Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Bảo hộ kiểu dáng công nghiệp ở việt nam thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN BÁ BÌNH

BẢO HỘ KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
– THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Đăng Hiếu

HÀ NỘI - 2005


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin dành để bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Bùi Đăng Hiếu
- Giảng viên Trường ĐH Luật Hà Nội. Sự hướng dẫn đầy nhiệt huyết và khoa
học của Thầy đã giúp tôi hoàn thành tốt luận văn thạc sỹ luật học của mình.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo phụ trách giảng dạy
lớp Cao học Luật Khóa 10 - Trường ĐH Luật Hà Nội. Những người đó giúp
tôi trưởng thành hơn về chuyên môn và khả năng nghiên cứu khoa học.
Xin được cảm ơn các chuyên gia của Cục SHTT, Hội SHCN và một số
Công ty tư vấn pháp luật đó đóng góp những ý kiến quý báu cho việc nghiên


cứu đề tài này.
Cuối cùng tôi vô cùng biết ơn Ban giám hiệu Trường ĐH Luật Hà Nội,
Ban chủ nhiệm Khoa Pháp luật quốc tế, Tổ bộ môn Tư pháp quốc tế - là nơi tôi
đang công tác và gia đình, bạn bè đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt
quá trình học tập và nghiên cứu đề tài này!


DANH MC CH VIT TT

Bộ luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
BLDS 1995

Việt Nam được Quốc hội khoá IX thông qua tại kỳ
họp thứ 8, thông qua ngày 28/10/1995, có hiệu lực
từ ngày 01/07/1996
Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp được ký
kết ngày 0/3/1883 tại Paris, được xem xét lại tại

Công ước Paris

Brussels năm 1900, tại Washington năm 1911, tại La
Hay năm 1925, tại Luân đôn năm 1934, tại Lisbon
năm 1958, tại Stockholm năm 1967 và được sửa đổi
vào năm 1979
Directive 98/71/EC of the European Parliament and

Chỉ thị của EU

of the Council of 13 October 1998 on the legal
protection of designs (Chỉ thị số 97/71/EC của Uỷ

ban Châu Âu ngày 13/11/1998 về bảo hộ kiểu dáng)

ĐƯQT

Điều ước quốc tế

EU

European Union (Liên minh Châu Âu)

Hiệp định Thương mại
Việt Nam - Hoa Kỳ
KDCN
Nghị định 63/CP
NHHH

Hiệp định giữa CHXHCN Việt nam và Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ về quan hệ thương mại có hiệu lực từ
10/12/2001
Kiểu dáng công nghiệp
Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ
quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp
Nhãn hiệu hàng hoá


SHCN

Sở hữu công nghiệp

SHTT


Sở hữu trí tuệ
Thông tư 29/2003/BKHCN ngày 05/11/2003 của Bộ

Thông tư 29

Khoa học và Công nghệ hướng dẫn thực hiện các thủ
tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu
dáng công nghiệp
Thông tư số 3055/TT-SHCN ngày 31/12/1996 của Bộ
Khoa học, Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa

Thông tư 3055/TTSHCN

học và Công nghệ) hướng dẫn thi hành các quy định
về thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp và một số
thủ tục khác trong Nghị định số 63/CP ngày
24/10/1996 của Chính phủ quy định chi tiết thi về sở
hữu công nghiệp
Thỏa ước La Hay về Đăng ký quốc tế kiểu dáng công

Thỏa ước La Hay

nghiệp, được thông qua trong khuôn khổ Công ước
Paris vào ngày 06/11/1925 và bắt đầu có hiệu lực từ
ngày 01/06/1928
The

TRIPS


Agreement

on

Trade-Related

Aspects

of

Intellectual Property Rights (Hiệp định về các khía
cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí
tuệ)

WIPO

WTO

Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (World of Intellectual
Property Organization)
Tổ chức thương mại Thế giới (World Trade
Organization).


MC LC

LI NểI U ......................................... 01
CHNG I: MT S VN Lí LUN C BN V KDCN ...... 07
1.1. Khái niệm KDCN ............................................................................................ 07
1.2. Tiêu chí bảo hộ KDCN .................................................................................... 14

1.3. Phân loại KDCN .............................................................................................. 26
1.4. Các chức năng của KDCN............................................................................... 27
1.5. Mối quan hệ giữa KDCN với sáng chế, giải pháp hữu ích, nhãn hiệu hàng
hoá và đối tượng của quyền tác giả................................................................ 28
CHNG II: PHP LUT V BO H KDCN VIT NAM ...... 34
2.1. Xác lập và chấm dứt quyền sở hữu công nghiệp đối với KDCN..................... 34
2.2. Nội dung quyền SHCN đối với KDCN ........................................................... 46
2.3. Chuyển giao quyền sở hữu và quyền sử dụng KDCN ..................................... 51
CHNG III: THC TRNG BO H KDCN V MT S KIN
NGH HON THIN VIC BO H KDCN VIT NAM ......... 62
3.1. Thực tiễn bảo hộ KDCN ở Việt Nam .............................................................. 62
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo hộ KDCN ở Việt Nam............ 71
KT LUN ............................................ 78
DANH MC TI LIU THAM KHO
PH LC


-1-

LI M U

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Kể từ khi con người bắt đầu sản xuất ra các công cụ và đồ dùng thì nghệ
thuật đã bắt đầu có ảnh hưởng mạnh và liên tục tới phương thức làm ra chúng.
Vẻ đẹp của đồ gốm hay các toà nhà cổ xưa là bằng chứng về ảnh hưởng này:
nghệ thuật có khả năng làm cho một chiếc cốc uống nước hay một nơi trú ngụ
trở thành vật hấp dẫn có tính thẩm mỹ cao [9, tr. 3].
Trước thời kỳ cơ khí hoá và trước khi áp dụng các kỹ thuật sản xuất theo dây
chuyền, phần lớn nghệ thuật được thể hiện trong mỗi sản phẩm cụ thể đều mang
tính chất độc nhất vô nhị theo nghĩa là nghệ nhân, người sáng tạo ra sản phẩm,

được tự do, tất nhiên là trong khuôn khổ do tính tiện ích đặt ra, tạo dáng cho mỗi
sản phẩm theo quan điểm của mình về cái đẹp. Tuy vậy, do thị hiếu và sở thích
theo mốt của người tiêu dùng và do các ảnh hưởng văn hoá mà nhà sản xuất làm
ra hàng loạt các sản phẩm có hình dạng như nhau hay theo cùng một kiểu.
Cho tới cuộc cách mạng công nghiệp thì đã có nhiều thay đổi diễn ra
trong phương thức hoà trộn nghệ thuật vào các vật dùng hữu ích. Kể từ đó, lần
đầu tiên trong lịch sử loài người, người ta đã bắt đầu có khả năng làm ra các vật
dụng với số lượng lớn thông qua việc sử dụng máy móc và sức mạnh của hơi
nước. Tuy vậy, sản xuất hàng loạt lại dựa vào việc làm ra các sản phẩm giống
nhau và để có thể bán được các sản phẩm này thì chúng phải đáp ứng được các
kỳ vọng của người tiêu dùng không những về tính tiện ích mà còn về hình dáng
bên ngoài sao cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng.
Do vậy mà tầm quan trọng của hình dáng bên ngoài của sản phẩm không
giảm đi cùng với quá trình cơ khí hoá sản xuất. Trái lại, giá trị tài chính của
hình dáng bên ngoài của sản phẩm trong việc lôi cuốn khách hàng trở nên ngày
càng được khẳng định hơn. Một doanh nghiệp có thể kiếm lợi qua việc nhanh
chóng sản xuất ra số lượng lớn những sản phẩm có hình dáng bên ngoài hấp
dẫn đối với thị hiếu của công chúng. Chính vì thế, kể từ khi bắt đầu cuộc cách
mạng công nghiệp, cả doanh nghiệp lẫn Chính phủ ngày càng chú ý hơn tới
việc tối đa hoá các khoản lợi mà hình dáng bên ngoài (chính là KDCN) của sản
phẩm có thể đem lại cho cả doanh nghiệp lẫn người tiêu dùng. Điều đó đòi hỏi
cần phải có một cơ chế nhằm vừa đảm bảo quyền lợi cho doanh nghiệp, cho tác
giả của KDCN, nhưng cũng đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng. Đó chính
là cơ sở, yêu cầu cho sự ra đời của pháp luật về bảo hộ KDCN.


