Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Phát triển hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán Quốc tế Hoàng Gia.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.87 KB, 101 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán là một kênh thu hút vốn đầu tư lớn trong nền
kinh tế. Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức ra đời và đi vào hoạt
động từ ngày 28/7/2000, đến ngày 8/3/2005 khai trương TTGDCK Hà Nội,
đến nay đã có 151 mã cổ phiếu trên sàn HOSE và 129 mã trên sàn HASTC,
cùng với hàng chục công ty chứng khoán mới ra đời. Vài năm trở lại đây là
thời kỳ rực rỡ nhất của thị trường chứng khoán Việt Nam, cùng với hàng
loạt chỉ thị, chính sách của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước ra đời nhằm tạo
điều kiện cho sự phát triển của thị trường. Lượng tiền nhàn rỗi trong dân
chúng đổ vào thị trường chứng khoán rất lớn.
Tuy nhiên, từ vài tháng cuối năm 2007 đến nay, thị trường chứng
khoán Việt Nam bước sang năm 2008 đang đứng trước những biến động lớn
với nguy cơ sụt giảm mạnh. Hàng chục công ty chứng khoán mới thành lập
từ nửa cuối năm 2007 hiện đang phải đối phó với những khó khăn trong tình
hình hiện nay. Những công ty chứng khoán đã hoạt động lâu năm cũng
không tránh khỏi thua lỗ. Trước thực trạng đó, công ty chứng khoán Quốc tế
Hoàng gia, mới thành lập và đi vào hoạt động chưa đầy nửa năm, đang đối
mặt với những thử thách lớn, cần vượt qua quãng thời gian khó khăn hiện tại
để xây dựng cho mình một chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
Một thực tế là khi thị trường chứng khoán ảm đạm như hiện nay, các
nhà đầu tư lũ lượt rút ra khỏi thị trường để đầu tư vào những hoạt động khác,
một trong những nguyên nhân của việc giá vàng và bất động sản tăng vọt
thời gian qua. Việc thu hút nhà đầu tư quay trở lại thị trường chứng khoán,
một phần giúp cho lợi nhuận của công ty, một phần giúp phục hồi thị trường,
đó là công việc của nhà môi giới.
1
Môi giới chứng khoán là một nghề mới trên thị trường Việt Nam, đến
nay vẫn còn nhiều nhà đầu tư chưa thực sự hiểu rõ khái niệm về môi giới,
thậm chí có thành kiến như một thứ "cò chứng khoán", điều này gây không
ít khó khăn cho hoạt động môi giới nói riêng và các hoạt động của công ty
chứng khoán nói chung. Trong khi đó, việc thu hút nhà đầu tư mở tài khoản


và thực hiện giao dịch tại công ty là một hoạt động chiếm tỷ lệ không nhỏ
trong doanh thu của công ty.
Do mới đi vào hoạt động, công ty chứng khoán Quốc tế Hoàng gia
chưa có được danh tiếng trên thị trường để được nhiều nhà đầu tư biết đến,
số lượng tài khoản giao dịch tại công ty cũng chưa nhiều, thì công việc của
phòng môi giới lại càng cần thiết, trong điều kiện các công ty trên thị trường
cạnh tranh gay gắt để thu hút khách hàng.
Nhận thức vấn đề trên, tôi muốn nghiên cứu về nghề môi giới nói
chung, và hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán Quốc tế Hoàng gia
nói riêng; để tìm hiểu những thành tựu và khó khăn của công ty trong lĩnh
vực này, từ đó có thể đề ra một số giải pháp nâng cao phát triển hoạt động
môi giới trong ngắn hạn và dài hạn.
Để hoàn thành đề tài chuyên đề thực tập này, tôi sử dụng những tài
liệu về thị trường chứng khoán và nghề môi giới chứng khoán, một số báo
cáo tài chính của công ty chứng khoán Quốc tế Hoàng gia và các công ty
chứng khoán khác. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới ông Bùi Ngọc Long, giám đốc
Môi giới công ty chứng khoán Quốc tế Hoàng gia, đã cung cấp thông tin và
số liệu cần thiết cho việc phân tích công ty, xin gửi lời cảm ơn tới Th.S Lê
Trung Thành đã hướng dẫn tôi trong phương pháp nghiên cứu và triển khai
đề tài. Để đề tài hoàn thiện hơn, tôi mong người đọc chỉ ra những thiếu sót,
hạn chế còn tồn tại trong chuyên đề này.
Xin chân thành cảm ơn.
2
CHƯƠNG I
NHỮNG KHÁI NIỆM CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG
MÔI GIỚI TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1 Những khái niệm chung về công ty chứng khoán
1.1.1 Khái niệm công ty chứng khoán
1.1.1.1 Khái niệm
Trong nền kinh tế hiện đại, thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các

hoạt động giao dịch mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn, diễn ra
trên thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường chứng khoán là nơi
tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm; và là định chế tài chính trực
tiếp, cả chủ thể cung và cầu vốn đều tham gia trực tiếp vào thị trường.
Về bản chất, thị trường chứng khoán là quá trình vận động của tư bản
tiền tệ, có thể nói thị trường chứng khoán là nơi mua bán các quyền sở hữu
về tư bản, là hình thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá. Thị trường
chứng khoán là một bộ phận chủ yếu của thị trường tài chính, có vai trò quan
trọng đối với quá trình huy động vốn và sử dụng vốn của nền kinh tế thị
trường.
Tham gia thị trường chứng khoán có các chủ thể:
• Nhà phát hành, bao gồm chính phủ và chính quyền địa phương,
công ty, và các tổ chức tài chính.
• Nhà đầu tư, bao gồm nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ
chức
• Các tổ chức kinh doanh, bao gồm công ty chứng khoán và các
ngân hàng thương mại
3
• Các tổ chức có liên quan, bao gồm cơ quan quản lý Nhà nước,
Sở giao dịch chứng khoán, các tổ chức tài trợ chứng khoán,
v.v...
Sự tham gia của các chủ thể trên vào thị trường chứng khoán như thế
nào là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình hình thành và phát triển thị
trường. Mục tiêu của việc hình thành thị trường chứng khoán là thu hút vốn
đầu tư dài hạn cho việc phát triển kinh tế và tạo ra tính thanh khoản cho các
loại chứng khoán. Do vậy, để thúc đẩy thị trường chứng khoán hoạt động
một cách có trật tự, công bằng và hiệu quả cần phải có sự ra dời và hoạt
động của các công ty chứng khoán.
Công ty chứng khoán là một tổ chức tài chính trung gian thực hiện các
nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán.

