Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

mac chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.52 KB, 14 trang )

Câu 1 Nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN là xoá bỏ mọi hình thức tư hữu, bóc lột. Xoá bỏ CNTB xây
dựng CNXH . Nói một cách khái quát, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư
bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn
thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một quá trình cách dài và sáng tạo qua 2 giai đoạn:
+ Gđ1: GCCN và chính đảng của nó tiến hành cuộc đấu tranh giành chính quyền, trở thành giai cấp thống
trị .
+ Gdd2: GCCN liên minh chặt chẽ với quãng đại quần chúng nhân dân, dưới sự lãn đạo của Đảng Cộng
sản tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
* Về địa vị kinh tế xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa
Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, nó ra
đời và phát triển cùng với sự hình thành phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, được nền sản
xuất công nghiệp hiện đại rèn rũa tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng mạnh. Đại công nghiệp càng
phát triển, tập trung làm phá sản những người sản xuất hàng hoá nhỏ, bổ sung lực lượng cho giai cấp công
nhân. Mặt khác, đại công nghiệp phát triển tiếp tục bổ xung lực lượng cho giai cấp công nhân, thu hút lực
lượng lao động từ nhiều ngành, nhiều nghề khác nhau tạo nên tập đoàn hùng mạnh. Bản thân sự phát triển
nền đại công nghiệp cũng yêu cầu cao với từng người lao động, tập thể lao động về tác phong lao động, kỷ
luật lao động…
Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất trong các bộ phận tiêu biểu cấu
thành của lực lượng sản xuất của xã hội tư bản. Họ đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất với trình
độ xã hội hoá ngày càng cao. Nhưng chủ nghĩa tư bản lại được xây dựng trên nền tảng của chế độ chiếm
hữu tư nhân về tư lệu sản xuất mà giai cấp tư sản là đại diện. Bởi thế, ở phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa luôn luôn tồn tại mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao (mà giai
cấp công nhân là đại diện) với quan hệ sản xuất có tính chất chiếm hữu tư nhân (mà giai cấp tư sản là đại
diện). Đây là mâu thuẫn cơ bản vốn có và không thể khắc phục được nếu không xoá bỏ được chế độ tư
bản. Biểu hiện về mặt chính trị, xã hội của mâu thuẫn cơ bản đó là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và
giai cấp tư sản. Sự vận động phát triển của những mâu thuẫn tất yếu trên dẫn đến cách mạng xã hội chủ
nghĩa, dẫn tới sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Như vậy giai cấp công
nhân gắn liền với nền lao động sản xuất vật chất, đi liền sự phát triển của công nghiệp ngày càng hiện đại
kể cả khi xuất hiện nền kinh tế tri thức.
Do không có tư liệu sản xuất, giai cấp công nhân phải bán sức lao động làm thuê, bị nhà tư bản chiếm


đoạt giá trị thặng dư, bị lệ thuộc hoàn toàn vào quá trình phân phối các kết quả lao động của chính họ.
Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân bị toàn bộ giai cấp tư sản bóc lột, là giai cấp trực
tiếp đối kháng với giai cấp tư sản, không có quyền trong tổ chức, điều hành lao động, phân phối sản phẩm
lao động. Do đó giai cấp công nhân không được làm chủ trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Họ bị bần cùng
hoá so với giai cấp tư sản (bị bóc lột trong quá trình sản xuất, ngoài quá trình sản xuất và bị bóc lột theo
chiều sâu).
Câu 2:Về đặc điểm chính trị, xã hội:
Do những đặc điểm về kinh tế chính trị xã hội của giai cấp công nhân: từ địa vị kinh tế xã hội của
giai cấp công nhân, điều đó cũng quy định những đặc điểm xã hội chính trị của giai cấp công nhân, do vậy
giai cấp công nhân có vai trò sứ mệnh cao cả. Những đặc điểm đó là:
Giai cấp công nhân bị giai cấp tư sản bóc lột, áp bức rất nặng nề. Đề tăng giá trị thặng dư cho giai cấp
tư sản: đã tăng thêm giờ làm. Tăng lao động và biến người công nhân thành công cụ phụ thuộc máy móc,
giai cấp công nhân bị bần cùng hóa… theo sự khách quan: đã có áp bức tất có đấu tranh.
Giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất: Giai cấp công nhân là đại diện cho phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa– phương thức sản xuất tiên tiến nhất và là lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hoá cao,
là lực lượng quyết định sự phá vỡ phương thức sản xuất tư bản, thiết lập phương thức sản xuất mới.
Giai cấp công nhân luôn đi đầu trong các cuộc cách mạng và làm cách mạng cho đến khi thắng lợi.
Lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản, nhưng phù hợp với lợi
ích, khát vọng giải phóng của nhân dân lao động. Do đó giai cấp công nhân càng có đủ điều kiện, khả năng
trở thành lực lượng tổ chức lãnh đạo các giai cấp và tầng lớp lao động khác trong công cuộc xoá bỏ áp bức,
bóc lột của chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để, tính triệt để đó được thể hiện trong các
lĩnh vực kinh tế xã hội: Về kinh tế, lợi ích của giai cấp công nhân đối lập với lợi ích của giai cấp tư sản, họ


là những người không có tư liệu sản xuất, làm thuê cho các nhà tư bản và bị áp bức bóc lột nặng nề. Vì thế,
họ phải đứng thực hiện cuộc cách mạng vô sản thành công, đa họ từ địa vị của người làm thuê trở thành
người làm chủ bản thân, và làm chủ xã hội. Về xã hội, khi làm cách mạng, giai cấp công nhân đa cách
mạng đến thành công, đập tan nhà nước tư sản, thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản – nhà nước của giai
cấp vô sản. Tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân còn được thể hiện ở chỗ nó được vũ trang bởi

hệ tư tưởng tiên tiến là học thuyết Mác – Lênin được đội ngũ tiên phong của nó là Đảng cộng sản lãnh đạo.
Giai cấp công nhân là giai cấp có tính tổ chức kỷ luật cao: Điều kiện sản xuất tập trung và trình độ kỹ
thuật ngày càng hiện đại, cơ cấu tổ chức sản xuất chặt chẽ đã tôi luyện cho giai cấp công nhân hiện đại tính
tổ chức và kỷ luật cao, tác phong công nghiệp; trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản thống trị, giai
cấp công nhân phải đoàn kết lại, tổ chức chặt chẽ và có tính cách mạng cao vì cách mạng đòi hỏi đúng thời
điểm, thời cơ thuận lợi mới có thể thành công.
Giai cấp công nhân có bản chất quốc tế và bản sắc dân tộc. GCCN ra đời muộn nhưng sớm trở thành
một tổ chức thống nhất về cả tư tưởng lẫn tổ chức.GCCN trên thế giới gắn bó mật thiết với nhau trong
công cuộc giải phóng ĐN.
Từ những đặc điểm chính trị xã hội của giai cấp công nhân khảng định trong thời đại hiện nay chỉ có giai
cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ
CNTB, xây dựng thành công CNXH và tiến tới CNCS.
Câu 3 trình bày vai trò của ĐCS trong việc thực hiện SMLS
1Tính tất yếu ,quy luật hình thành và sự phát triển của Đảng của GCCN:
Các nhà sáng lập CNXH đã khẳng định rằng :Phong trào đấu tranh của GCCN từ khi CNTB ra đời và phát
triển song đều bị thất bại vì thiếu hệ thống lý luận soi đường và một Đảng thực sự cách mạng, khoa học
lãnh đạo. thông qua các cụôc đấu tranh chống GCTS , GCCN phát triển từ trình độ tự phát lên trình độ tự
giác, chuyến từ GC "tự nó"thành GC"vì nó".Quá trình đó tất yếu phải diễn ra ở trong mọi phong trào công
nhân nhưng nó diễn ra nhanh hay chậm , thuận lợi hay khó khăn thì lại phụ thuộc vào việc truyền bá chủ
nghĩa Mac-Lênin diễn ra như thế nào,có thắng các trào lưu xã hội -dân chủ và cơ hội chủ nghĩa trong
phong trào công nhân hay không ? Nếu phong trào chỉ dừng ở trình độ "tự nó" thì nó chỉ mới mang ý thức
công liên chủ nghĩa .Phải có CN Mác soi sáng ,GCCN mới đạt tới trình độ nhận thức lý luận về vai trò lịch
sử của mình.
Sự thâm nhập của CN Mác vào phong trào CN dẫn đến sự hình thành chính đảng của GCCN. Lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận cách mạng và khoa học, phù hợp với nguyện vọng của phong trào công
nhân đang đòi hỏi, song cũng cần được kiểm nghiệm và phát triển phù hợp.Bộ phận tiên tiến của GCCN
tiếp thu lý luận của chủ Nghĩa Mác - Lênin và tổ chức ra Đảng Cộng sản.Đảng chính là sự kết hợp phong
trào CN với CNXHKH
Đến lượt mình , chính đảng của GCCN lại là nhân tố cơ bản , chủ yếu tiếp tục quá trình kết hợp ấy bằng
cách không ngừng tổng kết , bổ sung phát triển CNXH khoa học, tiệp tục tuyên truyền giác ngộ CNXHKH

