1
Lời mở đầu :
Đối với các nhà kinh tế học, đất nước Hà Lan không chỉ có hoa tulip và đội bóng đá màu
da cam mà còn một thứ rất nổi tiếng nữa đó là căn bệnh Hà Lan (Dutch Disease). Chuyện
kể rằng, trong quá trình thăm dò, các nhà địa chất đã phát hiện dưới những cánh đồng hoa
lulip tuyệt đẹp có một nguồn khí đốt với trữ lượng rất lớn. Chính phủ Hà Lan đã quyết
định khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên này. Nhờ việc khai thác nguồn tài nguyên
thiên nhiên, tự nhiên, Hà Lan có thêm một khoản trời cho (win fall) rất lớn. Chính phủ Hà
Lan đã tăng chi tiêu ngân sách, đầu tư vào nhiều lĩnh vực kém hiệu quả, sản xuất hàng hoá
phi ngoại thương không có sức cạnh tranh thay vì tiếp tục đưa những bông hoa tulip xinh
tươi chu du khắp thế giới. Rắc rối đã xảy ra khi nguồn khí đốt được khai thác hết,nguồn
tiền không còn đủ để đáp ứng cho những nhu cầu chi tiêu của quốc gia, cầu trong nước
giảm, thất nhiệp gia tăng và nhiều vấn đề rắc rối khác đã xảy ra. Chuyện của những năm
1960 thoảng qua như một cơn lốc, nhưng đã để lại những hậu quả nặng nề cho nền kinh tế
Hà Lan. Sau đó, bằng chính sách hợp lý, Hà Lan lại đạt được những thành tựu kinh tế kỳ
diệu, những cánh đồng hoa tulip đã được khôi phục. Nhưng để đánh dấu sựthất bại của
chính sách sử dụng các nguồn tài nguyên không hiệu quả, các nhà kinh tế đã đặt tên cho
hiện tượng nêu trên là căn bệnh Hà Lan (Dutch Disease)
2
Chương I: KHÁI QUÁT VỀ
“CĂN BỆNH HÀ LAN”
1. Định nghĩa
1.1. Lịch sử ra đời thuật ngữ “Căn bệnh Hà Lan”
Vào những năm 1960, sau khi phát hiện một mỏ khí gas lớn ở vùng biển phía bắc,
Hà Lan đã tập trung khai thác và xuất khẩu một lượng khí đốt lớn. Điều này đã mang lại
cho nước này nguồn ngoại tệ khổng lồ và nền kinh tế Hà Lan giàu lên nhanh chóng. Tuy
nhiên cũng chính nguồn ngoại tệ ấy đã đẩy giá đồng nột tệ của Hà Lan lên cao làm giảm
xuất khẩu và sức cạnh tranh của các ngành sản xuất khác trong nước. Để chỉ tình trạng
kinh tế đó ở Hà Lan, năm 1977, tạp chí The Economist lần đầu tiên đưa ra thuật ngữ “căn
bệnh hà Lan” .
1.2. Định nghĩa thuật ngữ “Căn bệnh Hà Lan”
“Căn bệnh Hà lan” chỉ nguy cơ (tình trạng) suy giảm mạnh của khu vực sản xuất
(manufacturing factor) khi một quốc gia tập trung khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên
để xuất khẩu. Mở rộng ra, thuật ngữ này cũng dùng để chỉ tình trạng giảm sút của nền kinh
tế do có sự gia tăng dòng ngoại tệ nói chung như sự tăng nhanh giá tài nguyên thiên nhiên
xuất khẩu hay nguồn viện trợ từ nước ngoài, nguồn vốn FDI
1
2. Mô hình và tác động của Căn bệnh Hà Lan
2.1. Mô hình cổ điển
2.1.1. Nội dung
Mô hình cổ điển của Căn bệnh hà Lan được công bố bởi hai nhà kinh tế học là W.
Max Corden và J. Peter Neary vào năm 1982. Mô hình này dựa trên giả thiết rằng nền kinh
tế quốc dân được chia ra làm 2 khu vực: khu vực xuất khẩu (tradable sector) và khu vực
3
không xuất khẩu (non-tradable). Trong đó, khu vực xuất khẩu được chia làm 2 khu vực
nhỏ.
• Khu vực “bùng nổ” (booming sector) : khu vực khai thác tài nguyên
• Khu vực “trì trệ” (non-booming sector): khu vực chế tạo (manufacturing sector)
Các giả thiết khác là tổng lực lượng lao động không đổi, nền kinh tế trong trạng
thái toàn dụng lao động, và tỷ giá hối đoái danh nghĩa cố định.
