Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

LV Thạc sỹ_tổ chức kế toán quản trị tại công ty cổ phần chứng khoán quốc tế hoàng gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.43 KB, 98 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Kế toán quản trị

:KTQT

Kế toán tài chính

:KTTC

Kiểm soát nội bộ

:KSNB

Kiểm toán nội bộ

:KTNB

Công ty chứng khoán

:CTCK

Tài khoản

:TK

Công ty cổ phần chứng khoán Quốc tế :Công ty IRS
Hoàng Gia
Hội đồng quản trị



: HĐQT

Ủy ban chứng khoán Nhà nước

:UBCKNN


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, PHỤ LỤC
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ
ràng.


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của Quý thầy cô trường đại học
Kinh tế Quốc dân.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn đến quý thầy cô trường đại học Kinh
tế Quốc dân, đặc biệt là những thầy cô đã tận tình dạy bảo tôi trong suốt thời
gian học tập tại trường.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ ….. đã dành rất nhiều thời gian
và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Nhân đây, tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường đại học
Kinh tế Quốc dân đã tạo rất nhiều điều kiện để tôi học tập và hoàn thành tốt khóa
học.
Đồng thời, tôi cũng xin cảm ơn Ban lãnh đạo và tập thể cán bộ nhân viên
tại công ty cổ phần chứng khoán Quốc tế Hoàng Gia đã tạo điều kiện cho tôi
điều tra, khảo sát và cung cấp số liệu để tôi hoàn thành luận văn này.

Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng để hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự
nhiệt tình và năng lực của mình, tuy nhiên cũng không thể tránh khỏi những
thiếu sót, rất mong nhận được những đóng góp quý báu của Quý thầy cô và các
bạn.


5

CHƯƠNG 1

1.1

GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Tính cấp thiết của đề tài

Trong nền kinh tế mở cửa các doanh nghiệp xuất hiện cùng với sự lớn
mạnh về quy mô, cơ cấu, bên cạnh đó cũng tồn tại sự lớn mạnh về sức cạnh
tranh. Để đáp ứng nhu cầu thị trường ngày một rộng lớn, các nhà quản trị phải có
chiến lược hoạch định một cách lâu dài, khoa học. Nền tảng cơ bản nhất để
doanh nghiệp giữ vững và phát triển vị thế của mình trên thị trường chính là
KTQT. Kế toán là công cụ quan trọng để quản lý vốn, tài sản và điều hành hoạt
động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Đồng thời là tài liệu tin cậy để
Nhà nước điều hành vĩ mô nền kinh tế; kiểm tra, kiểm soát và đánh giá hoạt
động kinh doanh của các ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân.
Để phù hợp với yêu cầu của sự phát triển, hệ thống thông tin kế toán phải
được tổ chức tốt để cung cấp các thông tin đáp ứng nhu cầu bên trong và bên
ngoài doanh nghiệp; cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý nhà nước, những
nhà đầu tư, ngân hàng, lãnh đạo doanh nghiệp,… Bên cạnh các thông tin khái
quát, tổng hợp về tình trạng và sự biến đổi về tài sản, cơ cấu nguồn vốn, tình
hình nợ, các khoản phải nộp, kết quả hoạt động kinh doanh và phân phối kết quả

hoạt động kinh doanh…đã được KTTC cung cấp, các nhà quản trị doanh nghiệp
cần tổ chức tốt công tác KTQT nhằm xây dựng dự toán, thu thập và xử lý các
thông tin về chi phí, giá thành, thu nhập và kết quả…của từng nhóm sản phẩm,
sản phẩm đánh giá trách nhiệm quản lý của các bộ phận; tiến hành phân tích kịp
thời các thông tin làm cơ sở cho việc đề ra các giải pháp, quyết định đúng đắn để
đối phó kịp thời với những diễn biến của thị trường và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực của doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, kể từ năm 1996 đã chính thức áp dụng chế độ kế toán mới đã
có thay đổi cơ bản so với hệ thống kế toán trước đây, đã tiếp cận những thông lệ,
chuẩn mực của kế toán quốc tế và bao gồm một số nội dung của KTQT. Tuy
nhiên, mới chỉ thỏa mãn phần lớn nhu cầu thông tin theo quy địn của Bộ Tài


6

chính nhằm đáp ứng chủ yếu yêu cầu quản lý của Nhà nước đối với hoạt động tài
chính kế toán của doanh nghiệp.
Với yêu cầu thực tiễn và lý luận, công tác KTQT trong doanh nghiệp cần
phải xem xét, nhìn nhận đúng vị trí và vai trò của nó nhằm hoàn thiện các công
cụ quản lý kinh tế - tài chính doanh nghiệp, đáp ứng những đòi hỏi trong điều
kiện sản xuất kinh doanh mới.
Một thực tế hiện nay cho thấy, các doanh nghiệp chưa thực sự chú trọng
đến KTQT đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán.
Do vậy, tổ chức tổ chức KTQT trong doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán là
rất cần thiết. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài: “Tổ chức kế toán quản trị tại Công ty cổ
phần chứng khoán Quốc tế Hoàng Gia” làm luận văn thạc sĩ của mình.
1.2

Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài nghiên
cứu


KTQT là một vấn đề khá mới mẻ ở nước ta nhưng vai trò của nó thì vô cùng
quan trọng trong việc quản lý doanh nghiệp. Thực tế cũng có nhiều luận văn đề
cập đến vấn đề KTQT mỗi luận văn đều đưa ra được những đóng góp nhất định
trong việc giải quyết các vấn đề thực tiễn phát sinh đồng thời đưa ra những đề
xuất nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống KTQT ở các doanh nghiệp.
Để học hỏi được những kinh nghiệm của các đề tài trước, đồng thời khắc
phục những nhược điểm của các đề tài đó nhằm tự hoàn thiện đề tài bản thân cá
nhân tôi tự nghiên cứu, tôi xin được tổng quan một số công trình nghiên cứu có
liên quan đến đề tài nghiên cứu như sau:
Theo đề tài “Hoàn thiện mô hình tổ chức KTQT trong các doanh nghiệp sản
xuất, kinh doanh xe máy” do tác giả Lê Thị Hồng nghiên cứu năm 2004 thì tác
giả nêu rõ được thực trạng tổ chức công tác KTQT tại công ty Yamaha Việt Nam
chỉ ra những ưu điểm như: Công ty đã quy định rõ ràng trình tự, phương pháp
luân chuyển quản lý và xử lý chứng từ kế toán, đồng thời việc vận dụng hệ thống
TK kế toán thống nhất, các TK chi phí, doanh thu, phải trả, tài sản cố định đều
được chi tiết theo mục đích sử dụng và quản lý theo yêu cầu của KTQT. Bộ máy
kế toán thiết kế hợp lý vừa thu thập xử lý và cung cấp thông tin theo yêu cầu của
nhà quản trị nhưng bên cạnh những ưu điểm trên thì tác giả cũng chỉ ra một số