để đẩy mạnh phong trào CN
Ở nước ta , sự ra đời chính đảng của GCCN là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mac-Lênin với phong
trào CN và phong trào yêu nước chân chính.
2. Đảng Cộng sản là nhân tố bảo đảm cho GCCN hoàn thành sứ mệnh lịch sử
a,Tính chất giai cấp của Đảng :
Trong lịch sử , chính đảng nào cũng mang tính chất giai cấp, cũng tiêu biểu cho hệ tư tưởng của một GC
nhất định . ĐCS là đội tiên phong của GCCN, cái quyết định bản chất GC của Đảng là lấy CN Mac-Lênin
làm nền tảng tư tưởng , kim chỉ nam cho hành động.
Khẳng định bản chất GCCN của Đảng không có nghĩa là tách rời Đảng, giai cấp với các tầng lớp NDLĐ,
với toàn thể dân tộc . ĐCS là đại biểu trung thành cho lợi ích của GCCN, của NDLĐ và của cả dân tộc.
b.Vai trò của Đảng:
GCCN là cơ sở xã hội -giai cấp của Đảng ,là nguồn bố sung lực lượng của Đảng .
Còn Đảng là đội tiên phong chính trị của GCCN và của toàn xã hội. Đảng gồm những người ưu tú nhất,
cách mạng nhất, luôn đi đầu trong phong trào đấu tranh của quần chúng. , có nhiệm vụ vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mac-Lenin , phân tích đúng đắn hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong mỗi giai đoạn cách mạng , đề ra
mục tiêu , phương hướng , đường lối , chính sách đúng ,phù hợp với yêu cầu phát triển khách quan của đất
nước .Đồng thời Đảng giáo dục, tổ chức lãnh đạo GCCN và tòan thể ND thực hiện công cuộc xoá bỏ chế
độ xã hội cũ , xây dựng thành công chế độ xã hội mới, XHCN tiến lên CNCS.
Giữa Đảng và GCCN luôn có mối liên hệ hữu cơ không thể tách rời.


Với một ĐCS chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng chính là sự lãnh đạo của GC, Đảng với giai cấp là
thống nhất nhưng Đảng có trình độ lý luận và tổ chức cao nhất để lãnh đạo cả GC và dân tộc vì thế không
thể lẫn lộn Đảng với GC
Là lãnh tụ chính trị Đảng tập hợp lãnh đạo GCCN và nhân dân lao động
Câu 4: Khái niệm về CM XHCN:
CM XHCN là cuộc CM do giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm xóa bỏ chế độ XH cũ, nhất là chế dộ TBCN,
xây dựng thành công CNXH để tiến lên CN cộng sản.
Tuy nhiên, CM XHCN có lúc được nghiên cứu theo nghĩa rộng, có lúc được nghiên cứu theo nghĩa hẹp.
- Theo nghĩa hẹp: CM XHCN là cuộc CM về chính trị. Trong đó quần chúng nhân dân lao động vùng dậy

dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân để giành lấy chính quyền, thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản
(nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động) tạo tiền đề cho việc tiến hành CM XHCN trên
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, tư tưởng ở giai đoạn tiếp theo.
- Theo nghĩa rộng: CM XHCN là cuộc CM XH. Đó là quá trình cải biến một cách toàn diện trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống XH, bao gồm chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng… dưới sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân để xây dựng thành công CNXH, tiến đến CN cộng sản.
Như vậy, theo nghĩa rộng, CM XHCN bao gồm cả việc giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và cả quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – XHCN trên tất cả mọi lĩnh vực của
đời sống XH.
2. Nguyên nhân của CM XHCN:
CN Mác – Lenin cho rằng, nguyên nhân xâu xa của cuộc CM XH là do sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, kìm hãm nó và tất
yếu phải thay thế quan hệ sản xuất lỗi thời bằng quan hệ sản xuất mới tiên tiến hơn. Do vậy, dưới CNTB,
nhất là khi máy hơi nước ra đời làm cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, ngày càng mang tính chất
xã hội hóa cao; dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất mang tính chất TBCN về tư liệu sản xuất.
Biểu hiện của mâu thuẫn trên, trong lĩnh vực kinh tế là tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng doanh nghiệp
ngày càng tăng với tính tổ chức của sản xuất toàn xã hội do tính cạnh tranh của nền sản xuất hàng hóa
TBCN gây ra.
Quy luật cạnh tranh, tính chất vô chính phủ trong sản xuất dẫn tới khủng hoảng thừa, buộc một số doanh
nghiệp phải ngừng sản xuất, khi sản xuất đình trệ, công nhân không có việc làm, họ đã đứng lên đấu tranh
chống lại giai cấp tư sản. Để khắc phục tình trạng đó, giai cấp tư sản đã tổ chức các xanhdica, tờ rớt,
congxocxiom và nhà nước tư bản ngày càng can thiệp sâu vào kinh tế, bằng việc quốc hữu hóa một số
ngành khi khó khăn, tư hữu hóa khi thuận lợi.
Tuy rằng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong chế độ tư bản ngày càng gay gắt,
nhưng CM XHCN không diễn ra một cách tự phát mà thông qua hoạt động của con người và những điều
kiện khách quan, chủ quan nhất định.
3.Những điều kiện khách quan, chủ quan của cuộc CM XHCN:
CM XHCN muốn nổ ra và giành thắng lợi, phải có những điều kiện khách quan và chủ quan.
- Những điều kiện khách quan của CM XHCN:
Những đk khách quan là phải có những mâu thuẫn về kinh tế- xã hội diễn ra gay gắt trong lòng XH TBCN.

Đó là mâu thuẫn giữa lực lượng SX mang tính xã hội hóa cao với quan hệ SX chiếm hữu tư nhân về tư liệu
SX. Đây là mâu thuẫn cơ bản nhất, quyết định nhất của CM XHCN. Mâu thuẫn kinh tế này đã dẫn đến
mâu thuẫn về xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp TS và giai cấp VS.
Dưới chế độ TBCN, nền đại công nghiệp phát triển cao dựa trên cơ sơ sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
– kĩ thuật đã hình thành những thành phố lớn, những khu công nghiệp tập trung, làm cho lực lượng SX đạt
đến trình độ xã hội hóa cao. Sự phát triển của lực lượng SX đã tạo ra một đội ngũ công nhân ngày càng
đông về số lượng và cao về chất lượng. Họ gắng bó hữu cơ với nền SX hiện đại và giữ vai trò quyết định
trong việc tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội, nhưng của cải đó lại bị giai cấp TS chiếm
đoạt. Điều đó giúp cho công nhân dễ dàng nhận thấy sự bạo tàn của giai cấp TS và họ trở thành kẻ thù của
giai cấp TS; làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp TS ngày càng gay gắt.
Giai cáp TS không chỉ áp bức, bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong các nước, mà với
lòng tham vô hạn, với khát vọng quền lực, giai cấp TS đã tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược các
nước khác, biến những nước này thành thuộc địa của chúng. Điều đó làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các
nước tư bản với nước thuộc địa ngày càng trở nên gay gắt.