Ở Việt Nam, theo Luật chứng khoán 2006, công ty chứng khoán là
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn được Uỷ ban Chứng khoán
Nhà nước cấp Giấy phép thành lập và hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực
chứng khoán, có tư cách pháp nhân, có vốn riêng và thực hiện chế độ hạch
toán kinh tế độc lập. Như vậy công ty chứng khoán thực chất là một doanh
nghiệp kinh doanh chứng khoán với các nghiệp vụ chính: môi giới, tự
doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn và quản lý danh mục đầu tư.
Các công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế nói chung và của thị trường chứng khoán nói riêng. Nhiều
nền kinh tế coi công ty chứng khoán là hạt nhân của ngành công nghiệp
chứng khoán, thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tài chính quốc gia.
1.1.1.2 Phân loại công ty chứng khoán
4
Có nhiều tiêu thức để phân loại công ty chứng khoán, một tiêu thức
chủ yếu được sử dụng là phân loại theo loại hình kinh doanh. Theo đó, công
ty chứng khoán được chia thành 5 loại:
• Công ty môi giới: là công ty chứng khoán chỉ thực hiện việc
trung gian, mua bán chứng khoán cho khách hàng của họ trên
Sở giao dịch chứng khoán để hưởng hoa hồng.
• Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán: là công ty chứng
khoán hoạt động chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh để
hưởng phí hoặc chênh lệch giá.
• Công ty kinh doanh chứng khoán: là công ty chứng khoán chủ
yếu thực hiện nghiệp vụ tự doanh, tự bỏ vốn kinh doanh và tự
chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
• Công ty trái phiếu: là công ty chứng khoán chuyên mua bán các
loại trái phiếu.
• Công ty chứng khoán phi tập trung: là công ty chứng khoán chủ
yếu mua bán chứng khoán trên thị trường OTC, đóng vai trò là
các nhà tạo lập thị trường.

Mỗi loại hình công ty chứng khoán có những đặc điểm, cơ cấu,
nghiệp vụ... khác nhau, nhưng đều chung vai trò quan trọng là duy trì và
thúc đẩy hoạt động của thị trường chứng khoán.
1.1.2 Vai trò của công ty chứng khoán
Trên thị trường chứng khoán, công ty chứng khoán có vai trò đặc biệt,
vừa là nhà đầu tư tham gia trực tiếp vào thị trường, vừa là cầu nối giữa nhà
phát hành và những nhà đầu tư khác, cung cấp những dịch vụ cần thiết phục
vụ hoạt động của thị trường. Sự có mặt của công ty chứng khoán là không
thể thiếu trên cả thị trường tập trung hay phi tập trung.
5
Dựa trên các hoạt động của mình, công ty chứng khoán có những vai
trò chính như sau:
1.1.2.1 Vai trò huy động vốn
Mục tiêu khi tham gia thị trường chứng khoán của các tổ chức phát
hành là huy động vốn thông qua việc phát hành chứng khoán. Đó là vai trò
của công ty chứng khoán, với tư cách là trung gian tài chính, thông qua hoạt
động bảo lãnh phát hành và môi giới chứng khoán.
Vai trò huy động vốn, nói một cách đơn giản, là vai trò làm cầu nối,
đồng thời là kênh dẫn vốn chảy từ một hay một vài bộ phận của nền kinh tế
có dư thừa vốn (vốn nhàn rỗi) đến các bộ phận khác của nền kinh tế đang
thiếu cần huy động vốn.
Một trong những nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán là
nguyên tắc trung gian, yêu cầu các nhà đầu tư và nhà phát hành phải giao
dịch chứng khoán thông qua các trung gian mua bán, là công ty chứng
khoán. Công ty chứng khoán đã tạo ra cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế
thông qua thị trường chứng khoán.
1.1.2.2 Vai trò cung cấp một cơ chế giá cả
Vai trò này của công ty chứng khoán thể hiện đối với cả nhà đầu tư và
thị trường chứng khoán.
Đối với nhà đầu tư, công ty chứng khoán cung cấp cơ chế giá cả nhằm