7

nhược điểm như chứng từ kế toán không đồng nhất, TK KTQT dùng nhiều TK
trung gian không cần thiết gây bất cập trong làm việc và hạch toán sổ sách
KTQT. Trong báo cáo quản trị có trình bày một số chỉ tiêu không cần thiết gây
nhiễu loạn thông tin khó cho nhà quản trị ra quyết định.
Khi đã chỉ được ra những mặt hạn chế của công ty trong việc tổ chức KTQT
tác giả đã chỉ ra một số phương án nhằm hoàn thiện mô hình tổ chức KTQT
trong công ty như hoàn thiện hệ thống chứng từ kế toán, đối với các nghiệp vụ

kinh tế phát sinh đòi hỏi phải phản ánh chi tiết, cụ thể thì ngoài việc sử dụng
chứng từ kế toán ghi chép chung của KTTC và KTQT thì có thể chi tiết hoặc
tách riêng. Hoàn thiện hệ thống sổ sách KTQT, sổ sách kế toán quản trị cần được
xây dựng nhất quán, chi tiết cụ thể đối với từng khoản mục chi phí cũng như
doanh thu, cần phân định rõ sổ sách quản trị với sổ sách tài chính. Hoàn thiện
báo cáo quản trị, báo cáo quản trị cần lập cho từng phân xưởng, bộ phận để thấy
được hiệu quả kinh doanh của từng bộ phận trong công ty. Qua đó có những
chính sách lương thưởng phù hợp với hiệu quả kinh doanh của từng bộ phận.
Với đề tài “Tổ chức KTQT chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp sản xuất
hàng may mặc trên địa bàn Hà Nội” của tác giả Đào Diệu Hằng nghiên cứu năm
2002. Trong phần lý luận chung tác giả cũng trình bày rõ những vấn đề lý luận
về KTQT nói chung và KTQT chi phí nói riêng. Khi tiến hàng nghiên cứu thực
trạng tổ chức KTQT chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp sản xuất hàng may
mặc trên địa bàn Hà Nội tác giả đánh giá những ưu điểm như tổ chức hệ thống
chứng từ tại các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc hợp lý, chặt chẽ. Hệ thống
sổ chi tiết khoa học giúp nhà quản lý quản lý tốt chi phí phát sinh. Báo cáo quản
trị hợp lý, đảm bảo quản lý có hiệu quả các yếu tố chi phí sản phẩm. Đồng thời
tác giả cũng chỉ ra những tồn tại cần phải khắc phục tại công ty như những thông
tin trên chứng từ hầu hết là những thông tin về chi phí thực tế, chưa phản ánh
được những thông tin về chi phí định mức hoặc dự toán chi phí sản phẩm. Hệ
thống TK kế toán chi tiết chưa phù hợp với việc phân tích chi phí theo định mức,
biến phí để từ đó tiến hành phân tích chênh lệch giữa chi phí thực tế với chi phí
định mức. Hệ thống sổ kế toán chi phí sản xuất được tổ chức thực hiện phục vụ
cho quản trị nội bộ chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý. Với những tồn tại trên
tại doanh nghiệp tác giả đã đưa ra một số phương hướng nhằm giải quyết những


8

vấn đề trên như tổ chức phân loại lại chi phí: phân loại chi phí theo cách ứng xử:

biến phí sản xuất và định phí sản xuất. Tổ chức lại bộ máy kế toán: quy định rõ
trách nhiệm của từng nhân viên trong phòng kế toán, kế toán trưởng có vai trò
tập hợp lại để tiến hành phân tích và đánh giá.
Trong luận văn tác giả Nguyễn Thị Hương nghiên cứu về “Hoàn thiện tổ
chức KTQT chi phí tại Tổng công ty xăng dầu Việt Nam” năm 2007 tác giả trình
bày thực trạng tổ chức KTQT chi phí tại Tổng công ty xăng dầu Việt Nam từ đó
nhận xét những ưu nhược điểm mà Tổng công ty xăng dầu Việt Nam đạt được.
Tác giả trình bày về hệ thống chứng từ kế toán chi phí, hệ thống TK và sổ sách
kế toán chi phí. Nội dung kế toán tập hợp chi phí đối với doanh nghiệp kinh
doanh xăng dầu. Qua đó tác giả cũng nêu bật lên về thực trạng lập báo cáo chi
phí tại doanh nghiệp cũng như việc lập dự toán chi phí là chưa hợp lý khi báo
cáo chi phí chưa thể hiện được chi phí định mức hoặc dự toán cho từng sản
phẩm, đơn hàng nên tác dụng để kiểm soát chi phí sẽ hạn chế. Từ thực tế như
trên tại doanh nghiệp tác giả trình bày một số phương hướng, giải pháp nhằm
hoàn thiện hơn nữa hệ thống tổ chức KTQT tại Tổng công ty xăng dầu Việt Nam
như tổ chức lại bộ máy kế toán: Mô hình tổ chức phù hợp với Việt Nam hiện nay
là mô hình kết hợp giữa KTTC và KTQT được tổ chức thành một hệ thống nhất
trong một bộ máy kế toán. Việc ghi chép, phản ánh, xử lý và truyền đạt thông tin
được tính đến cả mục đích của KTTC và KTQT nhằm thỏa mãn nhu cầu thông
tin kế toán cho cả đối tượng bên ngoài và bên trong doanh nghiệp. Tổ chức việc
phân loại chi phí phục vụ yêu cầu quản trị của doanh nghiệp cần phân loại chi
phí phát sinh trực tiếp, gián tiếp, chi phí cụ thể của từng phòng ban, bộ phận tại
doanh nghiệp. Đối với báo cáo chi phí ngoài báo cáo chung cho công ty nên có
báo cáo riêng cho từng phòng ban, bộ phận để qua đó nhà quản trị đánh giá được
hiệu quả hoạt động của từng phòng ban.
Với đặc thù kinh doanh của công ty là sản xuất- kinh doanh, chế biến, xuất
nhập khẩu lương thực thực phẩm, lúa mỳ, nông lâm, thủy hải sản,… nên khi tác
giả Lê Thị Ngọc Hà nghiên cứu đề tài “ Tổ chức công tác KTQT tại công ty cổ
phần đầu tư và xuất nhập khẩu Foodinco” năm 2008 đã thấy rằng công ty không
trực tiếp quản lý và theo dõi quá trình sản xuất sản phẩm mà được giao thẳng

