này giúp cho đời sống văn hóa
của xã hội có được nền tảng ổn định bền vững để tồn tại và phát triển. Di sản
văn hóa là tài sản của quá khứ để lại, lưu giữ dấu ấn thời gian nhưng cũng trở
thành đối tượng bị thời gian tàn phá cho nên chúng ta cần phải có những biện
pháp bảo tồn thích hợp để có thể gìn giữ lâu dài. Đồng thời phải làm cho các
di sản đến từ quá khứ phải trở thành một hợp phần quan trọng của đời sống xã
hội hiện đại. Tất cả những hoạt động đó được coi là những công việc thuộc về


quản lý di sản văn hóa. Tuy nhiên, công tác quản lý di sản văn hóa không chỉ
dừng lại ở việc bảo tồn những giá trị đặc sắc mà còn phải tiến hành những
động thái tích cực, phù hợp để bổ sung, nâng cao những giá trị đó phù hợp với
yêu cầu của xã hội đương đại.
Nội dung quản lý nhà nước về di sản văn hóa được đề cập cụ thể tại
Điều 54, Mục 1, chương 5 điều của Luật di sản văn hóa, gồm: 1/Xây dựng và

chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển sự
nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; 2/Ban hành và tổ chức thực
hiện các văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa; 3/Tổ chức, chỉ đạo
các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá; tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hóa; 4/Tổ chức, quản lý hoạt động
nghiên cứu khoa học; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn về di
sản văn hóa; 5/Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát
huy giá trị di sản văn hóa; 6/Tổ chức, chỉ đạo khen thưởng trong việc bảo vệ
và phát huy giá trị di sản văn hóa; 7/Tổ chức và quản lý hợp tác quốc tế về
bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá; 8/Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành
pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về di sản
văn hóa”[41, tr.65-66].
Quản lý di sản văn hóa về bản chất là sử dụng có hiệu quả các công cụ
quản lý để tác động đến đối tượng bị quản lý để đạt được mục tiêu đặt ra là
bảo vệ lâu dài các yếu tố gốc cấu thành giá trị di sản văn hóa và phát huy giá
trị phục vụ cho sự phát triển kinh tế- xã hội, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn
hóa của các tầng lớp cư dân trong xã hội.
Bàn về quản lý di sản văn hóa nhưng về cơ bản là quản lý các mặt hoạt
động của con người có tác động theo cả hai chiều thuận và nghịch tới di sản
văn hóa; không thể bỏ qua các hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, tu bổ,
tôn tạo, khai thác, sử dụng di sản văn hóa và phát triển kinh tế có liên quan


×