-2Trong thời đại phát triển của nền kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc
tế hiện nay, quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền SHCN đối với KDCN nói
riêng ngày càng có vai trò quan trọng. Trong nền kinh tế tri thức, mặc dù các
yếu tố như tài nguyên thiên nhiên, lao động, vốn, v.v.. vẫn có vai trò quan

trọng, nhưng tri thức đã trở thành lực lượng vật chất to lớn, là nhân tố quyết
định của sản xuất. Các công trình nghiên cứu khoa học, sáng chế, giải pháp hữu
ích, KDCN,.v.v.. đã và đang là những yếu tố không thể thiếu trong sự phát triển
của mỗi quốc gia. Nói cách khác, các đối tượng SHCN, trong đó có KDCN là
bộ phận cấu thành quan trọng trong các giao lưu kinh tế - thương mại. Với việc
mở cửa hội nhập, với làn sóng toàn cầu hoá nền kinh tế, các quan hệ làm ăn
buôn bán không chỉ còn giới hạn trong lãnh thổ của từng nước, mà đã vươn ra
khỏi biên giới của quốc gia. Quyền SHCN đối với KDCN, cũng như các tài sản
sở hữu trí tuệ khác lại càng đóng vai trò quan trọng hơn bao giờ hết để tăng
cường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, giữa các nền kinh tế. Nhưng là loại tài
sản dễ lan truyền, phổ biến, nó cũng là loại tài sản dễ bị đánh cắp, xâm hại
nhất. Vì lẽ đó, yêu cầu bảo hộ về KDCN lại càng ngày được đề cao, hướng đến
một sự bảo hộ pháp lý về KDCN mang tính đa quốc gia, điều đó đòi hỏi sự xuất
hiện của các văn bản pháp lý quốc tế về KDCN (các ĐƯQT).
Việt Nam, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, sự gia tăng, đa dạng của các loại hình sản phẩm, người tiêu
dùng không chỉ còn quan tâm đến chất lượng của sản phẩm, còn hình thức thế
nào cũng được (như thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp),
mà cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, người tiêu dùng dần chú trọng
hơn đến hình thức của sản phẩm (dường như càng ngày hình thức sản phẩm
càng đóng vị trí quan trọng trong việc quyết định mua hàng của công chúng),
vì lẽ đó các doanh nghiệp đều mong muốn tạo ra nhiều sản phẩm với KDCN tối
ưu, thu hút được sự quan tâm của công chúng, việc đầu tư vào nghiên cứu, triển
khai áp dụng các KDCN mới vì thế cũng ngày một được chú trọng. Khi mà
KDCN là một trong những lợi thế cạnh tranh, thì cũng có nghĩa là những hoạt
động nhằm cướp đoạt thành quả của người khác sẽ xuất hiện - việc sử dụng
các KDCN của doanh nghiệp khác đầu tư để áp vào sản phẩm của mình xảy ra
ngày một nhiều, dưới nhiều hình thức tinh vi. Bởi lẽ KDCN là một trong những
yếu tố quan trọng mang lại sức thu hút của sản phẩm, tuy nhiên nó lại không
phải là cái gì bí mật, mà hoàn toàn ai cũng có thể nhìn thấy và rất dễ sao chép.

Rất nhiều sản phẩm của các nhà sản xuất chân chính đã bị nhái lại KDCN,
gây nên nhiều thiệt hại về kinh tế, uy tín của doanh nghiệp. Có thể thấy rất rõ ở


-3các vụ việc như việc ăn cắp KDCN đối với các loại xe máy như Wave, Dream,
Future, Spacy của hãng Honda, ăn cắp KDCN đối với các loại võng xếp đã
được cấp văn bằng bảo hộ của Công ty Duy Lợi, hay các sản phẩm về đồ nội
thất của Công ty Hoà Phát, Công ty Xuân Hoà cũng vậy. Chính vì vậy, để đảm
bảo cho một môi trường cạnh tranh lành mạnh, một sự phát triển kinh tế bền
vững, yêu cầu về sự hình thành và tăng cường cơ chế bảo hộ KDCN bằng pháp
luật để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả KDCN, các doanh
nghiệp là chủ sở hữu hợp pháp KDCN và đồng thời cũng là bảo vệ cho quyền
lợi của người tiêu dùng là thực sự cần thiết. Thêm vào đó, việc hội nhập sâu
hơn vào các quá trình kinh tế quốc tế đối với Việt Nam không đơn giản chỉ là
yêu cầu bắt buộc của thời đại. Lợi ích lâu dài của việc hội nhập là điều hết sức
rõ ràng. Vì vậy, tăng cường hội nhập, nỗ lực tối đa cho công cuộc này được coi
là một trong những nhiệm vụ chiến lược cấp bách và có tầm quan trọng hàng
đầu hiện nay của Nhà nước ta. Là một bộ phận không thể tách rời của thế giới,
Việt Nam, trong sự phát triển của mình không thể không tính đến những chiều
hướng chung của thế giới, của thời đại theo phương châm kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại. Theo tinh thần đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IX đã xác định: Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa

phương hoá, đa dạng hoá; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù
hợp với điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan
hệ song phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt Mỹ, tiến tới gia nhập WTO [6, tr. 199]; Trong các thiết chế kinh tế quốc tế
mà Việt Nam đã và sẽ tham gia, đặc biệt là ASEAN và WTO, SHTT luôn có
vai trò hết đặc biệt quan trọng và giữ vị trí trung tâm. Trong hệ thống pháp luật
Việt Nam cũng như hệ thống pháp luật của các nước, bảo hộ quyền SHTT cũng
được coi là chế định có tầm quan trọng hàng đầu, trong đó có vấn đề bảo hộ

quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp. Chính vì thế, pháp luật về SHTT
của Việt Nam nói chung, pháp luật về KDCN nói riêng cần phải đáp ứng được
những chuẩn mực chung của sân chơi quốc tế, điều đó cũng có nghĩa là pháp
luật về KDCN cần phải tiếp tục được hoàn thiện hơn nữa.
Thực tế cho thấy, mặc dù đã có rất nhiều cố gắng và nhiều sự phát triển
lớn trong xây dựng pháp luật, nhưng pháp luật về bảo hộ KDCN của Việt Nam
vẫn thực sự còn nhiều hạn chế, bất cập và chồng chéo. Các quy định về KDCN
chỉ chiếm một phần nhỏ trong một chương quy định về SHTT của Bộ luật dân
sự đồ sộ. Việc tiến hành bảo hộ KDCN trên thực tế chủ yếu chỉ dựa vào các văn
bản dưới luật của Chính phủ và các Bộ liên quan. Nhưng các văn bản này xét về


-4hiệu lực thì rõ ràng là không cao, hơn nữa lại không có tính ổn định lớn và
cũng còn rất sơ lược. Chính vì vậy, một trong những nhu cầu cấp bách đặt ra là
cần phải tiếp tục hoàn thiện hơn nữa việc bảo hộ KDCN ở Việt Nam, trong đó
có chú ý tới sự tương thích với các ĐƯQT và thông lệ phổ biến của thế giới để
tạo tiền đề thuận lợi cho công cuộc hội nhập kinh tế - quốc tế.
Với những lý do trên, việc nghiên cứu Bảo hộ kiểu dáng công nghiệp ở
Việt Nam - thực trạng và giải pháp hoàn thiện - dưới giác độ khoa học pháp lý
- có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng to lớn. Đó cũng chính là lý do tôi
quyết định chọn đề tài này làm luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
- ở nước ngoài: Chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập một cách
toàn diện và có hệ thống đến Bảo hộ kiểu dáng công nghiệp ở Việt Nam - thực
trạng và giải pháp hoàn thiện mà chỉ có các công trình nghiên cứu về bảo hộ
quyền SHTT nói chung ở các nước. Một số công trình có thể trích dẫn và tham
khảo chính là:

+ Intellectual Property in ASIA, Arthur Wineburg, editor - salem, N.H:
Butterworth Legal Publishers, C 1991.