cho các đơn vị sản xuất tự hạch toán chi phí và định giá thành nhưng công ty sẽ


9

phụ trách việc đầu ra cho các sản phẩm nên bên cạnh việc tác giả nghiên cứu và
chỉ ra một số ưu điểm về công tác tổ chức KTQT tại công ty cổ phần đầu tư và
xuất nhập khẩu Foodinco như tổ chức bộ máy kế toán theo mô hình phân tán sẽ
giảm tải được công việc và áp lực cho văn phòng tổng công ty phù hợp với đặc
điểm và hình thức quản lý của công ty. Tác giả cũng chỉ ra những nhược điểm
như tại Foodinco chưa có bộ máy quản trị riêng, thông tin KTQT chủ yếu lấy từ
mảng thông tin KTTC mà chưa có sự liên hệ với các phòng ban khác. Các mẫu
biểu báo cáo manh tính chồng chéo và chưa thực sự cần thiết cho nhà quản trị ra
quyết định. Tác giả đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ chức công tác KTQT tại
công ty cổ phần đầu tư và xuất nhập khẩu Foodinco là tổ chức kế toán theo mô
hình kết hợp giữa KTQT với KTTC, xây dựng các trung tâm trách nhiệm và các
chỉ tiêu đánh giá trung tâm trách nhiệm.
Theo đề tài “Tổ chức báo cáo KTQT trong các doanh nghiệp sản xuất” của
tác giả Đặng Thị Thu Hiền nghiên cứu năm 2005 thì về mặt lý luận tác giả chỉ ra
nghiên cứu, hệ thống hóa lý luận về KTQT, mối quan hệ giữa KTQT và KTTC,
kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết, góp phần làm sáng tỏ bản chất, nội dung và
phương pháp của KTQT chi phí (chủ yếu là CPSX) và giá thành trong các doanh
nghiệp nói chung và doanh nghiệp sản xuất nói riêng. Đồng thời giới thiệu một
số mô hình KTQT chi phí và giá thành tiêu biểu của một số nước trên thế giới.
Về mặt thực tiễn, thông qua nghiên cứu thực tiễn, đánh giá thực trạng nguyên
nhân những vấn đề tồn tại trong việc tổ chức KTQT chi phí và giá thành ở các
doanh nghiệp sản xuất ở nước ta. Tác giả đề xuất các giải pháp chủ yếu để xây
dựng, hoàn thiện KTQT chi phí (chủ yếu là chi phí sản xuất) như hoàn thiện hệ
thống định mức chi phí sản xuất, xây dựng mẫu định mức chi phí cho từng sản
phẩm, đơn hàng. Xây dựng các tiêu chuẩn phân bổ chi phí giúp nhà quản trị

kiểm soát được các biến phí các chi phí trực tiếp phát sinh.
Qua một số đề tài mà tác giả đã tổng quan ở trên thì về tổng thể các tác giả
của những luận văn trên đã đưa ra được những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn
nữa công tác tổ chức KTQT nói chung và tổ chức KTQT chi phí nói riêng ở mỗi
doanh nghiệp. Nhưng những giải pháp đó đôi khi mang nặng tính lý thuyết mà
chưa có tính thực tế cao. Chính vì vậy, tác giả muốn hoàn thiện hơn nữa trong đề


10

tài mình sẽ nghiên cứu dưới đây nhằm nâng cao tính khả thi cũng như hiệu quả
của những giải pháp giúp hoàn thiện công tác tổ chức KTQT tại doanh nghiệp.
1.3

Mục tiêu nghiên cứu

-

Hệ thống hóa các lý luận về KTQT trong các doanh nghiệp dịch vụ

-

Phân tích đánh giá thực trạng tình hình tổ chức KTQT tại công ty cổ phần
chứng khoán Quốc tế Hoàng Gia (IRS)

-

Thông qua việc nghiên cứu thực tiễn và nghiên cứu các mô hình tổ chức
KTQT trong nước nhằm đề xuất những phương hướng giải quyết để xây
dựng hoàn thiện hệ thống KTQT tại công ty cổ phần chứng khoán Quốc tế

Hoàng Gia (IRS).

1.4

Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng tổ chức KTQT tại công ty IRS ra sao?

-

Tổ chức KTQT tại công ty IRS cần hoàn thiện những nội dung gì?

-

Các giải pháp cụ thể để hoàn thiện tổ chức KTQT tại công ty IRS như thế
nào?

1.5

Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thực trạng tổ chức KTQT tại công ty IRS từ
tháng 01 đến tháng 12 năm 2011, từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện
tổ chức KTQT tại công ty IRS.

1.6

Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng nguồn số liệu thứ cấp và sơ cấp. Số liệu thứ cấp lấy từ các
báo cáo tài chính, sổ sách, dữ liệu có sẵn trong Công ty. Ngoài ra còn có
số liệu sơ cấp có được từ quá trình nghiên cứu thông qua phiếu điều tra,
phỏng vấn, quan sát.

Tác giả tiến hành phỏng vấn sâu ông Tổng Giám đốc Công ty cũng
như các thành viên trong Ban điều hành về việc tổ chức cũng như hoàn
thiện việc tổ chức KTQT tại công ty nhằm tìm hiểu tổng thể các hoạt động
của Công ty, nhu cầu sử dụng thông tin cần thiết như thế nào trong quá
trình ra quyết định. Bảng câu hỏi phỏng vấn phụ lục 01.


11

Ngoài ra tác giả còn vận dụng các phương pháp như: phương pháp
thu thập tổng hợp, phương pháp mô tả và khái quát đối tượng nghiên cứu,
phương pháp thống kê, phân tích và so sánh và các phương pháp khác.
Thông qua khảo sát thực tế để đánh giá thực trạng và rút ra những vấn đề
tồn tại để đưa ra các giải pháp giải quyết.
1.7

Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Qua quá trình phân tích thực trạng tổ chức KTQT tại công ty IRS
tác giả thấy được những ưu điểm cần được phát huy đồng thời cũng chỉ ra
những nhược điểm cũng như những tồn tại còn nan giải tại công ty từ đó
đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống tổ chức KTQT
tại công ty IRS.

1.8

Kết cấu của đề tài nghiên cứu
Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung luận văn gồm 4 chương:

-


Chương 1: Giới thiệu về đề tài nghiên cứu

-

Chương 2: Cơ sở lý luận về tổ chức KTQT trong các doanh nghiệp

-

Chương 3: Thực trạng tổ chức KTQT tại Công ty cổ phần chứng khoán
Quốc tế Hoàng Gia

-

Chương 4: Thảo luận kết quả nghiên cứu và các giải pháp đề xuất nhằm
hoàn thiện tổ chức KTQT tại công ty cổ phần chứng khoán Quốc tế Hoàng
Gia


12

CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC KẾ TOÁN QUẢN TRỊ TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP
2.1.
2.1.1.

Sự cần thiết, yêu cầu và nhiệm vụ tổ chức KTQT trong doanh nghiệp

Sự cần thiết tổ chức KTQT trong các doanh nghiệp của nền kinh tế thị
trường.