giúp nhà đầu tư có được sự đánh giá đúng thực tế và chính xác giá trị khoản
đầu tư của mình. Giá cổ phiếu và thông tin tài chính của các công ty được
niêm yết hàng ngày trên các báo tài chính, điều này giúp nhà đầu tư tiết kiệm
phần nào chi phí, thời gian và công sức tìm hiểu thông tin.
Đối với thị trường, công ty chứng khoán có sự can thiệp nhất định,
góp phần tạo lập giá cả, thông qua hình thức đấu giá. Trên thị trường sơ cấp,
6
công ty chứng khoán cùng với các nhà phát hành đưa ra mức giá đầu tiên; vì
vậy giá cả của mỗi loại chứng khoán giao dịch đều có sự tham gia định giá
của các công ty chứng khoán. Ngoài ra, công ty chứng khoán còn thể hiện
vai trò lớn hơn khi tham gia điều tiết thị trường. Theo quy định của các
nước, công ty chứng khoán bắt buộc phải dành ra một tỷ lệ nhất định giao
dịch của mình để thực hiện vai trò bình ổn thị trường, mua vào khi thị
trường sụt giảm và bán ra khi thị trường phát triển nóng.
1.1.2.3 Vai trò cung cấp một cơ chế chuyển ra tiền mặt
Công ty chứng khoán đảm nhận chức năng chuyển đổi tiền mặt thành
chứng khoán có giá và ngược lại, giúp cho nhà đầu tư phải chịu ít thiệt hại
nhất khi tiến hành đầu tư. Điều này hạn chế rủi ro của việc giá trị khoản đầu
tư có thể bị giảm đi do các nhân tố tác động.
Ngoài ra, công ty chứng khoán còn góp phần làm tăng tính thanh
khoản của tài sản tài chính. Đây là một vai trò quan trọng của thị trường
chứng khoán mà công ty chứng khoán là người thực hiện, vì nó tạo ra cơ chế
giao dịch trên thị trường. Cả trên thị trường sơ cấp thông qua việc bảo lãnh
phát hành, lẫn trên thị trường thứ cấp thông qua cơ chế chuyển đổi tiền mặt,
những hoạt động của công ty chứng khoán đều làm tăng tính thanh khoản
cho các tài sản tài chính, làm giảm rủi ro, tạo tâm lý yên tâm cho nhà đầu tư.
1.1.2.4 Thực hiện tư vấn đầu tư
Do công ty chứng khoán có sự chuyên sâu về trình độ, nghiệp vụ
chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp, bộ máy tổ chức... nên ngoài việc
thực hiện yêu cầu khách hàng, công ty còn tham gia vào các dịch vụ tư vấn

khác nhau, thông qua việc nghiên cứu thị trường, phân tích thông tin và cung
cấp những phân tích đó cho các nhà đầu tư, giúp họ có những quyết định
7
giao dịch chính xác hơn, đồng thời tiết kiệm thời gian, công sức cho nhà đầu
tư nếu họ phải tự phân tích thị trường.
1.1.2.5 Tạo ra các sản phẩm mới
Khi thực hiện các chức năng của mình, các công ty chứng khoán cũng
tạo ra sản phẩm. Trong mấy năm gần đây, chủng loại chứng khoán đã phát
triển với tốc độ rất nhanh do nhiều nguyên nhân, trong đó có sự đóng góp
không nhỏ của các công ty chứng khoán.
Ngoài cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu, các công ty
chứng khoán hiện nay còn bán trái phiếu chính phủ trung ương và địa
phương, chứng quyền, trái quyền, các hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền
chọn (điều này ở Việt Nam chưa có) và các sản phẩm lai tạo đa dạng khác
phù hợp với thay đổi trên thị trường và môi trường kinh tế.
Tóm lại, công ty chứng khoán là một tổ chức chuyên nghiệp trên thị
trường chứng khoán, có vai trò cần thiết và quan trọng đối với các nhà đầu
tư, các nhà phát hành, đối với cơ quan quản lý thị trường và đối với thị
trường chứng khoán nói chung. Để đảm bảo vai trò này, cần có sự xác định
mô hình, tổ chức công ty để từ đó xác định các hình thức kinh doanh cũng
như biện pháp quản lý công ty chứng khoán phù hợp.
1.1.3 Mô hình, tổ chức của công ty chứng khoán
1.1.3.1 Mô hình công ty chứng khoán
Hoạt động của công ty chứng khoán rất đa dạng và phức tạp so với
các doanh nghiệp sản xuất và thương mại thông thường, vì vậy việc xác định
mô hình tổ chức kinh doanh của công ty chứng khoán cũng có nhiều điểm
khác nhau. Tuy nhiên có thể khái quát mô hình tổ chức kinh doanh của công
8
ty chứng khoán theo hai nhóm: mô hình công ty chứng khoán đa năng, và
mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh.

a) Mô hình công ty chứng khoán đa năng
Theo mô hình này, công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức
một tổ hợp dịch vụ tài chính tổng hợp bao gồm kinh doanh chứng khoán,
kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài chính. Theo đó, các ngân hàng thương
mại hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và
kinh doanh tiền tệ. Mô hình này được biểu hiện dưới hai hình thức:
• Mô hình đa năng một phần: còn được gọi là mô hình ngân hàng
kiểu Anh, theo đó các ngân hàng muốn kinh doanh chứng
khoán, kinh doanh bảo hiểm phải thành lập công ty con, hạch
toán độc lập và hoạt động tách rời với hoạt động kinh doanh
tiền tệ.
• Mô hình đa năng hoàn toàn: còn được gọi là mô hình ngân hàng
kiểu Đức, theo đó các ngân hàng được phép trực tiếp kinh
doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tiền tệ và
các dịch vụ tài chính khác.
Ưu điểm của mô hình đa năng là ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh
vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro cho hoạt động kinh doanh chung và
có khả năng chịu đựng những biến động của thị trường chứng khoán. Mặt
khác, ngân hàng sẽ tận dụng được thế mạnh chuyên môn và vốn để kinh
doanh chứng khoán.
Tuy nhiên, mô hình cũng có những hạn chế không giải quyết được.
Khi kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, sự chuyên môn hoá sẽ không sâu.
Thị trường cổ phiếu khó phát triển vì các ngân hàng thường cho vay hơn là
bảo lãnh phát hành. Ngoài ra, hoạt động ngân hàng và hoạt động chứng
9
khoán khó tách bạch rõ ràng, trong điều kiện môi trường pháp luật chưa thoả
đáng dễ gây nên tình trạng lũng đoạn thị trường. Các nguồn vốn cũng không
có sự tách biệt cần thiết giữa tiền tiết kiệm dân cư và vốn đầu tư chứng
khoán, khiến cho các biến động trên thị trường chứng khoán sẽ tác động
mạnh tới tình hình kinh doanh của ngân hàng.