Hình 1.1: Mô hình cổ điển của W. Max Corden và J. Peter Neary
2.1.2. Tác động
Hiệu ứng di chuyển nguồn lực (resource movement effect)
Hình 1.2: Hiệu ứng di chuyển nguồn lực
Khi các ngành khai thác tài nguyên bùng nổ, lượng cầu về lao động của khu vực
này tăng lên, lao động từ khu vực sản xuất (manufacturing sector) sẽ chuyển sang khu vực
Booming sector (1
st
tradable sector)
Non-tradable
sector
Non-Booming sector
(2
nd
tradable sector)
Indirect
Deindustrialise
Direct
Deindustrialise
Direct Deindustrialise
Booming sector (1
st
tradable sector)
Non-tradable
sector
Non-Booming sector
(2
nd
tradable sector)
4
khai thác này làm cho khu vực sản xuất bị thiếu cung lao động và trở nên suy thoái. Quá
trình này được gọi là phi công nghiệp hóa trực tiếp (Direct Reindustrialize )
Sự phát triển mạnh mẽ của khu vực khai thác đã làm tăng tăng thu nhập của người
lao động trong lĩnh vự này. Nhu cầu tiêu dùng của họ vì thế cũng tăng lên. Đây là nguyên
nhân dẫn đến sự tăng trưởng mạnh mẽ của khu vực không xuất khẩu (non-tradable sector).
Sự tăng trưởng này lại kéo theo sự di chuyển nguồn lực từ khu vực chế tạo và khiến cho
khu vực này ngày càng trì trệ hơn. Quá trình này được gọi là phi công nghiệp hóa gián tiếp
(Indirect Reindustrialize). W. Max Corden và J. Peter Neary gọi đây là hiệu ứng di
chuyển nguồn lực của căn bệnh Hà Lan (resource movement effect)
Hiệu ứng tiêu dùng
Theo thuyết của Migara, thị trường có hai thành phần tham gia là Nontrable (N) và
Tradable (T). Trong đó, N là những loại hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong nước chỉ phục
vụ nhu cầu trong nước như dịch vụ, xây dựng…và không tham gia xuất khẩu hay nhập
khẩu; T là tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nước để phục vụ hoạt
động xuất và nhập khẩu cũng như là cầu nội địa.
Hiệu ứng tiêu dùng xảy ra khi những người có thu nhập từ yếu tố bùng nổ tăng lên,
và lượng thu nhập này sẽ được chi cho cả hai mặt hàng là N và T. Nếu cầu của N so với
thu nhập là co dãn thì thu nhập tăng sẽ đẩy giá N tăng. Khi giá N tăng nghĩa là đầu vào của
T cũng tăng theo như giá của nguyên, nhiên liệu hay lương nhân công. Tuy nhiên giá của
T lại cố định bởi đó là những mặt hàng được giao dịch quốc tế và bị áp dụng nguyên tắc
một giá. Do vậy, khi chi phí sản xuất tăng, lợi nhuận của các nhà sản xuất T sẽ bị giảm. Do
đó, cầu T tăng sẽ được thay thế bằng các mặt hàng nhập khẩu.
Khi tỉ giá danh nghĩa là cố định, thu nhập tăng nhưng sẽ không kéo theo giá của T tăng
theo. Khi đó, cầu tăng của N sẽ làm giá tăng và do đó mà tỷ giá hối đoái thực tế tăng theo.
Với tỷ giá hối đoái được định nghĩa như sau:
Q = e (Pt/Pn)
Trong đó: Q là tỉ gía hối đoái thực tế
e là tỉ giá hối đoái danh nghĩa giữa nội tệ và ngoại tệ
Pt, Pn là giá của N và T.
5
Pn tăng sẽ làm giá trị Q giảm. Hiện tương này được gọi là sự tăng tỉ giá hối đoái thực tế
bởi giá trị nội tệ tăng so với ngoại tệ.
Khi đồng nội tệ tăng so với ngoại tệ sẽ làm sức cạnh tranh của các mặt hàng xuất
khẩu giảm, cùng với đó lại làm nhập khẩu tăng. Tức là hiệu ứng tiêu dùng trên không
những sẽ làm tăng giá các mặt hàng N trong nước, gây áp lực lạm phát; đồng thời nó còn
làm các ngành sản xuất các mặt hàng T xuất khẩu khác bị suy yếu và lượng nhập khẩu lại
gia tăng.
2.2. Mô hình 4 khu vực
2.1.1 Nội dung
Mô hình 4 khu vực được nghiên cứu và bổ sung nhiều lần bởi nhiều kinh tế gia như
Krugman, Ohyama, Helpman… và cả World Bank, IMF. Chúng ta có thể tham khao bài
nghiên cứu và tổng hợp khá đầy đủ của O De Silva năm 1994.