+ Intellectual Property:Patents, copyright, Trademarks, and allied rights,
by W.R.Cornish - 2nd editor - London: Sweet&Maxwell, 1989.
+ Meihardt P. Inventions, Patents and Trade Marks. Gower Press. Epping
1991.
+ Taylor C., Silberston Z. The economic impact of the patent system. A
study of the British experience Cambridge 1993.
- trong nước: Cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu chuyên
biệt nào về Bảo hộ kiểu dáng công nghiệp ở Việt Nam - thực trạng và giải
pháp hoàn thiện, vấn đề này chỉ được điểm qua trong một số công trình
nghiên cứu về bảo hộ SHTT và hầu hết là được trình bày dưới dạng các bài viết,
bài giảng, chuyên đề khoa học...
Liên quan đến vấn đề hoàn thiện việc bảo hộ KDCN ở Việt Nam, có thể
nêu một số công trình nghiên cứu sau đây:

+ Đánh giá thực trạng, đề xuất các khuyến nghị hoàn thiện hệ thống pháp
luật và thiết chế trong nước để đáp ứng yêu cầu của các thoả thuận ASEAN và
WTO (Khoa pháp luật kinh tế - Trường ĐH Luật Hà Nội, 2000, Dự án
VIE/98/001 Tăng cường năng lực pháp luật tại Việt Nam, giai đoạn II).
+ Bảo hộ quốc tế quyền SHTT (Nguyễn Bá Diến, Tập bài giảng của Dự án
ADB - TA - N0 2853 - VIE, 2000).


-5-

+ Một số vấn đề về hoàn thiện khung pháp luật bảo hộ quyền SHTT trong
điều kiện Việt Nam hội nhập khu vực và quốc tế (Nguyễn Bá Diến, Báo cáo tại
hội thảo khoa học của Khoa Luật - ĐHQG Nhà nước và pháp luật Việt Nam
trước thềm thiên niên kỷ mới 3-4/1/2001, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
4/2001, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số chuyên đề 2/2001).
+ Đề tài NCKH "Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về SHTT" của Trường

Đại học Luật Hà Nội, năm 2002.
Chưa có một công trình chuyên khảo nào nghiên cứu một cách toàn diện,
có hệ thống và đầy đủ về những vấn đề lý luận và thực tiễn đối với việc Bảo
hộ kiểu dáng công nghiệp ở Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Với tên gọi của đề tài rõ ràng có rất nhiều vấn đề cần được làm rõ, tuy nhiên,
trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ đi sâu vào nghiên cứu một
số vấn đề lý luận cơ bản về KDCN, đánh giá khái quát hệ thống pháp luật về bảo
hộ KDCN ở Việt Nam hiện nay và đưa ra một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện
việc bảo hộ KDCN ở Việt Nam. Đặc biệt, khác với quyền tác giả, quyền sở hữu
KDCN liên quan trực tiếp và quan hệ mật thiết đối với chủ sở hữu KDCN, do đó
trong phạm vi đề tài, tác giả chú trọng phân tích đến quyền và nghĩa vụ của chủ sở
hữu KDCN, mà không xem xét nhiều đến quyền và nghĩa vụ của tác giả KDCN
(trong trường hợp tác giả không đồng thời là chủ sở hữu KDCN).
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài, các phương pháp được tác giả sử
dụng đó là: Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử,
phương pháp so sánh, phương pháp phân tích và tổng hợp. Ngoài ra còn có
một số phương pháp khác như phương pháp thống kê, phương pháp lựa chọn
điển hình
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về
KDCN, pháp luật về KDCN, đánh giá khái quát hệ thống pháp luật về bảo hộ
KDCN ở Việt Nam hiện nay và đưa ra một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện
việc bảo hộ KDCN ở Việt Nam.
Để đạt được mục đích trên, các nhiệm vụ được đặt ra cho việc nghiên cứu
đề tài là:
+ Nghiên cứu nhằm rút ra một số vấn đề lý luận cơ bản về KDCN, pháp
luật về bảo hộ KDCN.
+ Đánh giá khái quát hệ thống pháp luật về bảo hộ KDCN ở Việt Nam trong

những năm qua, từ đó rút ra các nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém, hạn chế.


-6+ Đưa ra một số khuyến nghị hoàn thiện việc bảo hộ KDCN ở Việt Nam.
6. Những đóng góp mới của Luận văn
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ
thống, tổng quát và chuyên biệt về Bảo hộ kiểu dáng công nghiệp ở Việt Nam
- thực trạng và giải pháp hoàn thiện, luận văn có những đóng góp mới sau:
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về KDCN, pháp luật về KDCN như
định nghĩa KDCN, tiêu chí bảo hộ KDCN, phân loại KDCN, các chức năng của
KDCN, mối quan hệ giữa KDCN với sáng chế, giải pháp hữu ích, nhãn hiệu
hàng hoá, đối tượng của quyền tác giả.
+ Hệ thống hoá các quy định pháp lý về bảo hộ KDCN ở Việt Nam qua
các giai đoạn lịch sử.
+ Làm rõ thực trạng pháp luật về bảo hộ KDCN ở Việt Nam hiện hành,
qua đó chỉ ra những thiếu sót, bất cập.
+ Đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ KDCN.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài Lời nói đầu và kết luận, luận văn bao gồm 03 Chương, 10 mục.
Ni dung ca lun vn
Chng 1: Mt s vn lý lun c bn v KDCN

1.1. Khái niệm Kiểu dáng công nghiệp
1.2. Tiêu chí bảo hộ KDCN
1.3. Phân loại KDCN
1.4. Các chức năng của KDCN
1.5. Mối quan hệ giữa KDCN với sáng chế, giải pháp hữu ích, nhãn hiệu hàng
hoá và đối tượng của quyền tác giả
Chng 2: Phỏp lut v bo h KDCN Vit Nam


2.1. Xác lập và chấm dứt quyền SHCN đối với KDCN
2.2. Nội dung quyền SHCN đối với KDCN
2.3. Chuyển giao quyền sở hữu và quyền sử dụng KDCN
Chng 3: Thc trng bo h KDCN v mt s kin ngh hon
thin vic bo h KDCN Vit Nam

3.1. Thực tiễn bảo hộ KDCN ở Việt Nam
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo hộ KDCN ở Việt Nam
Kt lun
Ph lc
Danh mc ti liu tham kho


-7CHNG I
MT S VN Lí LUN C BN V KDCN
1.1. Khái niệm KDCN
Trước khi đưa ra một định nghĩa chuẩn về KDCN (KDCN), theo chúng
tôi, về mặt lý luận, cần phải nhìn nhận rõ một vấn đề mang tính định hướng, đó
là: Định nghĩa về KDCN chỉ đơn thuần diễn đạt nội hàm của khái niệm này hay
định nghĩa đó hàm chứa cả các điều kiện (tiêu chí) để một KDCN được bảo hộ
bằng pháp luật? Theo chúng tôi sẽ là khoa học hơn khi định nghĩa KDCN chỉ
phản ánh những đặc điểm thuộc về bản chất, còn tiêu chí bảo hộ cần được tách
biệt với định nghĩa KDCN. Bởi lẽ một KDCN không được bảo hộ (ví dụ một
KDCN được tạo ra sau khi đã có một KDCN tương tự đã được cấp văn bằng
bảo hộ) thế nhưng nó vẫn phải được coi là KDCN, chứ không thể vì lý do là
không được bảo hộ (không có tính khác biệt với KDCN đã được bảo hộ) mà nó
không được coi là KDCN. Với cách tiếp cận đó, trong phần này chúng tôi sẽ
tập trung làm rõ và xây dựng định nghĩa chuẩn về KDCN.
Xét một cách khái quát, theo định nghĩa tại Điều 2, Công ước Stockholm
1967 về việc thành lập Tổ chức SHTT thế giới (WIPO): "SHTT được hiểu rộng