Do có những hạn chế trên, hiện nay phần lớn các công ty chứng khoán
trên thế giới đều áp dụng mô hình chuyên doanh, chỉ có Đức vẫn duy trì mô
hình đa năng cho tới nay.
b) Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh
Mô hình chuyên doanh chứng khoán được áp dụng phổ biến từ sau
khủng hoảng thị trường tài chính 1929-1933. Theo mô hình này, hoạt động
kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập và chuyên môn hoá trong
lĩnh vực chứng khoán thực hiện, các ngân hàng không được tham gia kinh
doanh chứng khoán.
Mô hình này khắc phục được những hạn chế của mô hình đa năng,
giảm rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho các công ty chứng
khoán đi vào chuyên môn hoá sâu trong lĩnh vực chứng khoán để thúc đẩy
thị trường phát triển.
Tuy nhiên, do xu thế thành lập các tập đoàn tài chính khổng lồ, một số
thị trường vẫn cho phép các công ty kinh doanh trên nhiều lĩnh vực tiền tệ,
bảo hiểm, chứng khoán, nhưng được tổ chức thành công ty mẹ, công ty con,
hoạt động tương đối độc lập với nhau.
1.1.3.2 Tổ chức của công ty chứng khoán
Hiện nay, có ba loại hình tổ chức cơ bản của công ty chứng
khoán: công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
10
a) Công ty hợp danh
Công ty hợp danh là loại hình kinh doanh có từ hai chủ sở hữu trở lên.
Có hai loại thành viên tham gia công ty hợp danh: thành viên hợp
danh và thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh tham gia vào quá trình ra
quyết định quản lý, chịu trách nhiệm vô hạn về những nghĩa vụ tài chính của
công ty bằng toàn bộ tài sản của mình. Thành viên góp vốn không tham gia
điều hành công ty và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về những khoản nợ của
công ty trong giới hạn vốn góp của mình vào công ty.
Thông thường khả năng huy động vốn của công ty hợp danh bị giới

hạn trong số vốn mà các thành viên có thể đóng góp.
Công ty hợp danh không được phép phát hành bất cứ một loại chứng
khoán nào.
b) Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH)
Thành viên của công ty TNHH chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
các nghĩa vụ khác của doanh nghiệp chỉ trong phạm vi số vốn đã cam kết
góp vào doanh nghiệp. Điều này có thể gây tâm lý nhẹ nhàng hơn đối với
người đầu tư.
Công ty TNHH có phương thức huy động vốn đơn giản và linh hoạt
hơn so với công ty hợp danh; đồng thời vấn đề tuyển đội ngũ quản lý cũng
năng động hơn.
Công ty TNHH không được phép phát hành cổ phiếu.
c) Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập, với chủ sở hữu là các cổ
đông. Những cổ đông này chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản
11
khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Giấy chứng nhận
cổ phiếu thể hiện quyền lợi của người sở hữu nó đối với tài sản của công ty.
Công ty vẫn tồn tại khi quyền sở hữu của công ty thay đổi.
Đại hội cổ đông có quyền bầu Hội đồng quản trị công ty. Hội đồng
này sẽ định ra các chính sách của công ty và chỉ định giám đốc cùng các
chức vị quản lý khác để điều hành công ty theo các sách lược kinh doanh đã
đề ra.
Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán (cổ phiếu và trái
phiếu) ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán hiện hành.
Những ưu điểm của công ty cổ phần:
• Công ty tồn tại liên tục không phụ thuộc vào việc thay đổi cổ
đông hoặc cổ đông nghỉ hưu hay qua đời.
• Rủi ro mà chủ sở hữu công ty phải chịu được hạn chế trong
phần vốn góp đã đầu tư vào công ty.

• Quyền sở hữu được chuyển đổi dễ dàng thông qua việc mua
bán cổ phiếu.
• Đối với công ty chứng khoán, nếu tổ chức theo hình thức công
ty cổ phần và niêm yết tại Sở giao dịch thì coi như được quảng
cáo miễn phí.
• Hình thức tổ chức quản lý, chế độ báo cáo và công bố thông tin
của công ty cổ phần tốt hơn hai hình thức trên.
Do những ưu điểm của loại hình công ty TNHH và công ty cổ phần so
với công ty hợp danh, hiện nay các công ty chứng khoán được tổ chức chủ
yếu dưới hình thức công ty TNHH và công ty cổ phần. Tuy nhiên, dù tổ
chức dưới hình thức nào thì các công ty cũng có những hoạt động tiêu biểu
của một công ty chứng khoán.
12
1.1.4 Hoạt động của công ty chứng khoán
Hoạt động của công ty chứng khoán có thể phân ra hoạt động nghiệp
vụ và hoạt động tài chính.
1.1.4.1 Hoạt động nghiệp vụ
a) Nghiệp vụ môi giới chứng khoán
* Khái niệm:
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán
chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó, công ty chứng
khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao
dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC mà chính khách
hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình.
Thông qua hoạt động môi giới, công ty chứng khoán sẽ chuyển đến
khách hàng các sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư
bán chứng khoán và nhà đầu tư mua chứng khoán.
* Chức năng:
Hoạt động môi giới chứng khoán có các chức năng:
• Cung cấp dịch vụ với hai tư cách:

- Nối liền khách hàng với bộ phận nghiên cứu đầu tư, cung cấp cho
khách hàng các báo cáo nghiên cứu và các khuyến nghị đầu tư.
- Nối liền người bán và người mua, đem đến cho khách hàng tất cả
các loại sản phẩm và dịch vụ tài chính.
• Đáp ứng những nhu cầu tâm lý của khách hàng khi cần thiết,
khắc phục trạng thái xúc cảm quá mức, giúp khách hàng có
những quyết định tỉnh táo.
• Đề xuất thời điểm mua bán chứng khoán như một sự tham khảo
hợp lý cho khách hàng.
13
Có thể nói môi giới chứng khoán là một hoạt động quan trọng không
thể thiếu trong một công ty chứng khoán, mà bản chất, vai trò, nghiệp vụ...
của môi giới chứng khoán sẽ được đề cập chi tiết hơn trong phần sau.
b) Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán
Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua
bán chứng khoán cho chính mình, bằng chính nguồn vốn kinh doanh của
công ty nhằm phục vụ mục đích đầu tư kinh doanh thu lợi cho công ty và
gánh chịu mọi rủi ro từ việc đầu tư của mình.
Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán có thể được thực hiện
trên các thị trường giao dịch tập trung hay phi tập trung. Trên thị trường giao
dịch tập trung, lệnh giao dịch của công ty chứng khoán được đưa vào hệ
thống và thực hiện tương tự như lệnh giao dịch của các khách hàng. Trên thị
trường OTC, các hoạt động này có thể được thực hiện trực tiếp giữa công ty
với đối tác hoặc thông qua một hệ thống mạng thông tin.
Tại một số thị trường vận hành theo cơ chế khớp giá, hoạt động tự
doanh của công ty chứng khoán được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập
thị trường (ví dụ như ở Mỹ). Lúc này, công ty chứng khoán đóng vai trò là
nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng chứng khoán nhất định của một
loại chứng khoán và thực hiện mua bán chứng khoán với các khách hàng để
hưởng chênh lệch giá.

Mục đích của hoạt động tự doanh là thu lợi nhuận cho chính công ty
thông qua giao dịch mua bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ này
hoạt động song hành với nghiệp vụ môi giới, vì vậy trong quá trình hoạt
động có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa khách hàng và bản thân công ty.
Vì vậy, để đảm bảo sự ổn định và tính minh bạch của thị trường, luật pháp
các nước đều yêu cầu sự tách bạch rõ ràng hai nghiệp vụ, và yêu cầu công ty
14
chứng khoán phải ưu tiên thực hiện lệnh cho khách hàng trước khi thực hiện
lệnh của công ty.
Khác với nghiệp vụ môi giới, công ty chứng khoán chỉ làm trung gian
thực hiện lệnh cho khách hàng để hưởng hoa hồng; trong hoạt động tự doanh
công ty chứng khoán kinh doanh bằng chính nguồn vốn của công ty. Vì vậy,
công ty chứng khoán đòi hỏi phải đáp ứng những yêu cầu nhất định về
nguồn vốn và nhân viên, đảm bảo một nguồn vốn lớn và đội ngũ nhân viên
có trình độ chuyên môn cao, có khả năng tự quyết, khả năng phân tích và
đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý, đặc biệt trong trường hợp đóng vai trò
là nhà tạo lập thị trường.
c) Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán
Để thực hiện thành công các đợt chào bán chứng khoán ra công
chúng, tổ chức phát hành cần đến công ty chứng khoán tư vấn cho đợt phát
hành và thực hiện bảo lãnh, phân phối chứng khoán ra công chúng. Đây là
một nghiệp vụ chiếm tỷ lệ doanh thu khá cao trong tổng doanh thu của công
ty chứng khoán.
Như vậy, bảo lãnh phát hành chứng khoán là một hoạt động của công
ty chứng khoán nhằm giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi
chào bán chứng khoán, nhận mua chứng khoán của các tổ chức phát hành để
bán lại, hoặc mua các chứng khoán chưa được phân phối trong đợt phát
hành, giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành.
Bảo lãnh phát hành của công ty chứng khoán sẽ giúp tổ chức phát hành nắm
chắc khả năng huy động vốn và có kế hoạch sử dụng vốn huy động.

Trên thị trường chứng khoán, tổ chức bảo lãnh phát hành không chỉ có
công ty chứng khoán mà còn bao gồm các định chế tài chính khác như ngân
hàng đầu tư, nhưng ngân hàng đầu tư thường chỉ đứng ra nhận bảo lãnh phát
15
hành hoặc thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành, sau đó chuyển phân phối
chứng khoán cho các công ty chứng khoán tự doanh hoặc các thành viên
khác.
Qua hoạt động bảo lãnh phát hành, các công ty chứng khoán thu được
hoa hồng bảo lãnh, bao gồm phí quản lý trả cho tổ chức bảo lãnh chính, phí
nhượng bán trả cho các tổ chức bảo lãnh thực sự bán chứng khoán, và phí
bảo lãnh trả cho các tổ chức bảo lãnh. Phí bảo lãnh bao gồm phí tư vấn, chi
phí lưu động, lãi tiền vay của tổ hợp, chi phí ổn định thị trường và các chi
phí khác.
Đại lý phát hành chứng khoán là hoạt động trong đó công ty chứng
khoán nhận bán chứng khoán cho tổ chức phát hành trên cơ sở thoả thuận.
So với bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành có nội dung công việc hẹp hơn,
chỉ bao gồm việc phân phối chứng khoán đến các nhà đầu tư.
d) Nghiệp vụ tư vấn đầu tư
Tư vấn đầu tư chứng khoán là hoạt động phân tích, đưa ra các lời
khuyên liên quan đến chứng khoán, phân tích các tình huống và có thể thực
hiện một số dịch vụ liên quan.
Trong hoạt động tư vấn, công ty chứng khoán cung cấp thông tin,
cách thức đầu tư và loại chứng khoán nên đầu tư đối với khách hàng của
mình. Hoạt động này đòi hỏi nhiều kiến thức, kỹ năng chuyên môn và kinh
nghiệm. Mặt khác, tính trung thực và uy tín của công ty chứng khoán có tầm
quan trọng trong việc thu hút khách hàng. Thông thường, hoạt động tư vấn
đầu tư hay đi kèm với các hoạt động khác như môi giới, bảo lãnh phát hành,
lưu ký chứng khoán...
Hoạt động tư vấn đầu tư có thể phân loại theo một số tiêu chí sau:
16