Về cách phân chia nền kinh tế, mô hình 4 khu vực cũng chia tradable sector thành
khu vực có sự bùng nổ và khu vực không có sự bùng nổ. Điểm khác biệt là khu vực
nontradable cũng được chia thành khu vực sản xuất hàng tư bản và khu vực sản xuất hàng
tiêu dùng. Bên cạnh đó, thay vì nghiên cứu nông nghiệp như một khu vực đơn nhất giống
mô hình 2 khu vực, mô hình 4 khu vực xem khu vực nông nghiệp gồm khu vực sản xuất
nhằm xuất khẩu thu lợi nhuận (cash crops) và khu vực sản xuất lương thực tiêu dùng trong
nước (food crops) thay vì một khu vực đơn nhất.
6
HÌnh 1.3 Mô hình 4 khu vực
2.1.2 Tác động
Hiệu ứng di chuyển nguồn lực
Về cơ bản, mô hình 4 khu vực cũng thừa nhận tác động duy chuyển nguồn lực như
mô hình 2 khu vực. Tuy nhiên, do có sự phân chia khu vực chi tiết hơn, mô hình này phân
tích các tác động chi tiết hơn.
Cụ thể, đối với khu vực nông nghiệp, hiệu ứng duy chuyển nguồn lực chỉ ra rằng,
do đồng nội tệ tăng giá làm giảm sức cạnh tranh mà khu vực sản xuất xuất khẩu cash crops
sẽ bị thu hẹp lại trong lúc khu vực food crops lại có xu hướng được mở rộng hơn. Nghiên
cứu cụ thể của Benjamin, Devarajan và Weiner năm 1989 đã cho thấy rõ tác động này. Đó
là sự sụt giảm mạnh mẽ của cash crops trong khi food crops lại phản ứng tích cực với sự
bùng nổ của khai thác dầu ở Camoroon những năm 1979-1985.
THE
ECONOMY
TRADABLE
SECTOR
NON-
TRADABLE
SECTOR
BOOMING
SECTOR
Ex: Petroleum
sector
NON-
BOOMING
SECTOR
Agricultural
export
Manufacturing
Public Utility
CONSUMER
GOODS
Ex: Food sector
CAPITAL
GOODS
Ex: Building &
construction
Services
Import-competing industries
7
Hiệu ứng di chuyển nguồn lực cũng diễn ra tương tự như vậy trong khu vực công
nghiệp. Một số ngành sản xuất như sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất hàng tư bản…phục
vụ cho nhu cầu trong nước có xu hướng phát đạt hơn do dòng ngoại tệ làm cầu tăng.
Trong lúc các ngành công nghiệp sản xuất xuất khẩu có dấu hiệu suy thoái do mức độ
cạnh tranh giảm. Ngoài ra, mô hình 4 nhân tố cũng chỉ ra rằng, các ngành sản xuất hàng tư
bản thường có mức tăng trưởng cao hơn các ngành hàng tiêu dùng do dòng ngoài tệ
thường được ưu tiên cho việc đầu tư như phát triển cơ sở hạ tầng…
Hiệu ứng tiêu dùng
Về hiệu ứng tiêu dùng, mô hình 4 khu vực không có nhiều khác biệt với mô hình 2
khu vực. Thu nhập cao hơn tạo xu hướng tiêu dùng cao hơn trong nước và do đó thúc đẩy
các ngành sản xuất cho tiêu dùng trong nước phát đạt hơn trong lúc nền kinh tế có nguy cơ
lạm phát.
3. Giải pháp khắc phục Căn bệnh hà Lan
Đối với những quốc gia mà nguồn thu từ tài nguyên chỉ là tạm thời, dòng tiền trợ
cấp chỉ có trong thời gian ngắn…, các nhà hoạch định phải bảo vệ những thành phần kinh
tế dễ bị tổn thương bằng cách can thiệp vào tỷ giá hối đoái. Việc bán nội tệ đổi lấy ngoại
tệ nhằm tăng dự trữ ngoại tệ và giữ đúng giá của nội tệ giúp bảo vệ nền kinh tế khỏi sự
nhiễu loạn trong ngắn hạn do tác động của ‘căn bệnh Hà Lan”. Tuy nhiên, việc dự trữ
ngoại có thể dẫn đến nguy cơ lạm phát và cũng chưa chắn rằng lượng dự trữ sẽ được sử
dụng một cách có hiệu quả do đó mà việc điều hành khôn khéo tỷ giá hối đoán là một
nhiệm vụ quan trọng của các nhà thực hiện chính sách.