Những mâu thuẫn trên dẫn tới nguy cơ tạo thành CM XH và nó đòi hỏi phải giải quyết bằng cuộc CM XH,
nhằm xóa bỏ ách áp bức, bóc lột của giai cấp TS, thiết lập một chế độ XH mới – XHCN.
- Những đk chủ quan của CM XHCN:
Những đk khách quan đã tạo ra nguy cơ tạo thành CM XHCN. Nhưng để cho nguy cơ đó biến thành hiện
thực thì phải có những điều kiện chủ quan.
Đk chủ quan có ý nghĩa quết định nhất là sự trưởng thành của giai cấp công nhân, đặc biệt là khi nó đã có
đảng tiên phong của mình là ĐSC. Lúc đó giai cấp công nhân mới có đủ khả năng đk để đứng ra đảm
đương sứ mệnh lịch sử của mình là tổ chức phát động quần chúng nhân dân lao động tiến hành cuộc CM
XHCN. Nếu không có đk chủ quan này thì CM XHCN không nổ ra. Bằng chứng là ở các nước TBCN hiện
nay như Mỹ, Nhật, Anh, Pháp… Mâu thuẫn kinh tế - xã hội đã có, nhưng giai cấp công nhân vầ ĐCS ở
những nước đó chưa muốn phát động cuộc CM XHCN. Mặt khác, sự khống chế của giai cấp TS ở những
nước đó quá chặt chẽ nên CM XHCN chưa thể nổ ra được. Đk chủ quan thứ 2 là sự liên minh công - nông
và tầng lớp lao động khác để tạo nên lực lượng khổng lồ, sức mạnh to lớn để đảm bảo cho CM thắng lợi.
Câu 5Cách mạng xã hội chủ nghĩa được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Trên lĩnh vực chính trị: đưa quần chúng nhân dân lao động từ địa vị nô lệ, làm thuê, bị áp bức, bóc lột trở
thành người làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, bằng lao động sản xuất, bằng cuộc đấu tranh xoá bỏ những
cái xấu của xã hội cũ, xây dựng xã hội mới về mọi mặt làm cho xã hội ngày càng phát triển, mức sống của
nhân dân ngày càng nâng lên.
Muốn thực hiện được những nội dung nêu trên, giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động, dưới sự
lãnh đạo của đảng cộng sản, dùng bạo lực cách mạng đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản, "giai
cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc"..
Bước tiếp theo, giai cấp công nhân phải không ngừng nâng cao trình độ tri thức về mọi mặt cho quần
chúng nhân dân lao động, tạo ra những điều kiện cần thiết để ngày càng mở rộng dân chủ cho nhân dân,
thu hút quần chúng nhân dân lao động tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, làm cho
nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân.
Quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quá trình nhân dân thực hiện quyền làm chủ về chính trị
cũng là quá trình đấu tranh gay go quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, giữa cá nhân và tập thể, giữa chủ nghĩa
cách mạng và phản cách mạng, v.v..
Trên lĩnh vực kinh tế: những cuộc cách mạng trước đây về thực chất là cách mạng chính trị. Chúng kết
thúc bằng việc lật đổ ách thống trị của giai cấp này, thay thế bằng sự thống trị của giai cấp khác. Cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa, thực chất, là có tính chất kinh tế. Việc giành được chính quyền về tay giai cấp công
nhân, nhân dân lao động mới là bước đầu. Nhiệm vụ trọng tâm, có ý nghĩa quyết định cho sự thắng lợi của
cách mạng xã hội chủ nghĩa là phải phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao năng suất lao động, cải thiện
đời sống nhân dân.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế, trước hết, phải thay đổi vị trí, vai trò của người lao
động đối với tư liệu sản xuất, thay chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng chế độ sở hữu xã hội
chủ nghĩa dưới những hình thức thích hợp; thực hiện những biện pháp cần thiết gắn người lao động với tư
liệu sản xuất.
Trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động ngày càng tăng cao, từng bước cải thiện đời
sống nhân dân lao động, nâng cao chất lượng sức khoẻ, năng lực của người lao động. Mặt khác, dưới chủ
nghĩa xã hội, tìm mọi cách phát huy tính tích cực xã hội, khả năng sáng tạo của người lao động để ngày
càng nâng cao năng suất lao động, hiệu quả công tác làm cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát
triển góp phần chiến thắng chủ nghĩa tư bản.
Dưới chủ nghĩa xã hội, có điều kiện đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất, góp phần nâng cao năng suất lao

động, tạo ra nhiều của cải xã hội phục vụ quần chúng nhân dân lao động, vì có sự thống nhất về lợi ích
giữa cá nhân, tập thể và xã hội.
Chủ nghĩa xã hội thực hiện phân phối theo lao động, do vậy, năng suất lao động, hiệu quả công tác là thước
đo đánh giá sự đóng góp của mỗi người cho xã hội. Năng suất lao động, hiệu suất công tác là biểu hiện cụ
thể của lòng yêu nước, ý thức giai cấp, ý thức dân tộc của mỗi người ở trong xã hội.
Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá: Trong các xã hội trước đây, giai cấp bóc lột nắm tư liệu sản xuất vật chất,
họ cũng nắm luôn công cụ thống trị về mặt tinh thần. Dưới chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và quần
chúng nhân dân lao động đã là những người làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, do vậy,
cũng là những sáng tạo ra những giá trị tinh thần của xã hội. Người lao động là người sáng tạo, làm phong


phú thêm những giá trị văn hoá tinh thần của xã hội, đồng thời cũng là những người hưởng thụ những giá
trị văn hoá tinh thần đó.
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và nâng cao các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, tiếp thu các giá trị
văn hoá tiên tiến của thời đại, cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hoá thực hiện việc giải phóng
những người lao động về mặt tinh thần thông qua việc xây dựng từng bước thế giới quan và nhân sinh
quan mới cho người lao động, hình thành những con người mới xã hội chủ nghĩa, giàu lòng yêu nước,
thương dân, có bản lĩnh chính trị, nhân văn, nhân đạo, có hiểu biết và biết giải quyết đúng đắn mối quan hệ
cá nhân, gia đình và xã hội..., có năng lực làm chủ xã hội.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa diễn ra đồng thời trên các lĩnh vực và các lĩnh vực đó có quan hệ mật thiết,
tác động, thúc đẩy lẫn nhau.
Nhìn chung, cách mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình cải biến toàn diện xã hội cũ thành xã hội mới,
trong đó công cuộc cải tạo kết hợp chặt chẽ với công cuộc xây dựng mà xây dựng là chủ yếu. Cải tạo đóng
vai trò như một phương tiện phục vụ cho mục tiêu xây dựng xã hội mới, ngược lại, công cuộc xây dựng xã
hội mới tạo ra những điều kiện có ý nghĩa quyết định để triển khai công cuộc cải tạo.
- được tính chất của cách mạng : Là cuộc cách mạng sâu sắc nhất, triệt để nhất, khó khăn phức tạp,
lâu dài gian khổ, có tính nhân dân và tính quốc tế. Làm rõ được 4 ý của tính chất
Câu 6 Trình bày tính tất yếu và cơ sở khách quan của liên minh giữa GCCN với GCND trong cách
mạng XHCN?
trên cơ sở tổng kết thực tiễn phong trào cách mạng của GCCN ở châu Âu, nhất là các nước Anh, Pháp cuối

thế kỉ XIX, hai ông đã khái quát thành một hệ thống lí luận khoa học về cách mạng vô sản. Các ông đã chỉ
ra những nguyên nhân chủ yếu của thất bại trong các cuộc đấu tranh là do giai cấp công nhân không tổ
chức liên minh được với "người bạn đồng minh của mình" là giai cấp nông dân. Vì vậy, trong cuộc đấu
tranh này, giai cấp công nhân luôn đơn độc và các cuộc cách mạng này đã trở thành "bài ai điếu".
- Quan điểm của V.I. Lênin: Ông đã vận dụng và phát triển tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen trong
điều kiện mới. Thành công của Cách mạng Tháng Mười là minh chứng cho thắng lợi của tư tưởng đó.
Trong thời kì quá độ, V.I. Lênin cho rằng không chỉ liên minh với công - nông, mà còn liên minh với các
giai tầng khác. Người coi liên minh này là "Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính là duy trì khối liên minh
giữa giai cấp vô sản với nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà
nước" (1). V.I. Lênin đặc biệt coi trọng khối liên minh này trong những nước nông nghiệp mà đại đa số là
nông dân. Qua liên minh này, lực lượng đông đảo nhất trong xã hội là nông dân được công nhân tập hợp vì
mục tiêu chung và lợi ích của toàn dân tộc.
- Tính tất yếu của liên minh công - nông trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội được xem xét dưới các
góc độ sau:
Thứ nhất, xét về nguyên tắc tập hợp lực lượng của chuyên chính vô sản thì liên minh này đã tập thu hút và
tổ chức được lực lượng sản xuất cơ bản, đông đảo và cách mạng nhất để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, xét về nguyên tắc lãnh đạo của chuyên chính vô sản thì giai cấp vô sản là giai cấp duy nhất thông
qua đảng của mình để lãnh đạo hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Nhưng vai trò đó chỉ được thực hiện
với điều kiện tổ chức tốt liên minh công - nông - trí thức và các giai tầng khác trong xã hội.
Thứ ba, xét về lợi ích cơ bản và mục tiêu của nhà nước xã hội chủ nghĩa là đảm bảo quyền lợi của toàn thể
nhân dân, dân tộc mà đại đa số là công - nông và những người lao động khác.
Thực tiễn quá trình cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam đã chứng minh là phải có liên minh mới
giành được thắng lợi.
Giai đoạn hiện nay liên minh đó không những là tất yếu khách quan mà còn là vấn đề cấp bách. Đồng thời
còn tạo ra bộ mặt mới, chất lượng mới, là cơ sở cho đại đoàn kết dân tộc.
* Cơ sở khách quan của việc xây dựng khối LMCN
+Dưới CNTB GCCN và GCND cùng có chung kẻ thù và cùng bị GCTS bóc lột.
+ Trong quá trình xây dựng CNXH, công nghiệp và nông nghiệp là hai ngành sản xuất chính có quan hệ chặt
chẽ với nhau, hỗ trợ nhau.
+ GCCN và GCND và những người lao động khác là lực lượng chính trị to lớn trong xây dựng và bảo vệ

chính quyền nhà nước, đoàn kết các dân tộc..
Câu 7 Phân tích những nội dung, của liên minh giữa GCCN với giai cấp nông dân trong cách mạng
XHCN.Khảng định trong cách mạng XHCN GCCN liên minh với GCND trên tất cả các lĩnh vực.