• Theo hình thức hoạt động: gồm tư vấn trực tiếp và tư vấn gián
tiếp thông qua các ấn phẩm, phương tiện thông tin đại chúng.
• Theo mức độ uỷ quyền của hoạt động: gồm tư vấn gợi ý và tư
vấn uỷ quyền.
• Theo đối tượng của hoạt động: gồm tư vấn cho người phát hành
và tư vấn đầu tư.
Các cách phân loại như trên đan xen nhau, làm nên tính phong phú
của hoạt động tư vấn chứng khoán.
Ở Việt Nam, việc quản lý các hoạt động tư vấn là cần thiết nhưng lại
vô cùng khó khăn trong điều kiện ban đầu, khi các hoạt động kinh doanh
chứng khoán chưa đi vào quy củ, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện.
e) Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư
Quản lý danh mục đầu tư là hoạt động quản lý vốn uỷ thác của khách
hàng để đầu tư vào chứng khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi
cho khách hàng trên cơ sở tăng lợi nhuận và bảo toàn vốn cho khách hàng.
Quản lý danh mục đầu tư là một dạng nghiệp vụ tư vấn của công ty chứng
khoán nhưng ở mức độ cao hơn; trong hoạt động này, khách hàng uỷ thác
tiền cho công ty chứng khoán thay mặt mình quyết định đầu tư theo một
chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng chấp thuận hoặc yêu
cầu (mức lợi nhuận kỳ vọng, rủi ro có thể chấp nhận v.v...)
Nghiệp vụ quản lý có thể thực hiện qua các bước như sau:
- Nhận yêu cầu quản lý
- Ký hợp đồng quản lý
- Thực hiện hợp đồng quản lý
- Thanh lý hợp đồng
17
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có những phát sinh ngoài
hợp đồng, công ty phải xin ý kiến của khách hàng bằng văn bản và phải thực
hiện theo đúng quy định của khách hàng. Ngoài ra công ty phải nghiêm ngặt
tách rời hoạt động này với hoạt động tự doanh và môi giới, tránh sử dụng

vốn của khách hàng sai mục đích để kiếm lợi cho mình.
Thực hiện nghiệp vụ quản lý cho khách hàng, công ty chứng khoán
vừa bảo quản hộ chứng khoán, vừa đầu tư hộ chứng khoán. Thông thường
công ty chứng khoán nhận được phí quản lý bằng một tỷ lệ phần trăm nhất
định trên một số lợi nhuận thu về cho khách hàng.
f) Các nghiệp vụ khác
* Nghiệp vụ tín dụng:
Đây là hình thức cấp tín dụng của công ty chứng khoán cho khách
hàng để họ mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật thế
chấp cho khoản vay. Khách hàng chỉ cần ký quỹ một phần, số còn lại sẽ do
công ty chứng khoán ứng trước tiền thanh toán. Đến kỳ hạn đã thoả thuận,
khách hàng phải hoàn trả đủ số chênh lệch cùng với lãi cho công ty chứng
khoán. Trường hợp khách hàng không trả được nợ, thì công ty có quyền phát
mãi số chứng khoán đã mua để thu hồi nợ.
Đây là một hoạt động thông dụng tại các thị trường chứng khoán phát
triển, công ty chứng khoán triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán để khách
hàng thực hiện giao dịch bán khống hoặc cho khách hàng vay tiền để khách
hàng thực hiện nghiệp vụ mua ký quỹ. Tuy nhiên, tại các thị trường mới nổi,
hoạt động này bị hạn chế, chỉ các định chế tài chính đặc biệt mới được phép
cấp vốn vay. Thậm chí một số nước còn không cho phép thực hiện cho vay
ký quỹ.
18
Nghiệp vụ này thường đi kèm với nghiệp vụ môi giới trong một công
ty chứng khoán, vì vậy quy trình giao dịch về căn bản là giống nhau. Có
điểm khác là, giao dịch môi giới sử dụng tài khoản tiền mặt còn giao dịch
cho vay ký quỹ sử dụng tài khoản ký quỹ.
* Lưu ký chứng khoán:
Là việc lưu trữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua các
tài khoản lưu ký chứng khoán. Đây là quy định bắt buộc trong giao dịch
chứng khoán bởi giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là hình