KTQT là một bộ phận cấu thành của hệ thống thông tin kế toán nói chung
trong các doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường nguyên nhân sự phát triển
của KTQT là do sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tập đoàn, quốc gia củ tổng
thể nền kinh tế. Nhưng trong bất kỳ một doanh nghiệp nào thì thong tin KTQT
với chức năng cơ bản là công cụ hữu hiệu để các cấp lãnh đạo đưa ra quyết định
điều hành mọi hoạt động nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận. Việc nghiên cứu
KTQT được xem xét từ nhiều quan điểm và góc độ khác nhau.
Theo giáo sư Robert S. Kaplan, trường Đại học Harvard Business School,
trường phái KTQT của Mỹ, “KTQT là một bộ phận của hệ thống thông tin quản
trị trong các tổ chức mà nhà quản trị dựa vào đó để hoạch định và kiểm soát các
hoạt động của tổ chức” (6, tr10)
Như vậy theo quan điểm này KTQT là công cụ gắn liền với hoạt động quản
trị của các tổ chức. Nó có vai trò quan trọng cho tổ chức xây dựng các dự toán,
hoạch định chính sách và kiểm soát mọi hoạt động của tổ chức.
Theo hiệp hội kế toán viên hợp chủng quốc Hoa kỳ “ KTQT là quy trình
định dạng, đo lường, tổng hợp, phân tích, truyền đạt các thông tin tài chính cho
các nhà quản trị để điều hành các hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn”. (6, tr 10)


13

Theo luật kế toán Việt Nam “KTQT là việc thu thập xử lý, phân tích và
cung cấp thông tin kinh tế tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế
tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán”. (6, tr 11)
Các khái niệm trên tuy có sự khác nhau về hình thức song đều có những
điểm cơ bản giống nhau:
KTQT là một bộ phận cấu thành trong hệ thống kế toán của các tổ chức
hoạt động.
KTQT là công cụ không thể thiếu được trong các doanh nghiệp kinh doanh

theo cơ chế thị trường vì nó là cơ sở khoa học để đưa ra mọi quyết định kinh
doanh.
Thông tin KTQT trong các tổ chức hoạt động giúp cho nhà quản trị thực
hiện chức năng quản trị doanh nghiệp; lập kế hoạch; tổ chức thực hiện; kiểm tra,
đánh giá và ra quyết định.
Từ những phân tích trên ta có thể đưa ra khái niệm về KTQT như sau:
“KTQT là một môn khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin định lượng
kết hợp với định tính về các hoạt động của đơn vị cụ thể. Các thông tin đó giúp
các nhà quản trị trong quá trình ra quyết định liên quan đến việc lập kế hoạch, tổ
chức thực hiện, kiểm tra và đánh giá tình hình thực hiện các hoạt động của đơn
vị”.
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của thông tin KTQT ngày càng được
mở rộng và khẳng định vị thế phát triển. Lý do cơ bản dẫn đến KTQT phát triển
là do sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp, các tập đoàn, các quốc gia
với nhau. Trong sự cạnh tranh đó có sự thành công và thất bại của các doanh
nghiệp, tập đoàn, nhân tố quan trọng dẫn đến sự thành công của các nhà quản trị
trên thương trường chính là thông tin KTQT. Mặt khác các mô hình tổ chức quản
lý cũng thay đổi theo sự phát triển của công nghệ thông tin và các công cụ phân
tích hiện đại thông qua hệ thống máy tính. Thông tin kinh tế ngày càng hội nhập
cao, mang tính chất toàn cấu, do vậy quá trình thu thập, xử lý thông tin đòi hỏi
phải nhanh, chính xác và mang tính chuẩn mực của các thông lệ quốc tế. Trước
sự đòi hỏi khách quan của nền kinh tế, trình độ của các nhà quản trị ngày càng
nâng cao để đáp ứng và thỏa mãn các thông tin của nền kinh tế hội nhập và phát


14

triển. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến KTQT phát triển, do vậy tổ chức KTQT
trong doanh nghiệp có thể coi như một quy luật khách quan vốn có của nền kinh
tế. Các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phải tự chủ tài chính, được

quyền tự do quyết định mọi hoạt động, được giao lưu và hội nhập quốc tế. Do
vậy tính cạnh tranh của các doanh nghiệp ngày càng mạnh mẽ, để đảm bảo mọi
quyết định đưa ra có độ tin cậy cao cần phải dựa vào hệ thống thông tin KTQT.
Thông tin KTQT chủ yếu cung cấp cho các nhà quản trị doanh nghiệp đưa
ra các quyết định điều hành các hoạt động kinh doanh. Các cấp quản trị từ Tổ
trưởng sản xuất, Quản đốc phân xưởng, Trưởng các phòng ban đến Ban giám
đốc và Hội đồng quản trị doanh nghiệp và thường cụ thể, mang tính chất định
lượng nhiều vì gắn với các hoạt động kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp giúp
các nhà quản trị ra quyết định đúng đắn, kịp thời.
Thông tin KTQT có vai trò chủ đạo và chi phối toàn bộ hoạt động kinh
doanh của các tổ chức hoạt động. Đó là cơ sở quan trọng để đưa ra các quyết
định ngắn hạn và dài hạn nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển bề vững của
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Ra quyết định là chức đồng thời cũng là nhiệm vụ cơ bản của các nhà quản
trị doanh nghiệp. Nhiệm vụ cơ bản của các nhà quản trị trong bất kỳ tổ chức hoạt
động nào gồm những chức năng: xây dựng kế hoạch; tổ chức thực hiện; kiểm
soát, đánh giá và ra quyết định.
2.1.2.

Yêu cầu và nhiệm vụ tổ chức KTQT trong các doanh nghiệp
Như ta đã biết, KTQT là một phân hệ của kết toán nói chung trong các
doanh nghiệp, do vậy việc tổ chức KTQT cần thực hiện tốt các yêu cầu sau:
- Cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời về tình hình tài sản, nguồn vốn, doanh
thu, chi phí, lợi nhuận của doanh nghiệp cho các cấp quản trị trong doanh
nghiệp.
- Cung cấp kịp thời và đầy đủ về định mức chi phí, dự toán, kế hoạch để
các nhà quản trị có phương hướng phân tích, đánh giá và đưa ra các quyết định
phù hợp.
- Các thông tin cung cấp đều phải xuất phát từ nhu cầu của các nhà quản trị
và đặc thù kinh doanh cụ thể của các doanh nghiệp.



15

- Thông tin cung cấp phải thuận tiện cho quá trình cung cấp, đánh giá đưa
ra các quyết định phù hợp cho từng mục tiêu khác nhau.
Mặt khác để cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin về kinh tế, tài chính
cho các nhà quản trị các chuyên gia KTQT phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
- Xây dựng các định mức chi phí, hệ thống dự toán ngân sách khoa học, kế
hoạch phù hợp cho một kỳ xác định
- Tổ chức, phối hợp thực hiện tốt các khâu trong doanh nghiệp, nhằm đạt
được các mục tiêu như tối đa hóa doanh thu, lợi nhuận trong doanh nghiệp, tối
thiểu hóa chi phí.
- Thu thập, xử lý thông tin về tình hình biến động của tài sản, nguồn vốn,
doanh thu, chi phí, lợi nhuận, và các quan hệ tài chính khác theo phạm vi của bộ
phận và toàn doanh nghiệp.
- Kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các định mức chi phí, dự toán ngân
sách, kế hoạch đã xây dựng.
- Phân tích đánh giá thông tin, cung cấp cho các nhà quản trị thông qua hệ
thống báo cáo KTQT. Tư vấn cho các nhà quản trị đưa ra quyết định.
2.2.