Liên minh về chính trị giữa GCCN với GCND.
Trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền: 2 giai cấp phải cùng nhau đấu tranh xoá bỏ sự thống trị của
GCTS giành lấy chính quyền nhà nước về tay GCCN và nhân dân lao động.
Trong xây dựng CNXH: cùng nhau tham gia xây dựng chính quyền nhà nước, quản lý nhà nước và xã hội,
bảo vệ CNXH và những thành quả cách mạng; Đưa người lao động lên làm chủ xã hội từng bước làm chủ tự
nhiên và bản thân.
Nội dung kinh tế của LMCN: Đây là nội dung cơ bản nhất quyết định đến độ bàn vững của khối
LMCN vì nó giải quyết được vấn đề lợi ích của 2 giai cấp.
Thực chất liên minh về kinh tế giữa GCCN và GCND trong quá trình xây dựng CNXH là phải kết hợp đúng
đắn lợi ích giữa hai giai cấp, đặc biệt phải ưu tiên quan tâm đến lợi ích của GCND, đưa GCND vào con
đường sản xuất lớn XHCN. Có chính sách phù hợp với nông dân, nông nghiệp và nông thôn.
Để xây dựng khối liên minh công- nông vững chắc Nhà nước XHCN và Đảng cộng sản cần phải thường
xuyên quan tâm tới xây dựng một hệ thống chính sách xã hội phù hợp đối với nông dân nông nghiệp và
nông thôn, giải quyết tốt hai mối quan hệ giữa công nghiệp với nông nghiệp, nhà nước với nông dân nông
thôn. Đưa nông dân đi theo con đường XHCN bằng cách đưa họ vào con đường hợp tác xã bằng các bước
đi phù hợp và nâng cao đời sống của họ.
Nội dung văn hoá, xã hội:CNXH được xây dựng trên nền tảng sản xuất công nghiệp hiện đại, đòi
hỏi phải những người có trình độ văn hoá cao mới có thể tạo ra được một xã hội cao hơn CNTB; một xã
hội nhân văn nhân đạo, quan hệ tốt giữa con người với người, dân tộc này với dân tộc khác.. vì vậy phải
nâng cao trình độ văn hoá cho nhân dân lao động
Công nông phải là người chủ của các phương tiện sáng tạo văn hoá, đồng thời là người hưởng thụ các
thành tựu văn hoá. Phải thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin cho công nông, nâng cao trình độ
văn hoá cho nông dân, tạo cho họ khắc phục những tâm lý thói quen của nền sản xuất nhỏ, tư tưởng bảo
thủ lạc hậu..
Câu 8Phân tích những nguyên tắc của liên minh giữa GCCN với giai cấp nông dân trong cách mạng

XHCN
- Muốn xây dựng khối liên minh vững chắc cần thiết phải đảm bảo thực hiện những nguyên tắc trong tất cả
các giai đoạn của tiến trình cách mạng XHCN
- Phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
- Phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện
- Kết hợp đúng đắn các lợi ích
-Trong giai đoạn xây dựng CNXH, giai cấp công nhân cần phải quan tâm hơn nữa đến lợi ích của GCND,
và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, Xây dựng nền tảng khối liên minh giữa công nhân với nông dân và
trí thức vững chắc.
Câu 9 Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Từ xã hội TBCN lên CNXH phải trải qua TKQĐ là một tất yếu lịch sử vì:
- CNTB và CNXH khác nhau về bản chất, CNTB được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản về tư
liệu sản xuất, dựa trên chế độ áp bức bóc lột, bất công. CNXH xây dựng trên cơ sở công hữu hoá về tư liệu
sản xuất, không còn giai cấp đối kháng, không còn tình trạng áp bức, bóc lột. Muốn có xã hội như vậy phải
có một thời kỳ lịch sử nhất định để xay dựng.
- CNXH được sản xuất trên nền tảng sản xuất đại công nghiệp có trình độ cao. Muốn có cơ sở vật chất
kỹ thuật phục vụ cho CNXH cần có thời gian tổ chức xắp xếp lại.
- Các quan hệ XHCN xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng CNTB, chúng là kết quả của quá trình
xây dựng và cải tạo XHCN. Phải cải tạo những thói quen tâm lý của nền sản xuất nhỏ, tư tưởng bảo thủ,
lạc hậu, phải loại trừ tư tưởng thù địch.. và XDvà pt những quan hệ sản xuất mới, thói quen tâm lý mới...
- Công cuộc xây dựng CNXH là một công việc mới mẻ, khó khăn, phức tạp, phải cần có thời gian để
GCCN từng bước làm quen với những công việc đó.
-TKQĐ lên CNXH ở các nước có trình độ kinh tế xã hội khác nhau có thể diễn ra với khoảng thời gian
dài ngắn khác nhau. Những nước đã trải qua phát triển CNTB ở trình độ trung bình, đặc biệt là những nước
còn ở trình độ phát triển tiền tư bản, nền kinh tế lạc hậu thì thời kỳ quá độ thường kéo dài với nhiều khó
khăn, phức tạp.
- Kẻ thù của GCCN và NDLD mới bị đánh đổ, chưa bị tiêu diệt hoàn toàn, để tiêu diệt tận gốc kẻ thù
cần phải có thời gian
- Khắc phục tâm lý nôn nóng hoặc coi thường kẻ thù



Câu 10Làm rõ những đặc điểm và thực chất của TKQĐ từ CNTB lên CNXH
Đặc điểm của thời kỳ quá độ: đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH là sự tồn tại đan
xen những tàn dư, tàn tích của xã hội cũ với những nhân tố mới của XHCN trong mối quan hệ vừa thống
nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội.
+ Trên lĩnh vực kinh tế: còn tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong một hệ thống kinh tế thống nhất,
vận động theo định hướng XHCN; còn tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình
thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp và tương ứng với nó là những hình thức phân phối khác
nhau, trong đó hình thức phân phối theo lao động giữ vai trò chủ đạo.
- Trên lĩnh vực chính trị: do kết cấu kinh tế đa dạng phức tạp nên thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH kết
cấu giai cấp cũng đa dạng và phức tạp. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau.
Ngay trong một giai cấp cũng có nhiều bộ phận khác nhau, thu nhập, ý thức chính trị của các bộ phận khác
nhau có sự khác nhau. Nhà nước XHCN ngày càng được củng cố tăng để quản lý kinh tế xã hội, NDLD
đang phát huy quyền làm chủ của mình, thì các thế lực phản động đang tìm mọi cách để chống lại.
+ Trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá- xã hội: trong thời kỳ quá độ lên CNXH còn tồn tại nhiều tư tưởng văn
hoá khác nhau. Bên cạnh tư tưởng XHCN là chủ nghĩa Mác - Lênin giữ vai trò thống trị còn tồn tại tư
tưởng tư sản, tiểu tư sản và tâm lý tiểu nông, thậm trí còn có tư tưởng chống lại cách mạng. Vẫn còn có sự
phân tầng, khác biệt giữa các giai tầng trong xã hội
- Thực chất TKQĐ: là thời kỳ diến ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa GCTS đã bị đánh bại không còn là
giai cấp thống trị và những thế lực thù địch chống phá CNXH với GCCN và quần chúng nhân dân lao
động do ĐCS lãnh đạo. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới là GCCN đã cầm quyền, quản
lý tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với nội dung, hình thức mới.
Ý nghĩa: cần nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu của kẻ thù...
Câu 11:Trình bày những nội dung cơ bản của thời kỳ quá độ
Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH là thì kỳ mà giai cấp công nhân cùng với các tầng lớp nhân dân lao
động đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên tất cả
các lĩnh vực.
- Trong lĩnh vực kinh tế: Phát triển mạnh lực lượng sản xuất, cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ
sản xuất mới XHCN theo hướng ngày càng phục vụ tốt đời sống của nhân dân lao động.
- Trong lĩnh vực chính trị: Tiến hành cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch chống phá sự nghiệp