hơn và bao gồm các quyền liên quan tới các sản phẩm văn học, nghệ thuật,
khoa học; sự trình diễn của các nghệ sĩ, các chương trình phát và truyền thanh,
phát và truyền hình; các sáng chế thuộc mọi lĩnh vực; các phát minh khoa học;
kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ, các tên thương
mại và chỉ dẫn thương mại, chống cạnh tranh không lành mạnh và các quyền
khác là kết quả của hoạt động trí tuệ trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ,
văn học, nghệ thuật. Như vậy, trước hết có thể khẳng định rằng KDCN là một
trong các đối tượng của quyền SHTT, và vì thế nó cũng có những đặc tính
chung của các tài sản trí tuệ1.
Tuy nhiên, về nội hàm cụ thể của khái niệm KDCN thì xét trên phạm vi
toàn thế giới vẫn đang tồn tại nhiều cách hiểu, với nhiều tiêu chí khác nhau. Có
thể tham chiếu một số định nghĩa cơ bản sau đây:
Theo định nghĩa của Tổ chức SHTT thế giới (WIPO):

KDCN là các khía cạnh mang tính chất trang trí hay thẩm mỹ của sản
phẩm. Kiểu dáng có thể bao hàm các khía cạnh 3 chiều, ví như hình
dạng hoặc bề mặt của sản phẩm, hoặc các khía cạnh 2 chiều, ví như
mẫu hoa văn, đường nét hoặc màu sắc [24].
1

Đó là sản phẩm của sự sáng tạo, có tính chất vô hình, tính dễ bị phổ biến, lan truyền


-8Như vậy, theo WIPO, KDCN được xác định trước hết ở tính chất trang trí
hay thẩm mỹ của nó. Cùng với đó, KDCN cũng được xác định là biểu hiện bên
ngoài của sản phẩm và biểu hiện đó có thể là ở không gian hai chiều hoặc ba
chiều. ở đây định nghĩa cũng chỉ lấy ví dụ về các cách thể hiện ở không gian
hai chiều hay ba chiều, chứ không quy định theo kiểu liệt kê. Có thể thấy, với
cách định nghĩa như trên là một kiểu định nghĩa mở, cho phép hiểu về

KDCN theo một nghĩa rất rộng.
* Theo pháp luật Mỹ thì:

Kiểu dáng bao gồm các đặc tính trang trí được thể hiện hay áp dụng
trong một sản phẩm. Vì kiểu dáng được thể hiện ở hình dáng bên
ngoài nên đối tượng bảo hộ kiểu dáng có thể là hình dạng của một
sản phẩm, là trang trí mặt ngoài của một sản phẩm, hay là sự kết hợp
giữa hình dạng và trang trí bề ngoài. Một kiểu dáng trang trí bề ngoài
không thể tách rời sản phẩm mà nó trang trí và do vậy không thể tự
thân tồn tại một mình được [9, tr. 5].
Theo pháp luật Mỹ, đặc tính trang trí của KDCN đã được nhấn mạnh ngay
từ đầu. Bên cạnh đó, mặc dầu định nghĩa không đề cập rõ, nhưng thông qua
việc khẳng định KDCN được thể hiện ở hình dạng sản phẩm thì cũng cho thấy
rằng KDCN có thể được thể hiện ở không gian hai chiều hoặc ba chiều. ở định
nghĩa này, cũng đặt ra yêu cầu là KDCN phải luôn gắn liền với sản phẩm, theo
nghĩa đó pháp luật Mỹ loại trừ cái gọi là KDCN nhưng lại không gắn với một
sản phẩm cụ thể.
Theo định nghĩa của Liên minh Châu Âu [21]:

Kiểu dáng là hình dạng bên ngoài của một sản phẩm hay của một số
bộ phận của sản phẩm. Kiểu dáng có thể được cấu thành từ các
đường nét, màu, hình, bố cục hay trang trí.
Như vậy, khác với WIPO, Mỹ, Liên minh Châu Âu không đề cập đến tính
chất thẩm mỹ của KDCN. Trong khi đó chỉ xác định KDCN là biểu hiện bên
ngoài của sản phẩm và liệt kê cụ thể các yếu tố hợp thành KDCN đó là đường
nét, màu sắc, hình, bố cục hay trang trí. Như thế, hiểu gián tiếp thì KDCN có
thể được biểu đạt ở dạng không gian hai chiều hoặc ba chiều.
Theo định nghĩa của Luật về KDCN Australia [24]:

Kiểu dáng là biểu hiện toàn cảnh của sản phẩm. Những đặc điểm có

thể nhìn thấy cấu tạo nên kiểu dáng bao gồm hình dáng (shape), hình
khối (configuration), hoa văn, mẫu trang trí, những cái mà khi áp vào
sản phẩm, mang lại cho nó một vẻ bên ngoài khác biệt. Một kiểu


-9-

dáng đã đăng ký có thể là một tài sản thương mại có giá trị, sự đăng
ký kiểu dáng cho phép chủ sở hữu một sự bảo vệ cho dáng vẻ bên
ngoài của sản phẩm nhưng không phải là nguyên tắc hoạt động bên
trong của sản phẩm.
Cũng giống như Luật của Liên minh Châu Âu, Australia cũng không đề
cập đến tính chất thẩm mỹ của KDCN. Luật chỉ khẳng định KDCN phải là biểu
hiện bên ngoài của sản phẩm và đưa ra các yếu tố cấu thành nên KDCN đó là
hình dáng, hình khối (cũng có thể hiểu là cùng nghĩa với hình dáng), hoa văn
và mẫu trang trí. Thêm vào đó, định nghĩa cũng khẳng định KDCN phải là bề
ngoài của sản phẩm chứ không phải là nguyên tắc hoạt động của sản phẩm hay
những thứ thuộc về bên trong của sản phẩm. Như thế, cho dù không được nói
rõ, nhưng cũng có thể thấy được là KDCN có thể biểu hiện ở dạng không gian
hai chiều hoặc không gian ba chiều.
Theo Luật KDCN của Canada thì [22]:

Kiểu dáng hay KDCN là các khía cạnh của hình dạng, hình khối,
mẫu hoa văn hay đồ trang trí và bất kỳ sự kết hợp nào của các khía
cạnh đó, trong một sản phẩm hoàn thiện, hấp dẫn và xét đoán được
bởi mắt thường.
Giống như Luật của Liên minh Châu Âu, Australia, Luật KDCN của
Canada cũng bắt đầu định nghĩa bằng cách liệt kê các dạng KDCN. Thêm vào
đó nó cũng khẳng định KDCN phải có tính hấp dẫn - chính là tính thẩm mỹ.
Hơn nữa, Luật yêu cầu KDCN phải xét đoán được (cảm nhận được) bằng mắt

thường. Như vậy, cũng có nghĩa là những KDCN gắn với những sản phẩm mà
không thể nhìn thấy bằng mắt thường sẽ không được bảo hộ với tư cách là
KDCN. Đây là một điểm khác biệt so với Luật của các nước nói trên.
Theo Luật KDCN của Nhật Bản [8, tr. 5]:

Kiểu dáng là hình dáng, kiểu mẫu, hay màu sắc, hay sự kết hợp của
các nhân tố đó của một sản phẩm, là cái thông qua thị giác gợi lên
một cảm xúc mỹ học. Do vậy, kiểu dáng phải có sức hấp dẫn đối với
thị giác.
Có thể thấy người Nhật đã rất mạch lạc, rõ ràng khi đưa ra định nghĩa về
KDCN, thông qua đó có thể thấy các dạng yếu tố thể hiện cơ bản của một
KDCN, khẳng định KDCN phải gắn với sản phẩm, yêu cầu về tính thẩm mỹ và
cuối cùng KDCN phải cảm nhận được bởi thị giác.
Theo Trung Quốc thì [9, tr. 5]:


- 10 -

Kiểu dáng là bất kỳ nét mới nào của hình dáng, kiểu mẫu, hay màu
sắc, hay sự kết hợp của các yếu tố đó với nhau, của một sản phẩm, là
những cái tạo ra một ấn tượng mang tính thẩm mỹ và thích hợp với
việc áp dụng công nghiệp.
Trung Quốc cũng liệt kê ra các dạng biểu hiện của một KDCN, khẳng
định tính gắn kết của KDCN với sản phẩm, yêu cầu về tính thẩm mỹ của
KDCN. Nhưng đã đưa thêm một yêu cầu nữa đó là KDCN phải có khả năng áp
dụng vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp.
Theo Luật mẫu dành cho các nước đang phát triển (năm 1964) tại Điều 2
(1) [9, tr.4]:

Bất cứ sự phối hợp nào của các đường nét hay các màu sắc hay là bất

cứ một hình thức ba chiều nào, cho dù hình thức đó có gắn với các
đường nét hay màu sắc hay không đều được coi là một KDCN với
điều kiện là sự phối hợp hay hình thức đó phải đem lại một hình dáng
bên ngoài đặc biệt cho một sản phẩm công nghiệp hay thủ công
nghiệp và có thể được dùng làm mẫu để sản xuất ra sản phẩm theo
phương pháp công nghiệp hay thủ công nghiệp.
Theo định nghĩa này thì điều kiện cần đối với một KDCN đó là được thể
hiện dưới các đường nét, màu sắc, sự phối hợp giữa chúng hoặc các hình thức
ba chiều (có thể có sự phối hợp với đường nét, màu sắc hoặc không) của một
sản phẩm. Còn điều kiện đủ là nó phải có tính khác biệt và phải có khả năng áp
dụng vào lĩnh vực công nghiệp hoặc thủ công nghiệp.
Theo định nghĩa của Hiệp định TRIPs (Điều 25 khoản 1): Hiệp định
không đưa ra định nghĩa cụ thể về KDCN, nhưng yêu cầu KDCN phải có tính
mới hoặc nguyên gốc (hai đặc tính này sẽ được làm rõ về nội dung ở phần sau).
Nhìn xuyên suốt các Điều ước quốc tế đa phương có liên quan về KDCN
thì kể cả Công ước Paris 1883, cũng như Thoả ước Lahay đều không đưa ra
một định nghĩa hoặc tiêu chí nào về một KDCN, mà dành việc đó cho các quốc
gia thành viên quy định. Cho đến Hiệp định TRIPs, mặc dù cũng không đưa ra
một định nghĩa chi tiết về KDCN, nhưng lần đầu tiên đã xác định các tiêu chí
cần thiết để một KDCN được bảo hộ đó là tính mới hoặc tính nguyên gốc.
Theo định nghĩa của Cuốn từ điển về luật học nổi tiếng trên thế giới Blacks Law Dictionary [20, tr.308], thì:

Kiểu dáng là các đặc điểm của một dạng vật chất, với nghĩa là đường
nét, hình ảnh, hình khối, và sự tổng hợp các yếu tố đó, tạo ra một ấn
tượng bởi mắt thường của người quan sát. Bản chất của một kiểu dáng


- 11 -

không chỉ tập trung ở các yếu tố riêng lẻ, cũng không ở trong phương

pháp sắp đặt chúng, mà ở trong toàn bộ tổng thể - ở trong tổng thể
không xác định được đó - cái mà đưa lại một vài cảm nhận trong đầu
óc của người quan sát. ấn tượng - được mang lại theo cách như trên,
có thể là phức tạp hoặc đơn giản. Nhưng bất cứ ấn tượng nào, sẽ có sự
gắn kết với đầu óc của người quan sát, về đối tượng được quan sát,
một cảm nhận về tính độc nhất và nét đặc biệt.
Mặc dù cách định nghĩa này có vẻ rất trừu tượng, nhưng thông qua đó ta
cũng có thể rút ra các đặc điểm cần có ở một KDCN theo Blacks Law
Dictionary, đó là: KDCN là biểu hiện bên ngoài của sản phẩm (ở dạng không
gian hai chiều hoặc ba chiều); KDCN phải cảm nhận được bởi thị giác và nó
phải có tính độc nhất (khác biệt với các KDCN khác).
Trên đây là một số cách định nghĩa của thế giới về KDCN, còn đối với
Việt Nam [17] thì KDCN được hiểu như sau:

KDCN là hình dáng bên ngoài của sản phẩm, được thể hiện bằng
đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp của những yếu tố đó,
có tính mới đối với thế giới và dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm
công nghiệp hoặc thủ công nghiệp.
Nhìn chung, từ các định nghĩa trên có thể rút ra các đặc điểm của KDCN
đã được đề cập ít nhiều ở nước này hay nước khác, đó là:
+ Kiểu dáng là biểu hiện bên ngoài của sản phẩm (do vậy nó phải gắn liền
với sản phẩm): hình dáng, hình khối, hoa văn, mẫu trang trí, hoặc bất kỳ
sự kết hợp nào của các yếu tố đó (Australia, Canada, WIPO, Nhật Bản,
Trung Quốc, Mỹ, Luật mẫu dành cho các nước đang phát triển, Luật của
EU, Việt Nam).
+ Kiểu dáng có thể ở dạng không gian hai chiều hoặc không gian ba chiều
(Australia (hình khối), Canada (hình khối), WIPO, Luật mẫu dành cho các
nước đang phát triển)
+ Có tính khác biệt (Australia, Luật mẫu dành cho các nước đang phát triển)
+ Có tính thẩm mỹ (hấp dẫn) (Canada, WIPO, Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ)

+ Phải nhận biết được bằng mắt thường (Canada, Nhật Bản)
+ Có thể dùng làm mẫu sản xuất công nghiệp (khả năng áp dụng công
nghiệp) (Trung Quốc, Luật mẫu dành cho các nước đang phát triển,
Việt Nam)
+ Có tính mới (TRIPs, Việt Nam)
+ Có tính nguyên gốc (TRIPs)


- 12 Như vậy, tuy định nghĩa về KDCN theo pháp luật mỗi nước, mỗi quan
điểm còn một vài chỗ chưa thực sự đồng nhất, nhưng về cơ bản các định nghĩa
được viện dẫn đều đã cơ bản thống nhất được với nhau thế nào là một KDCN.
Thêm nữa, có thể thấy định nghĩa KDCN được đưa ra trong pháp luật Việt Nam
là khá tương đồng với pháp luật các nước trên thế giới.
Những đặc điểm về KDCN được rút ra từ các định nghĩa trên, có thể nói
đều rất quan trọng. Có định nghĩa thì nhấn mạnh yếu tố này, có định nghĩa lại
nhấn mạnh yếu tố khác.
Với tinh thần là định nghĩa về KDCN chỉ đơn thuần là định nghĩa mang
tính bản chất mà không bao gồm cả tiêu chí bảo hộ, chúng ta cần rút ra những
đặc điểm nào là thuộc về bản chất của một KDCN nói chung. ở giác độ này,
theo chúng tôi hợp lý nhất để khẳng định một sự vật có phải là KDCN hay
không cần dựa vào hai yếu tố: KDCN phải là biểu hiện bên ngoài của một sản
phẩm và KDCN phải có khả năng áp dụng vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp
hoặc thủ công nghiệp. Cụ thể là:
+ KDCN phải là biểu hiện bên ngoài của sản phẩm. Biểu hiện bên ngoài
này có thể là đường nét, hình khối, màu sắc, hoặc sự kết hợp những yếu tố đó.
Theo đó, cách thức biểu hiện ở đây có thể là ở dạng không gian hai chiều hoặc
không gian ba chiều. Những gì thuộc về bên trong sản phẩm thì không thể được
coi là KDCN.
+ KDCN phải có khả năng dùng làm mẫu để sản xuất ra sản phẩm bằng
phương pháp công nghiệp hay thủ công nghiệp. Sản phẩm phải có khả năng tái