Tổ chức KTQT trong doanh nghiệp
Để phục vụ nhu cầu thông tin của các nhà quản trị trong việc đưa ra quyết
định điều hành mọi họat động kinh doanh trong các tổ chức hoạt động. Nội dung
tổ chức KTQT có vai trò quan trọng trong hoạt động tổng thể của doanh nghiệp.
Tổ chức KTQT có thể theo chức năng thông tin kế toán hoặc chu trình công việc
kế toán cụ thể trong các mô hình tổ chức kết hợp hay tách biệt với KTTC.

2.2.1.


Tổ chức KTQT trong doanh nghiệp theo chức năng thông tin kế toán
Trong các doanh nghiệp thông tin KTQT thường được tổ chức theo hai nội
dung cơ bản: Thu nhận thông tin và phân tích, xử lý thông tin.
Thu nhận thông tin KTQT thường được tiến hành tại các bộ phận như phân
xưởng, cửa hàng, tổ sản xuất….Thông tin kế toán gồm có thông tin hiện tài và
tương lai. Thông tin hiện tại chính là các chỉ tiêu kinh tế, tài chính chi tiết thuộc
các bộ phận như hàng tồn kho, chi phí, doanh thu và kết quả đang xẩy ra trong
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Những thông tin này đều xuất phát từ


16

nhu cầu của các nhà quản trị, các cấp nhằm theo dõi, đánh giá tình hình kinh tế,
tài chính của doanh nghiệp. Thông tin tương lai là hệ thống thông tin quan trong
mà các nhà quản trị phải dự đoán, phán đoán những họat động kinh doanh sắp
xảy ra dựa trên những cơ sở khoa học thực tại và quá khứ. Độ tin cậy của các
thông tin tương lai phụ thuộc vào trình độ quản lý của các cấp quản trị và ảnh
hưởng đến hiệu quả của các hoạt động trong doanh nghiệp.
Việc tổ chức phân tích thông tin KTQT sẽ dựa trên cơ sở những thông tin
thu nhận được, các chuyên gia kế toán tiến hành so sánh, đối chiếu giữa thực tế
với định mức, dự toán, kế hoạch để từ đó xác định những nhân tố ảnh hưởng
theo các chiều hướng tích cực và tiêu cực từ đó đưa ra các biện pháp nhằm nâng
cao hiệu quả của các hoạt động. Mặt khác quá trình phân tích cũng thường sử
dụng các công cụ hiện đại để dự đoán những hoạt động kinh doanh có khả năng
xẩy ra từ đó có các quyết định ững xử kịp thời.
2.2.2.

Tổ chức KTQT trong doanh nghiệp theo chu trình thông tin kế toán
Chu trình thông tin kế toán thường thể hiện qua những khâu cơ bản trong

các tổ chức hoạt động: Tổ chức hạch toán thông tin ban đầu qua hệ thống chứng
từ, tổ chức TK kế toán, tổ chức tính giá và tổ chức hệ thống báo cáo KTQT.
Tổ chức hạch toán thông tin KTQT ban đầu thông qua hệ thống chứng từ.
Chứng từ là phương tiện ghi nhận và phản ảnh toàn bộ các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh trong doanh nghiệp. Tổ chức chứng từ thường dựa vào hệ thống chứng
từ bắt buộc và hướng dẫn của Bộ tài chính quy định. Tuy nhiên xuất phát từ yêu
cầu quản trị xuất phát từ yêu cầu quản trị khi tổ chức chứng từ ta có thể bổ xung
thêm các chỉ tiêu cho phù hợp với tình hình thực tế của các doanh nghiệp. Mặt
khác có thể thiết kế mới những mẫu chứng từ phù hợp với đặc điểm kinh doanh
của từng doanh nghiệp nhằm cung cấp thông tin nhanh và chính xác cho từng
cấp quản trị. Ví dụ: Phiếu xuất kho sử dụng vật liệu cho sản xuất sản phẩm có
thể bổ xung các chỉ tiêu cho định mức tiêu hao vật liệu cho một sản phẩm, từ đó
có thể đánh giá và so sánh với định mức thực tế với dự toán và kế hoạch để nhà
quản trị có các quyết định kịp thời.
Tổ chức TK KTQT cần xem xét có mối quan hệ mật thiết giữa TK kế toán
và sổ kế toán. Thực chất sổ kế toán là phương tiện thể hiện TK kế toán. Do vậy


17

khi tổ chức TK kế toán cần xuất phát từ nhu cầu của các nhà quản trị gắn với
điều kiện thực tiễn kinh doanh để mở các TK, hệ thống sổ cho phù hợp.
Báo cáo KTQT chính là sản phẩm cuối cùng của các chuyên gia kế toán
trong quá trình thu thập và xử lý các thông tin cung cấp cho các nhà quản lý. Báo
cáo KTQT cũng đa dạng và phong phú, xuất phát từ nhu cầu, sự am hiểu thông
tin của các nhà quản trị để từ đó xây dựng chỉ tiêu, thiết kế mẫu biểu cho phù
hợp với từng cấp quản trị nhằm đảm bảo phân tích, đánh giá đưa ra quyết định
hiệu quả cao trong các tình huống hoạt động kinh doanh hằng ngày.
2.2.3.


Mô hình tổ chức KTQT trong doanh nghiệp
Trong thực tiễn các doanh nghiệp thường tổ chức KTQT theo một trong
hai mô hình sau:
Tổ chức KTQT và KTTC theo mô hình kết hợp. Theo mô hình này, các
chuyên gia kế toán đồng thời đảm nhiệm hai nhiệm vụ: thu nhận và xử lý thông
tin KTTC và KTQT. Mô hình này thường được vận dụng ở các doanh nghiệp có
quy mô vừa và nhỏ, số lượng các nghiệp vụ kinh tế phát sinh với tần suất ít. Mô
hình này có ưu điểm là kết hợp chặt chẽ giữa thông tin KTTC và KTQT, tiết
kiệm được chi phí thu nhận thông tin nhanh. Song có hạn chế là chưa chuyên
môn hóa hai loại kế toán theo công nghệ hiện đại. Các công việc của kế toán
được thực hiện cho mỗi phần hành kế toán thường cụ thể hóa như sau:
- Căn cứ vào chứng từ ban đầu để ghi vào các sổ KTTC và KTQT.
- Cuối kỳ hoặc theo yêu cầu của nhà quản trị kế toán tiến hành lập các báo
cáo kế toán: báo cáo KTTC và báo cáo KTQT
- Phân tích, đánh giá kết quả thu được so với các dự toán, định mức đã xây
dựng
- Xử lý thông tin, cung cấp kịp thời để phục vụ ra quyết định cho mọi đối
tượng
Tổ chức KTQT và KTTC theo mô hình tách biệt. Theo mô hình này, các
chuyên gia KTQT độc lập với chuyên gia KTTC. Mô hình này thường được vận
dụng ở các doanh nghiệp có quy mô lớn số lượng các nghiệp vụ kinh tế phát sinh
với tần suất nhiều, kinh doanh đa ngành, đa nghề. Mô hình này có ưu điểm là