xây dựng CNXH. xây dựng Nhà nước và củng cố nền dân chủ XHCN; xây dựng Đảng Cộng sản trong
sạch vững mạnh ngang tầm với nhiệm vụ.
- Trong lĩnh vực tư tưởng- Văn hóa: Tuyên truuyền, phổ biến những tư tưởng cách mạng, khoa học của
GCCN; khắc phục những tư tưởng tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây dựng CNXH; xây
dựng nền văn hóa mới, con người mới XHCN
- Trong lĩnh vực xã hội: Khắc phục các tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại; từng bước khắc phục sự chênh lệch
phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư để thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội
Câu 12:Nêu những đặc trưng cơ bản của xã hội -xã hội chủ nghĩa
Vừa dựa trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa dựa trên thực tiễn xây dựng chủ nghĩa
xã hội và tổng kết lý luận, chúng ta có thể nêu ra những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa sau
đây:
1. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội (hay xã hội xã hội chủ nghĩa) là nền sản xuất công nghiệp
hiện đại.
Cả mặt thực tế, cả lôgíc - lý luận khoa học đều chứng minh rằng, xã hội xã hội chủ nghĩa là sự kế tiếp sau
xã hội tư bản chủ nghĩa, có nhiệm vụ giải quyết những mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã không thể giải
quyết triệt để. Đặc biệt là giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu xã hội hoá ngày càng tăng của lực lượng sản
xuất ngày càng hiện đại hơn với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Do đó, lực
lượng sản xuất của xã hội xã hội chủ nghĩa, khi nó hoàn thiện, phải cao hơn so với chủ nghĩa tư bản.
Đương nhiên, các nước tư bản phát triển đã có lực lượng sản xuất cao (như G7...) thì lên xã hội xã hội chủ
nghĩa giai cấp vô sản ở đó chủ yếu chỉ phải trải qua một cuộc cách mạng chính trị thành công. Khi đó
chính trình độ lực lượng sản xuất đã phát triển cao là một cơ sở rất thuận lợi cho việc tiếp tục xây dựng
thắng lợi, hoàn thiện chủ nghĩa xã hội - cả quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất cao hơn chủ nghĩa tư
bản.


ở những nước xã hội chủ nghĩa "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa" (như Việt Nam và các nước khác) thì
đương nhiên phải có quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng từng bước cơ sở vật chất
- kỹ thuật hiện đại của chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, Trung Quốc, Việt Nam, Cuba... đang đẩy mạnh quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá với tốc độ khá cao, đạt được nhiều thành tựu to lớn và ngày càng vững
chắc.

2. Xã hội xã hội chủ nghĩa đã xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về những
tư liệu sản xuất chủ yếu
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội không xoá bỏ chế độ tư hữu nói
chung mà chủ yếu xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất (còn các chế độ tư hữu khác:
chế độ tư hữu chủ nô, phong kiến, xét trên toàn cầu thì đã bị chủ nghĩa tư bản xoá bỏ trước đó rồi). Bởi vì
chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa đã nô dịch, áp bức bóc lột giá trị thặng dư đối với đại đa số nhân dân lao
động, đem lại lợi nhuận ngày càng cao cho thiểu số các tập đoàn tư bản lũng đoạn và giai cấp thống trị xã
hội.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kết cấu xã hội còn đan xen nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội; cơ
sở kinh tế quá độ còn nhiều thành phần vận hành theo cơ chế sản xuất hàng hoá, quan hệ thị trường, vẫn
tồn tại những quan hệ kinh tế cụ thể như thuê mướn lao động... cá nhân người này vẫn có thể còn bóc lột
những cá nhân khác. Đó chỉ là những quan hệ bóc lột cụ thể chứ không phải xem xét trên cả một chế độ xã
hội, giai cấp này bóc lột các giai cấp, tầng lớp khác. V.I. Lênin và Đảng Cộng sản Nga, sau một thời gian
áp dụng "Chính sách cộng sản thời chiến" (trưng thu lương thực... do yêu cầu phục vụ chiến tranh bảo vệ
Tổ quốc) đã bãi bỏ chính sách này khi bước vào thời kỳ quá độ, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ
thực hiện "Chính sách kinh tế mới" (NEP) với kinh tế hàng hoá 5 thành phần và tự do lưu thông hàng hoá
trên thị trường nhiều loại sản phẩm. Đó là một đặc trưng kinh tế của thời kỳ quá độ và cả của chủ nghĩa xã
hội. Việc xoá bỏ một cách nóng vội những đặc điểm trên, sa vào bệnh chủ quan duy ý chí trong mấy thập
kỷ cuối thế kỷ XX của các nước xã hội chủ nghĩa là trái với quan điểm của V.I. Lênin về nền kinh tế quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.
3. Xã hội xã hội chủ nghĩa tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới
Quá trình xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội là một quá trình hoạt động tự giác của đại đa số nhân dân,
vì lợi ích của đa số nhân dân. Chính từ bản chất và mục đích đó mà các nhà kinh điển Mác-Lênin đã đưa ra
những kết luận khoa học cho đến nay vẫn còn giá trị: chủ nghĩa xã hội sẽ là một kiểu tổ chức lao động mới
của bản thân nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo, hướng dẫn của đảng cộng sản, đội tiên phong của giai
cấp công nhân và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do đó, kỷ luật lao động mới cũng có những đặc trưng mới,
vừa là kỷ luật chặt chẽ theo những quy định chung của luật pháp, pháp chế xã hội chủ nghĩa, vừa có tính tự
giác - kỷ luật tự giác (tức là mỗi người lao động giác ngộ về vai trò làm chủ đích thực của mình trước xã
hội, trước mọi công việc được phân công ngày càng tốt hơn). Đương nhiên, để mọi người lao động có
được tổ chức và kỷ luật lao động mới tự giác như thế, phải trải qua quá trình đấu tranh, từng bước hoàn

thiện chủ nghĩa xã hội.
Xã hội xã hội chủ nghĩa thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động - nguyên tắc phân phối cơ bản nhất
Trong quá trình lao động cụ thể, mỗi người lao động sẽ nhận được từ xã hội một số lượng sản phẩm tiêu
dùng có giá trị tương đương số lượng,chất lượng và hiệu quả lao động của họ đã tạo ra cho xã hội, sau khi
đã trừ đi một số khoản đóng góp chung cho xã hội. Nguyên tắc phân phối này là phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển lực lượng sản xuất trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những cơ
sở của công bằng xã hội ở giai đoạn này.
4. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu
sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân
Khi đề cập đến hệ thống chuyên chính vô sản, chủ nghĩa Mác-Lênin đã xác định rõ bản chất, chức năng,
nhiệm vụ của nhà nước chuyên chính vô sản. Thực chất nhà nước đó là do đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo, nhân dân tổ chức ra. Thông qua nhà nước là chủ yếu mà đảng lãnh đạo toàn xã hội về mọi mặt và
nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi mặt của xã hội. Nhân dân ngày càng
tham gia nhiều vào công việc nhà nước, theo V.I. Lênin, nhà nước chuyên chính vô sản (hay nhà nước xã
hội chủ nghĩa) không còn nguyên nghĩa như nhà nước của chủ nghĩa tư bản, mà là "nhà nước nửa nhà
nước", với tính tự giác, tự quản của nhân dân rất cao, thể hiện các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của
chính mình ngày càng rõ hơn.
5. Xã hội xã hội chủ nghĩa là chế độ đã giải phóng con người thoát khỏi áp bức bóc lột, thực hiện công
bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều kiện cơ bản để con người phát triển toàn diện


Việc giành chính quyền, độc lập, tự do, dân chủ - giải phóng con người về chính trị suy cho cùng cũng là
để giải phóng con người về kinh tế, về đời sống vật chất và tinh thần. Dù lúc đầu mới có chính quyền, trình
độ kinh tế, mức sống vật chất của nhân dân còn thấp, nhưng đã bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội là đã
không còn chế độ tư hữu, áp bức bất công với tư cách một chế độ xã hội. Đây là những tiền đề chính trị,
kinh tế khác về bản chất so với các chế độ cũ để từng bước thực hiện việc giải phóng con người và phát
triển con người toàn diện. Không có những tiền đề cơ bản đó không thể giải phóng con người, không thực
hiện được công bằng, bình đẳng, tiến bộ và văn minh xã hội... Nói bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội, là nói
trong điều kiện, giai đoạn xã hội vẫn còn giai cấp, còn nhà nước, trước hết bình đẳng giữa các công dân,
giữa các chủ thể sản xuất - kinh doanh (dù họ ở thành phần kinh tế nào...) trước pháp luật chung của nhà