tạo bằng các phương tiện công nghiệp - đây cũng chính là lý do tại sao kiểu
dáng lại được gọi là KDCN. Ví dụ như một nhà thiết kế ra mô hình kiểu dáng
của một chiếc đĩa bay, trong trường hợp này nó sẽ không được coi là một
KDCN, bởi đơn giản là ở thời điểm hiện tại nó chưa thể được áp dụng cho sản
xuất công nghiệp. Khả năng áp dụng vào công nghiệp chính là một đặc điểm
mang tính bản chất của KDCN. Vì thế trong hầu hết pháp luật các nước đều
quy định về khả năng áp dụng công nghiệp của KDCN. Theo đó, KDCN phải là
hình dáng bên ngoài của sản phẩm được sản xuất bằng phương pháp công
nghiệp hoặc thủ công nghiệp (Hoa Kỳ, EU, Indonesia, Malaysia, Philippines )
hoặc hình dáng bên ngoài của sản phẩm được sản xuất công nghiệp (Nhật Bản,
Hàn Quốc). Pháp luật Việt Nam hiện hành cũng đã đưa tiêu chí này vào trong
định nghĩa về KDCN và nhằm bảo hộ cho lĩnh vực thủ công nghiệp, chúng ta
cũng quy định theo hướng khả năng áp dụng vào công nghiệp được hiểu là có
thể chế tạo hàng loạt bằng phương pháp công nghiệp hoặc thủ công nghiệp sản


- 13 phẩm có hình dáng bên ngoài là KDCN (khoản 2 Điều 5 Nghị định 63/CP), chứ
không chỉ bảo hộ đối với loại KDCN mà nó chỉ có thể chế tạo hàng loạt bằng
phương pháp công nghiệp.
Theo chúng tôi, các đặc điểm còn lại (như đã liệt kê ở trên) không thể
được coi là đặc điểm mang tính bản chất của KDCN, bởi những lẽ sau:
- Tính mới, tính khác biệt, tính nguyên gốc: Theo chúng tôi đây chỉ là các
yêu cầu để một KDCN được bảo hộ, chứ không phải là đặc điểm của KDCN.
Cho dù có tính mới, tính khác biệt, tính nguyên gốc hay không, nhưng nếu có 2
đặc điểm trên, nó vẫn phải được coi là KDCN, chỉ có điều muốn được bảo hộ
về quyền và lợi ích thì tuỳ theo pháp luật của mỗi nước mà yêu cầu phải có tính
mới, tính khác biệt hay tính nguyên gốc.
- KDCN phải có tính độc đáo về thẩm mỹ. Tức là KDCN phải tạo ra sức
hấp dẫn cho sản phẩm đối với công chúng. Theo chúng tôi nếu có đặt ra tiêu
chí này thì nó sẽ là một yếu tố thuộc về tiêu chuẩn bảo hộ. Nói đến KDCN có

tính hấp dẫn hay không đó là nói đến giá trị của KDCN trên thực tế (có nghĩa
là pháp luật chỉ xác định bảo hộ cho những KDCN có giá trị (có tính thẩm mỹ)
mà thôi, chứ không đặt ra đối với những KDCN không có tính thẩm mỹ), còn
rõ ràng với một biểu hiện bên ngoài của sản phẩm và chúng được đưa vào sản
xuất công nghiệp, thủ công nghiệp thì dù xấu hay đẹp, biểu hiện bên ngoài của
sản phẩm đó vẫn phải được coi là KDCN.
- Về việc KDCN phải được nhận biết bằng mắt thường. Theo chúng tôi, đặc
điểm này phái sinh từ tính thẩm mỹ của KDCN. Bởi rõ ràng tính thẩm mỹ phải
được nói đến trong bối cảnh có sự nhận biết bằng mắt thường của công chúng.
Không thể nói KDCN có tính thẩm mỹ mà lại không thể nhận biết bằng mắt
thường. Bởi tính thẩm mỹ này phải được quan niệm ở góc độ dễ dàng cảm
nhận, nên không thể đặt ra tình huống đối với những KDCN của những sản
phẩm chỉ có thể nhìn thấy được với sự trợ giúp bởi các thiết bị khoa học như
kính lúp, kính hiển vi
Với những phân tích trên, theo chúng tôi, có thể định nghĩa về KDCN như
sau: KDCN là biểu hiện bên ngoài của sản phẩm, được thể hiện bằng đường

nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp của những yếu tố đó và có khả năng áp
dụng công nghiệp.
Vì định nghĩa KDCN liên quan đến khái niệm sản phẩm, do đó để hiểu
rõ về định nghĩa KDCN thì nhất thiết cũng cần làm sáng tỏ thêm thế nào là
sản phẩm (pháp luật của nhiều nước trên thế giới cũng định nghĩa rất rõ trong
luật, ví như Chỉ thị của EU, Luật của Malaysia). Trên cơ sở nghiên cứu và tham


- 14 khảo pháp luật của các nước có thể định nghĩa về sản phẩm được hiểu trong
phạm vi pháp luật về KDCN như sau: sản phẩm được hiểu là đồ vật, dụng cụ,

thiết bị, phương tiện được sản xuất bằng phương pháp công nghiệp hoặc thủ
công nghiệp, có kết cấu và chức năng rõ ràng, được lưu thông độc lập.

Liên quan đến vấn đề sản phẩm, cũng cần nói thêm rằng trên thực tế có
trường hợp rất dễ nhầm lẫn một đối tượng có phải là sản phẩm không. Ví dụ
đối tượng là hộp đựng yến sào (xem Phụ lục 1) thì có người cho rằng nó không
được coi là sản phẩm, mà là hộp đựng sản phẩm, tức là chỉ có lon nước yến
được đựng trong hộp là sản phẩm mà thôi. Từ đó dẫn đến việc chỉ đồng ý có
KDCN của lon nước yến, mà không có KDCN của hộp đựng yến sào. Trong
trường hợp này cần phải thấy rằng bản thân hộp đựng yến sào cũng là một sản
phẩm (có nghĩa là hộp đựng một sản phẩm cũng là một sản phẩm) và hoàn toàn
có khả năng bảo hộ KDCN cho hộp đựng yến sào. Thông qua ví dụ này, cũng
cho thấy rõ ràng hơn nhu cầu thực tế về việc phải có một định nghĩa trong pháp
luật về sản phẩm để tránh việc hiểu nhầm như đã nói ở trên.
1.2. Tiêu chí bảo hộ KDCN

1.2.1. Tiêu chí bảo hộ KDCN
Về mặt tiêu chí để bảo hộ một KDCN, theo chúng tôi cần phải đưa ra tiêu
chí bảo hộ nằm ngoài những đặc điểm thuộc về bản chất của một KDCN (đã
liệt kê ở trên), cụ thể tiêu chí đó là: Tính mới.
Mặc dù như đã phân tích ở trên, tính mới không phải là đặc điểm quy
định một sự biểu hiện nào đó có phải là KDCN hay không. Nhưng nó lại là
một trong những điểm then chốt để một KDCN có thể được bảo hộ hay không.
Về nội hàm tính mới thì cũng có những quan điểm khác nhau. Trong điều
khoản quy định về tính mới, phần lớn các nước, đặc biệt là các nước có hệ
thống SHTT hiện đại như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Anh, Đức, đều yêu cầu tính mới
mang tính chất tuyệt đối (nghĩa là mới đối với bất kỳ nơi nào trên thế giới).
Riêng Malaysia chỉ quy định về tính mới trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Trong quy định về tính mới tuyệt đối của các nước kể trên, các KDCN được coi
là không có tính mới nếu đối tượng nêu trong đơn đã bị bộc lộ hoặc sử dụng
công khai (dưới bất kỳ hình thức nào, bằng bất kỳ phương tiện nào) trước ngày
nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên (nếu có đơn yêu cầu hưởng quyền ưu tiên).
Nguồn thông tin được sử dụng để đánh giá tính mới bao gồm các đơn đăng ký