thức giao dịch ghi sổ, khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại
các công ty chứng khoán hoặc ký gửi chứng khoán. Khi thực hiện dịch vụ
lưu ký chứng khoán cho khách hàng, công ty chứng khoán sẽ nhận được các
khoản phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng
khoán.
* Tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính công ty:
Dịch vụ tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính có thể do bất kỳ công ty
chứng khoán hay cá nhân nào tham gia thông qua khuyến cáo, lập báo cáo,
tư vấn trực tiếp, thông qua ấn phẩm về chứng khoán để thu phí.
Hoạt động tư vấn đầu tư là việc cung cấp các thông tin, cách thức, đối
tượng chứng khoán, thời hạn, khu vực... và các vấn đề có tính quy luật về
hoạt động đầu tư chứng khoán. Nghiệp vụ này đòi hỏi nhiều kiến thức và kỹ
năng chuyên môn mà không yêu cầu nhiều vốn. Tính trung thực của cá nhân
hay công ty tư vấn có tầm quan trọng lớn.
Ngoài dịch vụ tư vấn đầu tư, các công ty chứng khoán có thể sử dụng
kỹ năng để tư vấn cho các công ty về việc sáp nhập, thâu tóm, tái cơ cấu vốn
của công ty để đạt hiệu quả hoạt động tối ưu.
19
* Nghiệp vụ quản lý cổ tức
Nghiệp vụ này của công ty chứng khoán xuất phát từ nghiệp vụ quản
lý hộ chứng khoán cho khách hàng. Khi thực hiện quản lý hộ, công ty phải
tổ chức theo dõi tình hình thu lãi chứng khoán khi đến hạn để thu hộ rồi gửi
báo cáo cho khách hàng. Tuy nhiên, trên thực tế các công ty thường không
trực tiếp quản lý mà sẽ lưu ký tại trung tâm lưu giữ chứng khoán.
* Nghiệp vụ quản lý quỹ:
Ở một số thị trường chứng khoán, pháp luật về chứng khoán cho phép
công ty chứng khoán được thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư. Theo đó,
công ty chứng khoán cử đại diện của mình để quản lý quỹ và sử dụng vốn và
tài sản của quỹ đầu tư để đầu tư chứng khoán. Công ty chứng khoán được
thu phí dịch vụ quản lý quỹ đầu tư.

Ngoài các nghiệp vụ kể trên, công ty chứng khoán còn có thể thực
hiện một số hoạt động khác như cho vay chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm,
v.v... Hoạt động nghiệp vụ của công ty chứng khoán có quan hệ mật thiết với
hoạt động tài chính, mảng tài chính của công ty phụ thuộc vào số lượng
nghiệp vụ và quy mô kinh doanh của công ty.
1.1.4.2 Hoạt động tài chính
Cũng như các loại công ty khác, hoạt động tài chính của công ty
chứng khoán bao gồm việc xác định kinh doanh cái gì để thu lợi nhuận, sử
dụng các loại tài sản cố định nào, lấy nguồn tài chính dài hạn nào để chi phí
cho khoản đầu tư của mình, quản lý các loại hoạt động thu chi, thanh toán
cho khách hàng như thế nào.. nhân
20
a) Vốn của công ty chứng khoán:
Vốn của một công ty chứng khoán nhiều hay ít phụ thuộc vào loại tài
sản cần tài trợ, mà loại tài sản này lại được quyết định bởi loại hình nghiệp
vụ mà nó thực hiện. Bảo lãnh phát hành và tự doanh là hình thức kinh doanh
cần nhiều vốn. Còn hoạt động môi giới, quản lý tiền, tư vấn... thì không cần
vốn lớn.
Nói chung, số vốn cần có để thực hiện nghiệp vụ chứng khoán được
xác định bằng việc cân đối giữa yêu cầu về vốn pháp định và các nhu cầu
kinh doanh của công ty.
b)Cơ cấu vốn:
Cơ cấu vốn là sự pha trộn của các khoản nợ và vốn cổ đông hoặc vốn
góp của các thành viên mà công ty sử dụng. Việc huy động vốn được tiến
hành trong nội bộ công ty hoặc ngoài thị trường, tuỳ theo quy mô và tính
chất của nó.
Việc huy động vốn và cơ cấu vốn của các công ty chứng khoán có
những đặc điểm chung như sau:
• Các công ty chứng khoán thường huy động phần lớn tài sản vào
việc phát hành cổ phiếu.

• Các công ty phụ thuộc tương đối nhiều vào các khoản vay ngắn
hạn.
• Các chứng khoán có thể đem ra mua bán trao đổi trên thị trường
thường chiếm phần lớn.
• Ở những nước công nghiệp mới hay các nước đang phát triển,
thông thường công ty chứng khoán không được vay vốn nước
ngoài, trái với đa số các nước phát triển.
21
• Tỷ lệ nợ là tuỳ theo từng công ty chứng khoán, nhưng phải tuân
theo các quy định của các cấp quản lý.
c) Quản lý vốn và hạn mức kinh doanh
Trong quản lý vốn của công ty chứng khoán, ngoài việc xác định tỷ lệ
nợ còn phải duy trì một mức khả dụng để đảm bảo khả năng thanh toán cho
nhà đầu tư. Vốn thanh khoản được định nghĩa là phần vượt trội của tài sản
khả dụng so với các nghĩa vụ nợ cùng cấp độ - bao gồm cả các điều chỉnh về
tài chính.
Các công ty tự doanh thường phải để một tỷ lệ dự trữ trên mức lợi tức
giao dịch ròng, còn các công ty môi giới duy trì tỷ lệ dự trữ tính trên tổng
doanh thu, với mục đích bù đắp các khoản lỗ trong kinh doanh chứng khoán.
Ngoài ra, các công ty còn phải trích phần trăm lãi ròng hàng năm lập
quỹ bổ sung vốn điều lệ cho đến khi bằng một mức phần trăm nào đó của
vốn điều lệ. Quỹ này được dùng để bù đắp các thâm hụt trong tương lai.
Về hạn mức kinh doanh, mỗi nước có một quy định khác nhau cho
các công ty chứng khoán.
d) Kế toán công ty
Kế toán là một hệ thống chức năng cung cấp các thông tin tài chính
hữu dụng cho việc ra các quyết định kinh doanh và kinh tế, thông qua việc
ghi chép, sắp xếp có hệ thống, chuyển giao các hoạt động tài chính của một
công ty.
Công việc của một hệ thống kế toán bao gồm ghi chép thông tin tài