nước; bình đẳng nam - nữ, bình đẳng giữa các dân tộc và đoàn kết toàn dân tộc, v.v..
CÂU 13: những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ XHCN
- Bản chất của nền dân chủ XHCN, là nền dân chủ mang bản chất của GCCN, là chế độ dân chủ bảo đảm
quyển làm chủ thực tế của nhân dân lao động trong đời sống kinh tế- xã hội đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản và quản lý của Nhà nước XHCN.
- Đặc trưng của nền dân chủ XHCN được thể hiện trên các mặt sau:
+ Với tư cách là một chế độ nhà nước được sáng tạo bởi quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản, dân chủ XHCN đảm bảo mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
+ Nền dân chủ XHCN có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội.
+ Trên cơ sở sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội, nền dân chủ
XHCN có sức động viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực của nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng xã hội mới.
+ Nền dân chủ XHCN là nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử nhưng vẫn là nền dân chủ mang tính giai
cấp
+ Nền dân chủ XHCN không ngừng được mở rộng cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội; hoàn thiện hệ
thống pháp luật, cơ chế hoạt động và trình độ dân trí.
- nền dân chủ XHCN mang bản chất g/c công nhân điều đó được thể hiện ở những điểm sau:
+ dân chủ vơi tuyệt đại đa số nhân dân lao đông nhưng ko dân chủ với kể thù và những kẻ chống lại pháp
luật XHCN
+ nền dân chủ XHCN đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân lao động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
XH,KT,CT.......
+ nền dân chủ XHCN găn liền với kỉ luật ,kỉ cương, quyền lợi gắn với nghĩa vụ ,trách nhiệm của công dân
*chú ý: Vì quyền lợi của giai cấp công nhân thống nhất với quyền lợi của nhân dân lao động và của dân tộc
nên khi nói dân chủ XHCN mang bản chất của g/c công nhân cũng có nghĩa là nền dân chủ XHCN mang
tính nhân dân và tính dân tộc
- Nền dân chủ XHCN có cơ sở KH là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu được quyền lực của
nhân dân nền dân chủ XHCN mới được đảm bảo (trên cơ sở chế độ công hữu về các tư liệu sản xuát chủ
yếu ) lao động trên tất cả các lĩnh vực đời sống
- Trên cơ sở sự kết hợp hài hòa lợi ích của cá nhân, lợi ích tập thể vợi lợi ích của toàn xã hội nền dân chủ
XHCN có sức động viên thu hút mọi tiềm năng sáng tạo tính tích cực của nhân dân trong sự nghiệp xây

dựng XH mới.
Câu 14Trình bày những đặc trưng và chức năng, nhiệm vu, của nhà nước XHCN?
- Đặc trưng của nhà nước XHCN.
+ Nhà nước XHCN không phải là công cụ đàn áp một giai cấp, mà nhà nước XHCN thực hiện một chính
sách giai cấp vì lợi ích của tất cả những người lao động, duy trì vai trò lãnh đạo của GCCN thông qua
chính đảng của nó đối với xã hội.
+ Nhà nước XHCN là công cụ chuyên chính của GCCN, nhưng vì lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân lao
động, thực hiện trấn áp những kẻ chống đối phá hoại sự nghiệp cách mạng XHCN.
+ Trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải bạo lực trấn áp, nhà nước XHCN vẫn coi trọng chức xây dựng là
đặc trưng cơ bản, của chuyên chính vô sản.
+ Nhà nước XHCN nằm trong nền dân chủ XHCN vận động theo con đường: ngày càng hoàn thiện các
hình thức đại diện nhân dân, mở rộng dân chủ nhằm lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào
quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
- Chức năng của nhà nước: nhà nước XHCN có 2 chức năng cơ bản:


+ Chức năng bạo lực trấn áp: Bạo lực trấn áp là: Nhà nước dùng các công cụ bạo lực của mình như quân
đội, cảnh sát, nhà tù…nhằm răn đe, chấn áp, cưỡng bức những phần tử chống đối xâm phạm đến quyền lợi,
lợi ích của GCCN và nhân dân lao động; chống lại sự xâm lược của kẻ thù từ bên ngoài
+ Chức năng tổ chức xây dựng là cơ bản, nó được biểu hiện: Xây dựng về kinh tế; Xây dựng về xã hội;
xây dựng về văn hoá..
- Nhiệm vụ của nhà nước:
+ Xây dựng và phát triển kinh tế XHCN có lực lượng sản xuất hiện đại, quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất, có nền khoa học tiên tiến, hiện đại. Quản lý văn hoá và xây dựng nền văn
hoá mới, con người mới...
+ Chấn áp những phần tử chống dối, kẻ thù xâm lược bảo vệ thành quả cách mạng, bảo về tổ quốc XHCN
+ Xây dựng Đảng cộng sản vững mạnh về tư tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng.
+Thi hành các chính sách đối ngoại phù hợp.
câu 15

Chủ nghĩa Mác-Lênin với tư cách là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, là nền tảng tư tưởng và giữ
vai trò chủ đạo quyết định phương hướng phát triển nội dung của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Vai trò chủ
đạo của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là điều kiện quyết định đưa nhân dân
lao động thực sự trở thành chủ thể tự giác và hưởng thụ văn hoá của xã hội mới. Đặc trưng này phản ánh
bản chất giai cấp công nhân và tính đảng của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.
Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. Trong tiến trình
cách mạng xã hội chủ nghĩa, hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá không còn là đặc quyền, đặc lợi của
thiểu số giai cấp bóc lột. Công cuộc cải biến cách mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội từng bước tạo ra tiền đề vật chất và tinh thần để đông đảo nhân dân tham gia xây dựng nền
văn hoá mới và hưởng thụ những giá trị của nền văn hoá đó.
Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua tổ chức Đảng
Cộng sản và quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết
định trước tiên đối với việc xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa không
hình thành và phát triển một cách tự phát, trái lại, nó phải được hình thành và xây dựng một cách tự giác,
có sự quản lý của Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Mọi sự coi nhẹ hoặc phủ nhận vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản và vai trò quản lý của Nhà nước đối với đời sống tinh thần của xã hội, đối với nền
văn hoá xã hội chủ nghĩa sẽ dẫn đến làm mất phương hướng chính trị của nền văn hoá- nền tảng tinh thần
của xã hội.
*Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa
a) Xuất phát từ tính triệt để, toàn diện của cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải thay đổi phương thức
sản xuất tinh thần, làm cho phương thức sản xuất tinh thần phù hợp với phương thức sản xuất mới của xã
hội xã hội chủ nghĩa.
b) Xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình cải tạo tâm lý, ý thức và đời sống tinh
thần của chế độ cũ để lại nhằm giải phóng nhân dân lao động thoát khỏi ảnh hưởng tư tưởng, ý thức của xã
hội cũ lạc hậu. Mặt khác, xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa còn là một yêu cầu cần thiết trong việc
đưa quần chúng nhân dân thực sự trở thành chủ thể sản xuất và tiêu dùng, sáng tạo và hưởng thụ văn hoá
tinh thần.
c) Xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình nâng cao trình độ văn hoá cho quần
chúng nhân dân lao động, khắc phục tình trạng thiếu hụt văn hóa. Đây là điều kiện cần thiết để đông đảo
nhân dân lao động chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, nâng cao trình độ và nhu cầu văn hoá của quần chúng.

d) Xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là tất yếu xuất phát từ yêu cầu khách quan: văn hoá vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
câu 16 Nội dung và phương thức xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa
a. Những nội dung cơ bản của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa
Nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức của xã hội mới. Xây dựng nền văn hoá xã hội
chủ nghĩa trên cái nền của văn hoá tư sản, dựa vào vật liệu của chủ nghĩa tư bản đem lại mà yếu tố quan
trọng nhất là con người. Chủ nhân của xã hội mới là công nhân và nông dân. Trong các chế độ cũ, họ
không được hưởng thụ những giá trị văn hoá, không được chăm lo về giáo dục. Vì vậy, mặc dù họ là
những người hăng hái đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội, muốn nhanh chóng xây dựng xã hội mới tốt đẹp
nhưng họ lại chưa có đủ học thức, không có trình độ văn hoá cần thiết để làm việc đó, V.I.Lênin cho rằng


người mù chữ đứng ngoài chính trị. Do đó, nâng cao dân trí là điều kiện không thể thiếu để xây dựng nền
dân chủ xã hôi chủ nghĩa, để quần chúng có nhận thức đúng và tham gia trực tiếp vào quản lý nhà nước.
Xây dựng con người mới phát triển toàn diện. Con người là sản phẩm của lịch sử nhưng đồng thời
con người cũng chính là chủ thể quá trình phát triển của lịch sử. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
Lênin xem việc đào tạo con người mới với tư cách là chủ thể sáng tạo có ý thức của xã hội mới- xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, là một yêu cầu tất yếu. Do đó, xây dựng con người mới là một trong những
nội dung cơ bản của việc xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.
Con người mới xã hôị chủ nghĩa là con người phát triển toàn diện. Những con người ấy thể hiện một mẫu
nhân cách sống có lý tưởng, sống có trách nhiệm với công việc, với xã hội, với mọi người và với chính
mình. Họ phải là những người có học thức, có niềm tin khoa học, có năng lực hoạt động sáng tạo, làm việc
với tính tổ chức, tính kỷ luật cao, đấu tranh cho lẽ phải, chân lý, cho sự công bằng, bình đẳng, dân chủ. Đó
là những con người có sự phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, sự phong phú về đời sống tinh
thần.
Xây dựng lối sống mới xã hội chủ nghĩa. Lối sống là dấu hiệu biểu thị sự khác biệt giữa những cộng
đồng người khác nhau; là tổng thể các hình thái hoạt động của con người, phản ánh điều kiện vật chất, tinh
thần và xã hội của con người; là sản phẩm tất yếu của một hình thái kinh tế-xã hội và có tác động đến hình
thái kinh tế-xã hội đó. Lối sống mới xã hội chủ nghĩa là một đặc trưng có tính nguyên tắc của xã hội xã hội
chủ nghĩa và việc xây dựng lối sống mới tất yếu trở thành một nội dung của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.