18

tách biệt thông tin KTTC độc lập với KTQT theo hướng cả hai đều có thể hiện
đại hóa. Song có hạn chế là chưa khái quát hóa được thông tin của hai phân hệ
với nhau. Các công việc cụ thể của KTQT được cụ thể hóa như sau:
- Lập dự toán, định mức chi phí, ngân sách cho các bộ phận và toàn doanh

nghiệp.
- Căn cứ vào chứng từ ban đầu, hướng dẫn…để ghi vào các sổ KTQT theo
nhu cầu của các nhà quản trị.
- Tiến hành lập các báo cáo KTQT theo yêu cầu của nhà quản lý và thực tế
các doanh nghiệp.
- Phân tích, đánh giá kết quả thu được so với các dự toán, định mức đã xây
dựng để đưa ra các thông tin thích hợp.
- Thu nhận thông tin thích hợp để phục vụ ra quyết định kinh doanh tối ưu.
2.2.4.
2.2.4.1.

Nội dung cơ bản của tổ chức KTQT trong doanh nghiệp
Tổ chức phân loại chi phí
Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động: Mục đích của việc phân loại
chi phí theo chức năng hoạt động trong kế toán quản trị là xác định rõ vai trò,
chức năng hoạt động của từng chi phí trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh ở các doanh nghiệp. Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động cung cấp
thông tin có hệ thống cho việc lập các báo cáo tài chính. Theo chức năng hoạt
động thì chi phí được phân thành: chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất
Đối với chi phí sản xuất thì đây là toàn bộ chi phí có liên quan đến việc
chế tạo sản phẩm trong một kỳ nhất định. Chi phí sản xuất gồm ba khoản mục
chi phí sau:
-

Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp

-

Chi phí lao động trực tiếp


-

Chi phí sản xuất chung

Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là chi phí của những loại nguyên liệu cấu
thành thực thể sản phẩm, có giá trị lớn và có thể xác định được một cách tách
biệt, rõ ràng, cụ thể chi từng sản phẩm. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp có thể


19

xác định cho từng đơn vị sản phẩm nên được tính thẳng vào từng đơn vị sản
phẩm. Trong khi đó chi phí nguyên vật liệu gián tiếp không thể xác định tách
biệt cho từng sản phẩm nên đưa vào chi phí sản xuất chung.
Chi phí lao động trực tiếp là chi phí tiền lương của những lao động trực
tiếp chế tạo ra sản phẩm. Cũng giống như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thì chi
phí lao động trực tiếp cũng được tính thẳng vào từng đơn vị sản phẩm. Ngoài lao
động trực tiếp còn có lao động gián tiếp, lao động gián tiếp là những lao động
không trực tiếp tạo ra sản phẩm nhưng cần thiết cho quá trình sản xuất của lao
động trực tiếp nên chi phí cho lao động gián tiếp sẽ đưa vào chi phí sản xuất
chung để phân bổ sau.
Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết khác để sản xuất ra sản
phẩm ngoài chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí lao động trực tiếp. Chi
phí sản xuất chung bao gồm ba loại chi phí là chi phí nguyên vật liệu gián tiếp,
chi phí lao động gián tiếp và chi phí khác. Với đặc điểm là bao gồm nhiều khoản
mục chi phí khác nhau, các khoản mục thuộc chi phí sản xuất chung đều có tính
gián tiếp với từng đơn vị sản phẩm nên không thể tính thẳng vào sản phẩm, cơ
cấu của chi phí sản xuất chung bao gồm cả biến phí, định phí và chi phí hỗn hợp,
chi phí sản xuất chung bao gồm nhiều khoản mục chi phí nên chúng được nhiều
bộ phận khác nhau quản lý và rất khó kiểm soát chính vì những đặc điểm đó nên

chi phí sản xuất chung sẽ được tính vào sản phẩm thông qua việc phân bổ theo
các tiêu thức thích hợp.
Đối với chi phí ngoài sản xuất thì gồm hai loại:
-

Chi phí bán hàng và tiếp thị

-

Chi phí quản lý

Chi phí bán hàng và tiếp thị bao gồm toàn bộ chi phí cần thiết để
đẩy mạnh quá trình lưu thông hàng hóa và đảm bảo việc đưa hàng hóa đến tay
người tiêu dùng.
Chi phí quản lý bao gồm những khoản chi phí liên quan đến việc tổ chức
hành chính và các hoạt động văn phòng làm việc của doanh nghiệp.
Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí: Mục đích của phân loại
này trong KTQT là cung cấp thông tin phục vụ cho việc lập kế hoạch, kiểm tra


20

và chủ động điều tiết chi phí cho phù hợp.Theo cách phân loại này thì chi phí
được phân thành: biến phí, định phí và chi phí hỗn hợp.
Biến phí là những khoản mục chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận với biến động
về mức độ hoạt động. Biến phí khi tính cho một đơn vị thì nó ổn định không thay
đổi. Biến phí khi không có hoạt động bằng 0. Như vậy biến phí có hai đặc điểm
là tổng biến phí thay đổi khi sản lượng thay đổi và biến phí giữ nguyên không
đổi khi sản lượng thay đổi.
Định phí là những khoản chi phí không biến đổi khi mức độ hoạt động

thay đổi. Định phí chỉ giữ nguyên trong phạm vi phù hợp của doanh nghiệp.
Định phí có hai đặc điểm như sau:
-

Tổng định phí giữ nguyên khi sản lượng thay đổi trong phạm vi phù
hợp.

-

Định phí trên một đơn vị sản phẩm thay đổi khi sản lượng thay đổi.