Ở những quốc gia mà nguồn thu từ tài nguyên có thể tồn tại lâu dài, nhà hoạch định
chính sách cần thay đổi cấu trúc nền kinh tế để tạo nên sự ổn định. Họ có thể gia tăng năng
suất trong việc sản xuất các mặt hàng phi mậu dịch (bằng cách tư nhân hóa hay cơ cấu lại)
và đầu tư vào đào tạo nguồn nhân lực. Họ cũng có thể đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu
để giảm sự phụ thuộc vào các mặt hàng thuộc nhân tố “bùng nổ”(tài nguyên), đồng thời
giúp khu vực này có khả năng chống chọi những “cú sốc” từ bên ngoài chẳng hạn như khi
giá các mặt hàng xuất khẩu chiến lược bất ngờ sụt giảm mạnh.
CHƯƠNG 2:
CĂN BỆNH HÀ LAN – BÀI HỌC TỪ CÁC NƯỚC
8
1. Columbia và Căn bệnh Hà Lan
Cộng hoà Colombia (República de Colombia) là một
quốc gia tại Nam Mỹ. Colombia giáp Venezuela và Brazil
về phía đông; giáp Ecuador và Peru về phía nam; giáp Đại
Tây Dương phía bắc, qua Biển Caribbea; và phía tây giáp
Panama và Thái Bình Dương. Năm 2007, GDP Colombia đạt 149.869 tỷ dollar với các
mặt hàng xuất khẩu chính gồm hàng chế tạo (41.32% xuất khẩu), dầu mỏ (28.28%), than
(13.17%), và cà phê (6.25%)
Những năm 1970, sự mất màu cà phê ở Braxin vào đã châm ngòi cho sự tăng lên mạnh mẽ
của giá cà phê ở Columbia vào đầu những năm này, đồng thời làm cho lượng cà phê xuất
khẩu của quốc gia này tăng vọt.
Hình 2.1 Giá cà phêtại Colombia giai đoạn 1975-77 Nguồn : IMF
Qua biểu đồ chúng ta thấy rằng từ năm 1967-1975 giá cà phê là đã tăng vọt từ 80$ lên gần
250$, đỉnh điểm là vào năm 1977, mức tăng hơn 300%, trung bình mỗi năm giá cà phê
tăng trên 40%.
Giá cao đã làm giá trị lượng cà phê xuất khẩu của Columbia đáng giá hơn trước rất nhiều.
Một dòng ngoại tệ mạnh ồ ạt đổ vào trong nước. Kết quả tỷ giá hối đoái (USD/peso) đã
tăng rất mạnh trong giai đoạn này. Nếu lấy năm 1970 làm mốc thì trong suốt giai đoạn từ
1971 đến 1983, tỷ giá hối đoái đã tăng gần 40%.
9
Hình 2.2 Đồ thị tỷ giá hối đoái dollar/ peso giai đoạn 1967-1983 Nguồn: IMF
Sự gia tăng đột biến giá trị cafe đã làm ngành nông nghiệp nhiệt đới này phát triển mạnh
mẽ. Nếu như trong giai đoạn 1970-1975 tốc độ tăng trưởng của khu vực này chỉ khoảng
4%/năm thì trong giai đoạn 1976-1981 tốc độ này đã được nhân lên gấp 3 lần- khoảng
12%/năm.
Hình 2.3 Tình trạng “bùng nổ” ở khu vực sản xuất cà phê 1967-1983 Nguồn: IMF
Sự tăng trưởng vượt bậc trong xuất khẩu cafê nhanh chóng kéo theo sự tăng trưởng của
các khu vực hỗ trợ nó hay khu vực tiêu dùng thu nhập phát sinh từ nó bao gồm khu vực
xây dựng, khu vực cho thuê nhà và khu vực tiêu dùng của chính phủ
10
Hình 2.3 Sự tăng trưởng ở các ngành không xuất khẩu (non-tradable sector) giai đoạn
1967-1983 Nguồn: IM
Và đây cũng là lúc căn bệnh Hà Lan lộ diện rõ ở nước này. Trong lúc các ngành
nontrable nở rộng hơn thì các ngành xuất khẩu truyền thống: như dệt may, luyện
kim,chế tạo máy khác bắt đầu thể hiện mức sụt giảm mạnh mẽ. Cụ thể,
• Dệt may: giảm mạnh từ 5%/năm xuống -1%/năm, “khai tử” ngành dệt may
trong nước.
• Làm giấy và in ấn: giảm từ 10% xuống còn 5%/năm
• Sản phẩm từ dầu: giảm từ 8 xuốngcòn 1
• Hoá chất và cao su: từ 10 xuống thấp hơn 4
• Vận tải: giảm hơn 8 từ 13 xuống còn 5
• Máy móc và công cụ: giảm gần 5
Như vậy hầu hết các ngành đều giảm gần 50% tốc độ tăng trưởng so với giai đoạn ban
đầu.
Hình 2.4 Các ngành xuất khẩu truyền thống giai đoạn 1967-1983 Nguồn: IMF