Lối sống mới xã hội chủ nghĩa được xây dựng, hình thành trên những điều kiện cơ bản của nó, đó là chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, trong đó sở hữu toàn dân giữ vai trò chủ đạo; nguyên tắc phân phối theo lao
động; quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; chủ nghĩa Mác Lênin giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh
thần của xã hội v.v.
Xây dựng gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa. Nếu văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo ra nhằm thoả mãn những nhu cầu của mình, thì gia đình là một giá trị văn hoá
của xã hội. Văn hoá gia đình luôn gắn bó, tương tác với văn hoá cộng đồng, dân tộc, giai cấp và tầng lớp
xã hội trong mỗi thời kỳ nhất định của một quốc gia dân tộc nhất định. Do đó, có thể quan niệm, gia đình
là một hình thức tổ chức cơ bản trong đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế văn hoá - xã hội
đặc thù được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở quan hệ hôn nhân, huyết thống và quan hệ nuôi
dưỡng, giáo dục giữa các thành viên.
Gia đình văn hoá xã hội chủ nghĩa được từng bước xây dựng cùng với tiến trình phát triển của cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và xã hội (gia đình được xem là
tế bào của xã hội), có thể nói, thực chất của việc xây dựng gia đình văn hoá là nhằm góp phần xây dựng
nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.
Gia đình văn hoá là gia đình được xây dựng, tồn tại và phát triển trên cơ sở giữ gìn và phát huy giá trị văn
hoá tốt đẹp của dân tộc, xoá bỏ những yếu tố lạc hậu, những tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình kiểu
cũ, đồng thời tiếp thu những giá trị tiến bộ của nhân loại về gia đình.
Gia đình văn hoá mới xã hội chủ nghĩa là gia đình tiến bộ, đánh dấu bước phát triển của cac hình thức gia
đình trong lịch sử nhân loại. Xây dựng gia đình văn hoá mới xã hội chủ nghĩa đem lại lợi ích cho cả cá
nhân và xã hội. Con người mới của xã hội mới khi tạo dựng cho hạnh phúc gia đình cũng là góp phần cho
sự phát triển của xã hội. Với ý nghĩa đó, xây dựng gia đình văn hoá mới trở thành nội dung quan trọng của
việc xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa, là sự thể hiện tính ưu việt của nền văn hoá ấy so với các nền
văn hoá trước đó.
b. Phương thức xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa
1) Giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trong đời sống tinh thần
của xã hội. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp cầm
quyền, phải bằng mọi biện pháp thông qua các nhà tư tưởng và các thiết chế tư tưởng của mình để tác
động, chi phối các quan hệ tư tưởng, quá trình tư tưởng nhằm giữ vững, tăng cường vai trò chủ đạo của hệ
tư tưởng của mình trong đời sống tinh thần xã hội bởi vì, như chủ nghĩa Mác Lênin đã khẳng định, những

tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống trị.
Xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là hoạt động có mục đích của giai cấp công nhân thông qua Đảng
cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhằm xây dựng và phát triển hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa- hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội. Do đó, giữ vững và tăng cường vai
trò chủ đạo của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trong đời sống tinh thần xã hội là phương thức quan
trọng để xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Đây là phương thức cơ bản để giữ vững đặc trưng, bản
chất của nền văn hoá đó.


2) Không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và vai trò quản lý của Nhà nước đối với hoạt
động văn hoá. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và quản lý của Nhà nước đối với mọi hoạt động văn hoá là
vấn đề có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa. Đây là sự đảm bảo về chính trị, tư tưởng để nền văn hoá xây dựng trên nền tảng của hệ tư tưởng của
giai cấp công nhân đi đúng quỹ đạo và mục tiêu xác định. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa MácLênin thực chất đây là sự tăng cường chuyên chính vô sản trong hoạt động văn hoá.
Đảng lãnh đạo xây dựng nền văn hoá bằng cương lĩnh, đường lối, chính sách văn hoá của mình và sự lãnh
đạo của Đảng phải được thể chế hoá trong hiến pháp, pháp luật, chính sách. Nhà nước thực hiện quản lý
văn hoá theo đúng các nguyên tắc, quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản.
3) Xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa phải theo phương thức kết hợp việc kế thừa những giá trị trong
di sản văn hoá dân tộc với tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hoá của nhân loại. Trong tư tưởng của
các nhà kinh điển nền văn hoá xã hội chủ nghĩa phải được xây dựng trên cơ sở kế thừa, tiếp thu có chọn
lọc những giá trị văn hoá dân tộc cũng như của nhân loại, đặc biệt là những thành quả mà chủ nghĩa tư bản
đã tạo ra. Nhiệm vụ mà các nhà kinh điển đặt ra cho giai cấp vô sản là phải tiếp thu và cải biến toàn bộ di
sản văn hoá truyền thống và thành tựu của văn minh nhân loại. Đó là điều kiện tiên quyết để tạo nên những
giá trị văn hoá mới trong nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.
Sự gắn kết giữa giữ gìn, kế thừa văn hoá dân tộc, tiếp thu giá trị văn hoá nhân loại với quá trình sản sinh
giá trị mới, tạo nên sự thống nhất biện chứng của hai mặt giữ gìn và sáng tạo văn hoá. Đây được coi là
phương thức nhằm xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa phong phú, đa dạng.
4) Tổ chức và lôi cuốn quần chúng nhân dân vào các hoạt động và sáng tạo văn hoá. Trong tiến trình cách
mạng xã hội chủ nghĩa nhân dân lao động đã trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hoá. Tuy nhiên,
để phát huy tối đa tính chủ động, sáng tạo của quần chúng, Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải tổ

chức nhiều phong trào nhằm lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia vào các hoạt động và sáng tạo văn hoá.
Câu 17Cơ sở để giải quyết vấn đề dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin trong chủ nghĩa xã hội.
-Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác, thực tiễn hai xu hướng phát triển khách quan của vấn đề dân tộc
trên thế giới và cách mạng nước Nga, Lênin đã đề ra cương lĩnh giải quyết vấn đề dân tộc.
- Cương lĩnh dân tộc của Lênin:
+ các dân tộc hoàn toàn bình đẳng. Tất cả các dân tộc, dù đông người hay ít người, có trình độ phát triển
cao hay thấp đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau, không có đặc quyền đặc lợi về kinh tế, chính trị,
văn hoá, ngôn ngữ cho bất cứ dân tộc nào
Trong một quốc gia dân tộc quyền bình đẳng dân tộc phải được pháp luật thừa nhận, trong đó việc khắc
phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ
bản. Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân
biệt chủng tộc, chủ nghĩa sô vanh nước lớn, chống áp bức, bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với
các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế. Cổ vũ tinh thần đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống
CNĐQ giành độc lập dân tộc.
+ Các dân tộc được quyền tự quyết: Đó là quyền làm chủ của mỗi dân tộc, quyền tự quyết định con đường
phát triển kinh tế, chính trị- xã hội của dân tộc mình; Quyền tự do phân lập thành cộng đồng quốc gia dân
tộc độc lập và quyền tự nguyện liên hiệp lại với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng.
Thực hiện quyền dân tộc tự quyết phải kiên quyết đấu tranh chống lại những mưu toan lợi dụng quyền dân
tộc tự quyết làm chiêu bài để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, đòi ly khai chia rẽ dân tộc.Ủng
hộ quyền tự quyết là không can thiệp vào công việc nội bộ của dân tộc khác.
+ Liên hiệp công nhân các dân tộc lại: Đây là nguyên tắc tối cao để giải quyết vấn đề dân tộc dưới CNXH
vì: xuất phát từ nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN là sứ mệnh lịch sử thế giới; kẻ thù của GCCN là
GCTS quốc tế. Do vậy, đoàn kết quốc tế tạo nên sức mạnh đảm bảo cho thắng lợi của GCCN và các dân
tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa đế quốc.
Nội dung: GCCN tất cả các dân tộc phải thiết lập mối quan hệ chặt chẽ phong trào đấu tranh của GCCN
nước mình với phong trào đấu tranh của GCCN thế giới; kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước chân
chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản; cùng nhau đoàn kết để đấu tranh thực hiện mục tiêu của thời đại đó là
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH
câu 18Trình bày lý do tôn giáo còn tồn tại trong CNXH
Trong CNXH tôn giáo vẫn còn tồn tại, nhưng có những chuyển biến quan trọng, do những nguyên nhân

sau:


- Nguyên nhân nhận thức: Trong tiến trình xây dựng CNXH và trong XH-XHCN vẫn còn những hiện
tượng tự nhiên, xã hội và của con người mà khoa học chưa lý giải được, trong khi đó trình độ dân trí của
nhân dân lại vẫn chưa được thực sự nâng cao. Do đó trước sức mạnh tự phát của giới tự nhiên và xã hội mà
con người vẫn chưa thể nhận thức và chế ngự được đã khiến cho một bộ phận nhân dân đi tìm sự an ủi, che
chở và lý giải chúng bằng sức mạnh thần linh
- Nguyên nhân kinh tế: Trong tiến trình xây dựng CNXH nền kinh tế vẫn còn nhiều thành phần kinh tế với
các lợi ích khác nhau của các giai cấp tầng lớp xã hội, sự bất bình đẳng về kinh tế, văn hoá, xã hội vẫn diễn
ra. Do đó, những yếu tố may rủi, ngẫu nhiên vẫn tác động mạnh mẽ đến con người, làm cho con người rễ
trở lên thụ động với tư tưởng nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.
- Nguyên nhân tâm lý: Tín ngưỡng tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử nhân loại trở thành niềm tin,
lối sống, phong tục tập quán, tình cảm của một bộ phận đông đảo quần chúng nhân dân lao động qua nhiều
thế hệ. Bởi vậy, cho dù tiến trình xây dựng CNXH và trong XH-XHCN có những biến đổi mạnh mẽ về
kinh tế - xã hội, thì tôn giáo cũng sẽ không thể biến đổi ngay cùng với tiến độ của những biến đổi kinh tế xã hội mà nó phản ánh. –
- Nguyên nhân chính trị - xã hội: Xét về mặt giá trị, có những nguyên tắc của tôn giáo là phù hợp với
CNXH, với chủ trương, đường lối, chính sách của nhà nước XHCN. Đó là những giá trị đạo đức, văn hoá
với tinh thần nhân đạo, hướng thiện…đáp ứng được nhu cầu của một bộ phận quần chúng nhân dân. Chính
vì vậy ở một chừng mực nào đó, tôn giáo có sức thu hút mạnh mẽ đối với một bộ phận nhân dân.
- Nguyên nhân văn hoá: Trong thực tế sinh hoạt văn hoá xã hội, sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo đã đáp ứng
được phần nào nhu cầu văn hoá tinh thần của cộng đồng xã hội và trong một mức độ nhất định, có ý nghĩa
giáo dục ý thức cộng đồng, phong cách, lối sống của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Những sinh hoạt văn
hoá có tính chất tín ngưỡng, tôn giáo ấy đã lôi cuốn một bộ phận quần chúng nhân dân xuất phát phát từ
nhu cầu văn hoá tinh thần, tình cảm của họ.
Câu 19Nguồn gốc của tôn giáo
Nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo
+ Trong xã hội CSNT, do trình độ LLSX thấp kém con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên
rộng lớn và bí ẩn, vì vậy họ đã gắn cho TN những sức mạnh, quyền lực to lớn bí ẩn, thần thánh hóa những
sức mạnh đó. Từ đó họ xây dựng nên những biểu tượng tôn giáo để thờ cúng.

+ Khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng, con người cảm thấy bất lực trước sức mạnh của thế lực giai
cấp thống trị. Họ không giải thích được nguồn gốc của sự phân hóa giai cấp và áp bức bóc lột, tội ác, vv,...
tất cả họ quy về số phận và định mệnh. Từ đó, họ đã thần thánh hóa một số người thành những thần tượng
có khả năng chi phối suy nghĩ và hành động người khác mà sinh ra tôn giáo.
Như vậy sự yếu kém về trình độ phát triển của LLSX, sự bần cùng về kinh tế, áp bức về chính trị, bất lực
trước những bất công của xã hội là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.
- Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo:
Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự nhiên, xã hội và bản thân mình còn giới
hạn. Mặt khác trong tự nhiên và xã hội có nhiều điều khoa học chưa khám phá và giải thích được nên con
người lại tìm đến với tôn giáo. Sự nhận thức của con người có khi xa rời hiện thực, thiếu khách quan dễ rơi
vào ảo tưởng, thần thánh hóa đối tượng.
- Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo:
Do sự sợ hãi, lo âu của con người trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội mà dẫn đến việc sinh ra tôn giáo.
Tín ngưỡng tôn giáo đáp ứng đủ nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Góp phần bù đắp những hẫm
hụt trong đời sống nỗi trống vắng trong tâm hồn, an ủi vỗ về, xoa dịu cho các số phận sa cơ, lỡ vận. Vì thế
dù chỉ là hạnh phúc hư ảo nhưng nhiều người vẫn tin vẫn bám víu vào.
* Nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo:
+ Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội phải gắn liền với quá trình
cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
+ Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, nhà nước XHCN phải đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng cho mọi công dân. Cần phát huy những giá trị tích cực của
tôn giáo, nghiêm cấm mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
+ Thực hiện đoàn kết những người có tôn giáo với những người không có tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo,
đoàn kết những người theo tôn giáo với những người không theo tôn giáo, đoàn kết dân tộc xây dựng và
bảo vệ đất nước.


+ Phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong vấn đề tôn giáo: Mặt tư tưởng là mâu thuẫn trong nội bộ
nhân dân, giữa người theo tôn giáo với người không theo và giữa các tôn giáo với nhau. Mâu thuẫn này
chúng ta phải khắc phục dần dần cùng với quá trình cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.Phải thường

xuyên chống lại những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan….
Mặt chính trị là thể hiện mâu thuẫn địch ta, giữa những kẻ lợi dụng tôn giáo của những phần tử phản động
nhằm chống lại sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh với nó là nhiệm vụ
thường xuyên, vừa khẩn trương, kiên quyết, vừa phải thận trọng và có sách lược phù hợp với thực tế.
- Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có đạo. Phải có quan điểm lịch sử- cụ thể khi giải
quyết vấn đề tôn giáo. Chống tuyên chiến với tôn giáo.
câu 20 Nêu những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực
Cho dù lịch sử thế giới có biến động như thế nào, dù ai cố tình xuyên tạc lịch sử cũng không thể phủ
nhận được những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực trong quá trình tồn tại và phát triển của mình.
Chế độ XHCN đã từng bước đưa nhân dân lao động lên làm chủ xã hội, thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho
quyền tự do dân chủ trên toàn thế giới
Trong hơn bảy mươi năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt
được sự phát triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất của CNXH trên quy mô lớn với
trình độ hiện đại, đảm bảo ngày càng tốt hơn đời sống vật chất tinh thần của nhân dân:Đã xây dựng được
một hệ thống giá trị riêng của mình, đã phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao trình độ sản xuất gấp nhiều
lần so với trước cách mạng: Trước năm 1917, Nga là nước tư bản trung bình, đúng thứ 5 thế giới về sản xuất
công nghiệp. Sau 20 năm cách mạng (1937) tổng sản lượng công nghiệp Liên Xô vươn lên đứng đầu Châu
Au và thứ 2 trên thế giới, chỉ sau Mỹ.Từ năm 1961 - 1970, GDP của Liên Xô tăng bình quân 8,5% /năm.
Tính đến năm 1960, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới gồm 13 nước, với dân số 1 tỷ người (toàn thế giới là
3 tỷ người), GDP của các nước xã hội chủ nghĩa chiếm khoảng 1/3 của thế giới.
Đã xóa bỏ về cơ bản chế độ người bóc lột người.
Đã thực hiện một chế độ phúc lợi xã hội và giáo dục, văn hóa, y tế ... cho toàn dân. Trước cách mạng
tháng Mười, ¾ nhân dân Nga mù chữ, chỉ sau 20 năm, nạn mù chữ đã xóa xong. Cuối năm 1980, Liên Xô
là một trong những nước có trình độ học vấn cao nhất thế giới( 164 triệu người có trình độ trung học và đại
học, số lượng các nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực đứng vào hàng đầu thế giới)
- Đã đi đầu trong lĩnh vực chinh phục vũ trụ:1957: Liên Xô phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên trên thế
giới. 1961: Phóng con tàu vũ trụ đầu tiên có người điều khiển. 1986: Chế tạo trạm không gian đầu tiên trên
vũ trụ.
Với sự lớn mạnh của hệ thống XHCN có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống chính trị thế giới, đóng vai
trò quyết định đối với sự sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ

nguyên độc lập dân tộc và thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Sức mạnh của CNXH hiện thực đóng vai trò quyết định đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hủy diệt, bảo vệ
hòa bình thế giới.
Ngay tại các nước phương Tây, nhân dân lao động được sức hấp dẫn thực tế của CNXH đã đấu tranh
đòi quyền dân sinh, dân chủ, các phúc lợi xã hội...Với sức ép của các nước XHCN các nước phương Tây
đã phải nhượng bộ và chấp nhận thực tế rất nhiều chính sách đó



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×