KDCN được công bố trước ngày nộp đơn (hoặc ngày ưu tiên của đơn), các sản
phẩm hoặc các ấn phẩm (dạng giấy, điện tử) về các hình dáng bên ngoài trùng
hoặc tương tự với KDCN yêu cầu bảo hộ. Phần lớn pháp luật của các nước quy


- 15 định hai KDCN được coi là tương tự hoặc không khác biệt cơ bản với nhau nếu
chỉ khác biệt với nhau ở những đặc điểm không dễ dàng nhận biết (vụn vặt,
không quan trọng) và căn cứ vào các đặc điểm đó không thể phân biệt tổng thể
hai kiểu dáng với nhau. Chỉ thị của EU có quy định rõ KDCN được coi là độc
đáo so với các kiểu dáng khác nếu ấn tượng về tổng thể của kiểu dáng đó đối
với người sử dụng đã được thông báo trước khác với ấn tượng về tổng thể đối
với người đó đối với các kiểu dáng đã bộc lộ cho công chúng trước ngày nộp
đơn hoặc ngày ưu tiên của đơn (nếu đơn có yêu cầu hưởng quyền ưu tiên).
Đồng thời, nhiều nước quy định rằng KDCN không bị coi là mất tính mới nếu
bị người khác tự ý công bố mà không được phép của người nộp đơn và ngày
người đó công bố nằm trong thời hạn 6 tháng (Nhật Bản, Trung Quốc) hoặc 12
tháng (Hoa Kỳ và EU) trước ngày nộp đơn đăng ký KDCN.
Về quan điểm khoa học thì hiện nay cũng có nhiều luồng ý kiến khác nhau:
Có học giả cho rằng:
Tính mới phải là tuyệt đối trong thời gian và không gian, điều đó có
nghĩa là tất cả những gì đã được công bố trước đây đều có thể được
nêu lên mà không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Về một
phương diện khác, tính mới có tính tương đối theo nghĩa là sự sáng
tạo không hoàn toàn mới mẻ, nó có thể mượn một vài yếu tố thuộc
lĩnh vực công cộng, nó có thể bao gồm những yếu tố đã biết nhưng
được tác giả sắp đặt, phối hợp theo một cách riêng chứng tỏ có sự
sáng tạo cá nhân. Một mẫu mã có thể mô phỏng thiên nhiên với điều
kiện không phải là một sao chép nguyên vẹn và phải chứng tỏ có
sáng tạo cá nhân [2, tr. 109-110].
Trong khi có người lại quan niệm:

Tính mới của KDCN cũng tương tự như tính mới đối với sáng chế,
giải pháp hữu ích, theo đó một KDCN được coi là không có tính mới
so với KDCN đã có từ trước nếu kiểu dáng đó chỉ khác biệt với kiểu
dáng đã biết bởi các đặc điểm tạo dáng không dễ dàng nhận biết và
ghi nhớ và các đặc điểm đó không thể phân biệt tổng thể hai kiểu
dáng với nhau [13, tr. 121].
Theo pháp luật Việt Nam thực định, cụ thể là tại khoản 1 Điều 5 - Nghị
định 63/CP thì: KDCN được công nhận là có tính mới đối với thế giới theo
Điều 784 BLDS 1995 nếu KDCN đó đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:


- 16 - Khác biệt cơ bản với các KDCN2 được mô tả trong các đơn yêu cầu cấp
Văn bằng bảo hộ KDCN đã được nộp cho cơ quan có thẩm quyền với ngày ưu
tiên sớm hơn.
- Khác biệt cơ bản với KDCN tương tự3 đã được công bố trong bất kỳ nguồn
thông tin nào dưới đây:
+ Các nguồn thông tin liên quan đến việc bảo hộ KDCN ở nước ngoài,
tính từ ngày công bố;
+ Các nguồn thông tin khác liệt kê tại điểm b, khoản 1, Điều 4 Nghị định
này với các chi tiết được sửa đổi thích hợp với KDCN4;
- Trước ngày ưu tiên của đơn yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ, KDCN nêu
trong đơn chưa bị bộc lộ công khai ở trong và ngoài nước tới mức căn cứ vào
đó, người có trình độ trung bình trong lĩnh vực tương ứng có thể thực hiện được
KDCN đó; hình thức bộc lộ có thể là sử dụng hoặc mô tả; nguồn thông tin mà
KDCN được bộc lộ như nêu tại điểm b trên đây.
Trong khoản này, hai KDCN không được coi là khác biệt cơ bản với nhau
nếu chỉ khác biệt bởi các đặc điểm tạo dáng không dễ dàng nhận biết và ghi
nhớ được và các đặc điểm đó không thể dùng để phân biệt tổng thể hai KDCN
đó với nhau.
Tiếp tục cụ thể hoá nội hàm của tính mới, mục 33.5 Thông tư 29 quy định

rõ KDCN nêu trong đơn được coi là mới nếu:
- Không tìm thấy KDCN đối chứng trong nguồn thông tin tối thiểu5; hoặc
- Mặc dù có tìm thấy KDCN đối chứng trong nguồn thông tin tối thiểu
nhưng KDCN nêu trong đơn có ít nhất một đặc điểm tạo dáng cơ bản6 không có
mặt trong tập hợp các đặc điểm tạo dáng cơ bản của KDCN đối chứng, và
- KDCN không phải là hình dáng bên ngoài của sản phẩm đã được biết
đến một cách rộng rãi (không phải là sự thay đổi vị trí hoặc lắp ghép, kết hợp
các đặc điểm của các KDCN đã biết hoặc mang hình dáng tự nhiên vốn có của
cây cối, hoa quả, các loài động vật..., hình dáng của các hình hình học đã được
biết rộng rãi (ví dụ: hình tròn, hình elíp, hình tam giác, hình vuông, chữ nhật,
2
Hai KDCN được coi là trùng lặp nhau nếu có cùng tập hợp các đặc điểm tạo dáng cơ bản y hệt nhau (khoản a
mục 33.4. Thông tư 29).
3
Hai KDCN được coi là tương tự nhau nếu có cùng tập hợp các đặc điểm tạo dáng cơ bản có phần lớn đặc điểm
tạo dáng cơ bản giống nhau (khoản b mục 33.4. Thông tư 29).
4
Đó là các nguồn thông tin như: các nguồn thông tin khác, với bất kỳ vật mang tin nào (ấn phẩm, phim ảnh,
băng từ, đĩa từ, đĩa quang ) - tính từ ngày vật mang tin bắt đầu được lưu hành; các nguồn thông tin đại chúng
(phát thanh, truyền hình) - tính từ ngày công bố tin; các báo cáo khoa học, các bài giảng nếu được ghi lại
bằng bất cứ phương tiện nào - tính từ ngày báo cáo hoặc giảng bài; các triển lãm - tính từ ngày hiện vật bắt đầu
được trưng bày.
5
Nguồn thông tin tối thiểu được quy định rõ tại mục 33.2 Thông tư 29.
6
Đặc điểm tạo dáng cơ bản của KDCN được quy định rõ tại mục 33.3. Thông tư 29.