Chi phí hỗn hợp là loại chi phí mà bản thân nó gồm các yếu tố biến phí lẫn
định phí. Để lập kế hoạch chi phí hỗn hợp cần thiết phải tách chi phí hỗn hợp
thành hai bộ phận: bộ phận định phí tron chi phí hỗn hợp và bộ phận biến phí.
Nếu việc phân tích này được thực hiện một cách cẩn thận thì sự gần đúng của
các yếu tố bất biến và khả biến của chi phí hỗn hợp sẽ cho phép dự đoán khá
chính xác chi phí hỗn hợp sẽ phát sinh trong những điều kiện cụ thể
Các tiêu thức phân loại chi phí khác:
Căn cứ vào mối quan hệ của chi phí với đối tượng chịu chi phí, chi phí
chia thành hai dạng: chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp
Chi phí trực tiếp đó là những khoản chi phí mà kế toán có thể tập hợp
thẳng cho từng đối tượng chịu chi phí. Một đối tượng chịu chi phí mà có tỷ trọng
chi phí trực tiếp cao thì độ chính xác của chỉ tiêu giá thành sản phẩm, kết quả
kinh doanh của các đối tượng càng cao.
Chi phí gián tiếp là các khoản chi phí mà kế toán không thể tập hợp thẳng
cho các đối tượng chịu chi phí do vậy đối với từng yếu tố chi phí gián tiếp kế
toán phải phân bổ cho từng đối tượng chịu chi phí. Độ chính xác của chi phí gián
tiếp còn phụ thuộc vào tiêu thức phân bổ. Tiêu thức phân bổ phải lựa chọn cho



21

phù hợp và thường dựa vào căn cứ khoa học như: thuận tiện cho việc tính toán,
thống nhất cả kỳ hạch toán, có tính đại diện cho chi phí gián tiếp cần phân bổ.
Căn cứ vào mối quan hệ của chi phí với mức độ kiểm soát của các nhà
quản trị, chi phí chia thành hai dạng: chi phí kiểm soát được và chi phí không
kiểm soát được.
Chi phí kiểm soát được là khoản chi phí phát sinh trong phạm vi quyền
của các nhà quản trị đối với khoản chi phí đó.
Chi phí không kiểm soát được đó là khoản chi phí phát sinh ngoài phạm vi
kiểm soát của các nhà quản trị doanh nghiệp.
Căn cứ vào mối quan hệ của chi phí với các quyết định kinh doanh chi
phí chia thành nhiều dạng: chi phí cơ hội, chi phí chìm, chi phí không chênh
lệch, chi phí tránh được và chi phí không tránh được.
Chi phí cơ hội là lợi ích bị mất đi vì chọn phương án và hành động này
thay cho phương án và hành động khác.
Chi phí chênh lệch đó là các khoản chi phí có ở phương án này nhưng chỉ
có một phần hoặc không có ở phương án khác. Chi phí chênh lệch có thể là biến
phí hay định phí hoặc chi phí hỗn hợp.
Chi phí chìm là những khoản chi phí mà doanh nghiệp vẫn cứ phải chịu
mặc dù các nhà quản trị chọn bất cứ phương án kinh doanh nào.
Chi phí tránh được là những khoản chi phí mà các nhà quản trị kinh doanh
có thể giảm được khi thực hiện các quyết định kinh doanh tối ưu. Còn chi phí
không tránh được đó là những khoản chi phí chi dù nhà quản trị chọn phương án
nào cũng vẫn phải chịu.
2.2.4.2.

Tổ chức xây dựng định mức chi phí và lập dự toán sản xuất kinh doanh
Vai trò của xây dựng định mức chi phí và lập dự toán sản xuất kinh doanh
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của quản trị kinh doanh là đảm

nhiệm các quyết định trong tương lai. Để làm được điều này, một công việc hữu
ích là tổng hợp những ý kiến, đánh giá trong phân tích và đưa ra các dự toán.
Bản chất của dự toán chính là các số liệu tổng kết những phân tích về triển vọng


22

của doanh nghiệp. Dự toán là một kế hoạch định lượng sử dụng nguồn lực trong
một kỳ nhất định. Dự toán sản xuất kinh doanh có các vai trò sau:
- Cụ thể hóa các kế hoạch hành động thành các con số. Quá trình lập dự
toán yêu cầu các nhà quản trị trong doanh nghiệp phải lập các kế hoạch chi tiết
cho việc thực hiện các chiến lược dài hạn của doanh nghiệp. Nếu không có việc
lập dự toán hàng năm thì các nhà quản trị sẽ không lập kế hoạch cho các hoạt
động trong tương lai do họ quá bận rộn với các công việc hằng ngày. Bên cạnh
đó, việc lập dự toán giúp các nhà quản trị chủ động ứng phó với các vấn đề trước
khi xẩy ra, vì việc lập dự toán sẽ bảo đảm rằng khi các nhà quản trị lập kế hoạch
cho các hoạt động trong tương lai họ phải cân nhắc tới các điều kiện thay đổi
trong năm tới và các bước cần tiến hành để đối phó với những thay đổi đó.
- Tăng cường sự hợp tác và trao đổi công việc với các thành viên trong
doanh nghiệp. Việc lập dự toán sẽ tổng hợp các hoạt động của các bộ phận khác
nhau của doanh nghiệp cho một kế hoạch chung. Mỗi nhà quản trị có thể ra các
quyết định riêng của họ, tuy nhiên các quyết định này đôi khi mâu thuẫn với
nhau. Quá trình lập dự toán với mục tiêu phục vu tốt nhất cho toàn doanh nghiệp
chứ không phải phục vụ cho lợi ích của riêng bộ phận nào, sẽ xóa bỏ những mâu
thuẫn đó. Quá trình lập dự toán cần có sự tham gia của mọi thành viên trong tổ
chức. Mỗi nhà quản lý cần biết được về kế hoạch hoạt động của các nhà quản lý
khác trong doanh nghiệp để xác định và giải quyết mâu thuẫn giữa các bộ phận.
- Giúp cho việc kiểm soát lợi nhuận và hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Dự toán thúc đẩy các nhà quản trị đạt được các mục tiêu của doanh
nghiệp tuy nhiên cần lưu ý rằng dự toán cũng có thể là nguyên nhân gây ra sự

không hiệu quả và mâu thuẫn giữa các nhà quản trị. Nếu nhà quản trị tham gia
một cách chủ động vào quá trình lập dự toán thì dự toán sẽ là công cụ trợ giúp
nhà quản trị trong việc quản lý bộ phận của mình. Ngược lại nếu dự toán được
áp đặt từ trên xuống thì có thể là một mối hiểm họa vì nó có thể gây ra nhiều
phiền toái trong quá trình thực hiện chứ không phải là động lực thúc đẩy tốt.
- Dự toán là một tiêu chí hữu ích để so sánh kết quả thực hiện từ đó đánh
giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Bằng việc so sánh giữa chi phí thực tế
và số liệu dự toán nhà quản trị có thể xác minh các khoản chi phí không tuân thủ
theo kế hoạch đề ra mà sẽ phải tìm hiểu nguyên nhân của sự khác biệt giữa kế


23

hoạch và thực tế. Từ đó nhà quản trị có thể phát hiện ra những hoạt động không
hiệu quả. Khi đã tìm được các nguyên nhân của việc hoạt động kém hiệu quả thì
cần có các hoạt động kiểm soát hợp lý để sửa chữa tình huống đó.
- Việc so sánh giữa dự toán và thực tế còn giúp ích cho doanh nghiệp đánh
giá các nhà quản trị. Công việc của các nhà quản trị thường được đánh giá bằng
việc họ thành công hay thất bại khi họ thực hiện dự toán. Việc thực hiện dự toán
không chỉ giúp cho nhà quản trị đánh giá công việc của bản thân họ mà còn giúp
cho doanh nghiệp có các mức thưởng phạt hợp lý trên cơ sở kết quả thực hiện dự
toán và do đó sẽ ảnh hưởng tới hành vi của các nhà quản trị.
Hệ thống chi phí định mức
-

Chi phí định mức là số tiền tối thiểu để hoàn thành một đơn vị sản phẩm dịch
vụ hoặc công việc. Chi phí định mức giống chi phí dự toán ở chỗ đều là mức
tiền tối thiểu ước tính để hoàn thành một khối lượng sản phẩm, dịch vụ
hoạch công việc tuy nhiên chi phí định mức chỉ tính cho một đơn vị sản
phẩm, dịch vụ hoặc công việc, còn chi phí dự toán tính cho tổng khối lượng

sản phẩm, dịch vụ hoặc công việc. Chi phí định mức là cơ sở để tính chi phí
dự toán.