chính và báo cáo thông tin tài chính.
22
Tóm lại, công ty chứng khoán là một bộ phận không thể thiếu của thị
trường chứng khoán, là hạt nhân thúc đẩy sự phát triển của thị trường. Với
tư cách là một thể chế bậc cao của nền kinh tế thị trường, một trong những
đặc trưng của thị trường chứng khoán là nó hoạt động theo nguyên tắc trung
gian. Theo nguyên tắc này, các giao dịch trên thị trường bắt buộc phải được
thực hiện qua các công ty môi giới chứng khoán và nhân viên môi giới
chứng khoán. Qua đó, ta thấy được tầm quan trọng của hoạt động môi giới
chứng khoán trong công ty chứng khoán.
1.2 Hoạt động môi giới của công ty chứng khoán
1.2.1 Khái niệm về môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán được hiểu là hoạt động của công ty chứng
khoán và nhân viên môi giới, trong sự tương quan chặt chẽ với nhau và với
một đối tác chung là khách hàng – nhà đầu tư, để tác động tới sự vận hành
và phát triển của thị trường chứng khoán. Có thể nói rằng nghiệp vụ môi giới
chứng khoán là hoạt động trung gian đại diện mua, bán chứng khoán cho
khách hàng để hưởng hoa hồng.
Ở đây, chúng ta xem xét hoạt động môi giới là một giao dịch kinh
doanh của công ty chứng khoán, trong đó công ty chứng khoán đại diện cho
khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch
chứng khoán hay thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách
nhiệm về hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó.
Để phân tích hoạt động môi giới của công ty chứng khoán, ta tìm hiểu
về bản chất - chức năng của môi giới, và vai trò của môi giới chứng khoán
đối với công ty chứng khoán nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung.
1.2.1.1 Bản chất của môi giới chứng khoán
23
Nghề môi giới chứng khoán được coi là sản phẩm của thị
trường cao cấp. Trên thị trường chứng khoán, nghề môi giới chứng khoán

không chỉ đơn thuần là khâu đưa sản phẩm, dịch vụ từ người bán đến người
mua; những đặc trưng của thị trường cao cấp đòi hỏi ở nghề môi giới chứng
khoán những đặc điểm đặc thù riêng.
Trước hết, sản phẩm tài chính là những sản phẩm đặc biệt. Đầu tư vào
chứng khoán có nghĩa là đầu tư vào những giấy tờ có giá mà thu nhập do
chúng mang lại được quyết định trước hết bởi khả năng thu lợi nhuận của
công ty. Khả năng này lại bị quy định bởi vô số yếu tố, từ những xu hướng
của nền kinh tế thế giới và trong nước, đến những đặc điểm riêng của ngành
và những điều kiện cụ thể của công ty.
Thứ hai, do tính phức tạp của thị trường và của cộng đồng các nhà đầu
tư, nguyên tắc trung gian cho phép bảo vệ nhà đầu tư, giúp họ lựa chọn các
sản phẩm và dịch vụ đáp ứng được những thông số cá nhân đa dạng. Do đó,
nhà đầu tư cần một nguồn tư vấn chuyên nghiệp, đáng tin cậy từ các nhà môi
giới.
Như vậy, nghề môi giới chứng khoán được coi là sản phẩm của thị
trường cao cấp xuất phát từ chỗ thị trường chứng khoán là sân chơi của tất
cả các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế. Từ đó yêu cầu thị trường phải
được tổ chức một cách khoa học, trật tự. Một trong những biện pháp để duy
trì tính trật tự, khoa học đó là việc tập trung các lệnh giao dịch vào các đầu
mối lớn là những công ty môi giới, từ đó các cơ quan quản lý sẽ thuận lợi
hơn trong việc kiểm soát. Nguyên tắc trung gian nhằm nâng cao năng lực
quản lý để duy trì sự hoạt động lành m ạnh của một thị trường tự do.
Với tư cách là hoạt động nghiệp vụ trong sự tương tác giữa công ty
môi giới và nhân viên môi giới, nghề môi giới chứng khoán có hai chức
năng chính là cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng; và cung cấp các
24
sản phẩm và dịch vụ tài chính giúp khách hàng thực hiện giao dịch theo yêu
cầu và vì lợi ích của họ.
a) Chức năng cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng
Trên thị trường chứng khoán, hàng ngày các tin tức tài chính liên tục

được cập nhật về lãi suất, tin kinh tế và thông tin thị trường. Nhà đầu tư
thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin, hoặc bị chậm và không
đầy đủ, hoặc lượng thông tin quá lớn không thể xem xét hết. Trong khi nắm
vững thông tin là một trong những yếu tố cơ bản làm nên thành công khi
tham gia thị trường chứng khoán. Do đó, cần thiết có sự giúp đỡ của các
nhân viên môi giới.
Nhân viên môi giới sử dụng những thông tin đã được bộ phận nghiên
cứu của công ty môi giới tổng hợp, phân tích kèm theo những khuyến nghị
cụ thể về loại chứng khoán, thời điểm mua bán... Các nhà phân tích nghiên
cứu tình hình thị trường theo ba lĩnh vực chủ yếu:
• Diễn biến tổng thể của thị trường.
• Động thái của từng khu vực riêng biệt trong thị trường đó.
• Hoạt động của từng công ty trong từng khu vực.
Hàng tuần, hàng ngày, phòng phân tích của công ty cung cấp cho các
nhà môi giới một khối lượng thông tin phân tích khổng lồ. Nhân viên môi
giới cung cấp những thông tin này cho khách hàng theo yêu cầu cụ thể. Trên
những thị trường phát triển, nhà môi giới luôn là những người đầu tiên nhận
được những tin tức mới nhất từ khắp nơi trên thế giới liên quan tới cổ phiếu
của khách hàng.
Cũng nhờ tiếp cận với nguồn thông tin được thu thập khổng lồ và
được xử lý công phu, nhà môi giới có đủ tri thức để trở thành nhà tư vấn tài
25

×