-

Các chi phí định mức: định mức lý tưởng là định mức được xây dựng trong
điều kiện hoạt động ở mức công suất tối đa và chỉ có thể đạt được nếu mọi
thứ đều diễn ra một cách hoàn hảo. Định mức lý tưởng hầu như không đạt
được trong thực tế do đó ít được sử dụng. Định mức thực tế là định mức
được xây dựng trong điều kiện hoạt động bình thường. Định mức thực tế
khắt khe nhưng vẫn có thể đạt được với những nỗ lực hiệu quả cao và hợp lý.
Chênh lệch giữa thực tế và định mức thực tế báo hiệu những sai lệch nằm
ngoài điều kiện hoạt động bình thường nên rất có ích cho các nhà quản lý.
Hệ thống dự toán sản xuất kinh doanh.

-

Dự toán tiêu thụ: là điểm khởi đầu của quá trình lập dự toán. Lập dự toán
tiêu thụ là một bước vô cùng quan trọng trong quá trình lập dự toán nhưng
cũng vô cùng khó có thể thực hiện chính xác được. Nếu dự toán tiêu thụ
được lập không chính xác cũng kéo theo sự không chính xác của các dự toán
khác và có thể gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện.


24

Không có một phương pháp chung nào cho việc lập dự toán tiêu thụ mà số
lượng tiêu thụ và giá bán sản phẩm được xác định trên cơ sở phân tích chiến
lược kinh doanh và chu kỳ sống của sản phẩm. Để lập dự toán tiêu thụ nhà
phân tích cần có điểm xuất phát. Điểm xuất phát có thể là tình hình tiêu thụ

thực tế của kỳ trước, và sau đó điều chỉnh theo các xu hướng biến động hiện
tại. Căn cứ vào kết quả phân tích chiến lược kinh doanh, phân tích kế toán và
tài chính, kết quả dự toán có thể rất khác so với điểm khởi đầu nêu trên. Tuy
nhiên, với mục tiêu đơn giản là có một điểm khởi đầu cho quá trình lập dự
toán chi tiết thì các chỉ tiêu trên là rất có ích.
-

Dự toán sản xuất: mục đích của dự toán sản xuất là xác định số lượng sản
phẩm cần sản xuất để đáp ứng nhu cầu tięu thụ vŕ dự trữ hŕng tồn kho cuối
kỳ. Căn cứ từ dự toán tiêu thụ chúng ta biết được số lượng sản phẩm cần
thiết để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ. Nếu không có sản phẩm tồn kho, số lượng
sản phẩm cần sản xuất sẽ đúng bằng với số lượng sản phẩm sẽ bán được.
Tuy nhiên, dự toán sản xuất luôn luôn phải xem xét tới tình hình tồn kho đầu
kỳ và cuối kỳ. Nói chung, chính sách dự trữ sản phẩm cuối kỳ của doanh
nghiệp được quyết định bởi ban giám đốc. Thông thường sản phẩm dự trữ
cuối kỳ này phụ thuộc vào số lượng và thời gian của mức cầu đối với sản
phẩm trong kỳ tới trong mối quan hệ với công suất và tốc độ sản xuất sản
phẩm của doanh nghiệp.

-

Dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Sau khi hoàn thành dự toán sản
xuất, ta sẽ tiến hành lập dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, dự toán chi
phí nhân công trực tiếp và dự toán chi phí sản xuất chung. Dự toán chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp được xác định theo công thức
BM=Q x M x Pm
Trong đó:
BM: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp dự toán
Q: Số lượng sản phẩm sản xuất kế hoạch
M: Định mức lượng nguyên vật liệu/sản phẩm

Pm: Đơn giá nguyên vật liệu


25

Định mức nguyên vật liệu cần sử dụng được xác định trên cơ sở mối quan hệ
đầu ra- đầu vào. Mối quan hệ này thường do bộ phận thiết kế kỹ thuật xác
định, hoặc căn cứ vào mức tiêu hao phí nguyên vật liệu trực tiếp tính trung
bình cho một đơn vị sản phẩm của những kỳ trước mà quá trình sản xuất đạt
mức hiệu năng bình thường.
-

Dự toán chi phí nhân công trực tiếp: dự toán chi phí nhân công trực tiếp xác
định tổng thời gian lao động trực tiếp cần thiết và các chi phí nhân công có
liên quan tới mức sản xuất dự kiến. Chi phí nhân công trực tiếp dự toán được
xác định theo công thức:
BL = Q x L x Pl
Trong đó:
BL: chi phí nhân công trực tiếp dự toán
Q: Số lượng sản phẩm sản xuất kế hoạch
L: Định mức thời gian lao động/1 sản phẩm
Pl: Đơn giá tiền lương/giờ lao động
Cũng giống như nguyên vật liệu trực tiếp, mức độ sử dụng nhân công trực
tiếp được quyết định bởi mối quan hệ về mặt kỹ thuật giữa lao động và sản
phẩm đầu ra, tức là định mức thời gian lao động/1 sản phẩm.

-

Dự toán chi phí sản xuất chung: dự toán chi phí sản xuất chung sẽ chỉ ra mức
độ dự kiến của tất cả các chi phí sản xuất gián tiếp. Khác với chi phí nguyên

vật liệu và chi phí nhân công trực tiếp, không sẵn có mối quan hệ đầu ra- đầu
vào nào cho khoản mục chi phí sản xuất chung. Tuy nhiên số liệu thống kê
trong quá khứ sẽ giúp ta xác định chi phí sản xuất chung sẽ biến động như
thế nào theo mức độ hoạt động của doanh nghiệp bằng việc áp dụng các
phương pháp phân tích, dự toán chi phí hỗn hợp. Các phương pháp này sẽ
cho chúng ta kết quả chính xác hơn nếu chúng ta chia nhỏ chi phí sản xuất
chung theo từng yếu tố chi tiết để phân tích.

-

Dự toán hàng tồn kho cuối kỳ: dự toán hàng tồn kho cuối kỳ là cơ sở giúp ta
lập dự toán giá vốn hàng bán và dự toán bảng cân đối kế toán. Để lập dự
toán này chúng ta phải sử dụng thông tin ở các dự toán chi phí nguyên vật


×