- 17 hình đa giác đều, các hình lăng trụ có mặt cắt là các hình kể trên ...), hình dáng
các sản phẩm, công trình đã nổi tiếng ở Việt Nam hoặc trên thế giới (ví dụ:

tháp Rùa, tượng ông Phúc - Lộc - Thọ, tháp Ep-phen...), kiểu dáng chỉ có giá trị
thẩm mỹ như các tác phẩm điêu khắc, các loại tranh, tượng...).
Cũng cần lưu ý là hiện nay mặc dù pháp luật Việt Nam hiện hành có áp
dụng Bảng phân loại KDCN Locarno, tuy nhiên nó chỉ có ý nghĩa trong việc xác
định loại KDCN thuộc nhóm hàng hoá nào, chứ thực tế là tính mới của KDCN
theo quan niệm của Việt Nam là mới đối với tất cả các nhóm hàng hóa7. Vì thế
nếu một người đăng ký bảo hộ con chuột máy tính mà có hình dáng của chiếc
ôtô Meccedes (KDCN của ôtô Meccedes đã được bảo hộ), bật lửa hình điện
thoại di động Nokia, Lọ nước hoa hình búp bê Matroska (Nga) thì sẽ bị từ chối.
Như vậy, mặc dù Hiệp định TRIPs đưa ra tiêu chuẩn tính mới để một
KDCN được bảo hộ, thế nhưng việc hiểu như thế nào là tính mới thì thực sự
vẫn còn khá nhiều ý kiến như đã dẫn ra ở trên. Theo quan điểm của chúng tôi,
việc quy định tính mới trong pháp luật Việt Nam (cụ thể là tại Điều 5 - Nghị
định 63/CP và các quy định tại Thông tư 29) là khá tương thích với pháp luật
nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, cũng cần có một số bổ sung đối với tính
mới cho phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn cuộc sống, cụ thể là:
+ Cần quy định bổ sung các ngoại lệ về KDCN không bị mất tính mới nếu
bị công bố trong các trường hợp sau, với điều kiện đơn yêu cầu cấp văn bằng
bảo hộ KDCN đó phải được nộp trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày công bố
(phù hợp với quy định của Công ước Paris - Điều 4 và Điều 11):
Trường hợp 1: KDCN bị người khác công bố nhưng không được phép của
người có quyền nộp đơn. Quy định này là rất phù hợp để có thể bảo vệ được
quyền lợi cho người có quyền nộp đơn trước sự xâm hại của người khác. Hơn
nữa, theo pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới thì đều có ghi nhận ngoại
lệ này.
Trường hợp 2: KDCN được người có quyền nộp đơn công bố dưới dạng
báo cáo khoa học. Trên thực tế rất nhiều KDCN được thực hiện dưới dạng các
đề tài nghiên cứu khoa học, và việc phải báo cáo đề tài này là điều tất yếu, do
đó thiết nghĩ để đảm bảo quyền lợi cho người có quyền nộp đơn thì cần phải
ghi nhận ngoại lệ này (một số nước trên thế giới cũng quy định như vậy, ví dụ

Nhật Bản, Hàn Quốc).

7

Đây cũng một là điểm khác so với nhãn hiệu hàng hóa, khi mà để xác định tính khác biệt của nhãn hiệu hàng
hoá thì pháp luật Việt Nam lại chỉ xét trong một nhóm hàng hoá cụ thể.


- 18 -

Trường hợp 3: KDCN được người có quyền nộp đơn trưng bày tại cuộc
triển lãm chính thức hoặc được thừa nhận là chính thức do cơ quan nhà nước
Việt Nam tổ chức, hoặc tại cuộc triển lãm quốc tế chính thức hoặc được thừa
nhận là chính thức. Trong trường hợp này, pháp luật của nhiều quốc gia như
Luật của EU, Nhật Bản, Hàn Quốc đều coi là KDCN chưa bị mất tính mới,
Công ước Paris cũng quy định là trong trường hợp này các nước thành viên
theo luật quốc gia của mình dành quyền bảo hộ tạm thời cho KDCN được trưng
bày đó. Vì thế việc pháp luật Việt Nam quy định ngoại lệ này là hoàn toàn
phù hợp.
+ Theo pháp luật hiện hành để giải thích về tính mới, chúng ta có sử dụng
cụm từ khác biệt cơ bản, tuy nhiên nếu đối chiếu với Hiệp định TRIPs (Điều
25) và Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (Điều 10) thì đều quy định
rằng KDCN không được coi là mới hoặc nguyên gốc nếu không khác biệt
đáng kể (Các Hiệp định đều sử dụng tính từ significant - phải được dịch là
đáng kể thì chính xác hơn là cơ bản). Theo chúng tôi nội hàm của cụm từ
khác biệt cơ bản và khác biệt đáng kể là không hoàn toàn đồng nhất. Để
đảm bảo tính thống nhất với các Điều ước quốc tế, thiết nghĩ chúng ta cần phải
thay cụm từ khác biệt cơ bản trong các Điều luật có liên quan khi nói về tính
mới bằng cụm từ khác biệt đáng kể.
+ Trên thực tế về cùng một đối tượng có thể được bảo hộ với tư cách là một

KDCN, nhưng nó cũng có thể được bảo hộ với tư cách là một sáng chế, một giải
pháp hữu ích, một nhãn hiệu hàng hoá (ví dụ như về nhãn của một loại bao bì,
nó có thể được bảo hộ là NHHH hoặc là KDCN đối với loại bao bì đó). Vì thế
thiết nghĩ về tính khác biệt cũng cần quy định rõ là KDCN được coi là có tính
mới thì còn phải khác biệt với Sáng chế, Giải pháp hữu ích, NHHH được bảo hộ
hoặc đã được nộp đơn yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ với ngày ưu tiên sớm hơn
(điều này cũng hoàn toàn hợp lý khi tại điểm g khoản 1 Điều 6 Nghị định 63/CP
đã có yêu cầu NHHH phải không trùng với KDCN được bảo hộ hoặc đã được
nộp đơn yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ với ngày ưu tiên sớm hơn).

Mặc dù pháp luật của một số nước có đưa thêm các tiêu chí bảo hộ khác
như tính độc đáo về thẩm mỹ và tính nguyên gốc, nhưng theo chúng tôi không
nên áp dụng các tiêu chí này bởi các lý do cụ thể như sau:
Tính độc đáo về thẩm mỹ: Tiêu chuẩn này được quy định trong phần lớn
luật về KDCN của các nước trên thế giới, có thể kể đến như Canada, WIPO,
Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ, Malaysia, Indonesia, Nga, Hàn Quốc. Hiểu theo
luật của các nước kể trên là khả năng gây ấn tượng thẩm mỹ đối với thị giác


- 19 của sản phẩm (hoặc bộ phận sản phẩm) mang KDCN. Về mặt nội hàm của khái
niệm thì hiểu thế nào về ấn tượng thẩm mỹ đối với thị giác cũng rất khó định
lượng. Theo chúng tôi, ấn tượng thẩm mỹ là một cảm giác của con người xuất
phát từ thái độ của con người đối với cái đẹp, nó thay đổi tuỳ thuộc vào thời
đại, giới và khu vực. ấn tượng thẩm mỹ cũng có thể thay đổi tuỳ theo môi
trường, sự giáo dục và phong tục tập quán của từng cá nhân. Vì vậy, theo kinh
nghiệm của Nhật Bản [10, tr. 12], ấn tượng thẩm mỹ được đòi hỏi trong luật
nên xác định ít nhất là ở mức tương đương hoặc cao hơn mức độ thông thường
của từng khu vực, từng thời kỳ và từng giới hoặc của từng cá nhân mà không
phụ thuộc vào sự biến đổi của các yếu tố này. Do đó, khi xem xét bảo hộ
KDCN, thì vẻ đẹp ở KDCN không nên đòi hỏi phải ở mức như các tác phẩm

mỹ thuật (là các tác phẩm chỉ đơn thuần theo đuổi vẻ đẹp), nhưng phải ở mức
mà khi sản phẩm được đưa vào sử dụng thì KDCN đó sẽ tạo cho người chủ sản
phẩm niềm vui trong cuộc sống bằng cách làm cho họ thấy dễ chịu vì nó đem
đến cho họ sự sảng khoái, thoải mái, tiện dụng.v.v.. Tóm lại là không cần thiết
vẻ đẹp của KDCN phải thật lộng lẫy. Nhưng nếu một sản phẩm mà không được
quan tâm về mặt tạo hình (KDCN) thì hiển nhiên là sản phẩm này có thể được
coi là vật không tạo ra ấn tượng thẩm mỹ. Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa
quy định về vấn đề này, tuy nhiên trong dự thảo Luật SHTT thì có đưa thêm
tiêu chí này vào. Theo quan điểm của chúng tôi, về mặt khoa học thì việc thừa
nhận tiêu chí này là rất hợp lý, bởi lẽ mục đích cuối cùng của KDCN chính là
mang lại giá trị thẩm mỹ và giá trị thẩm mỹ cũng chính là lý do để phải bảo hộ
KDCN. Vì thế, một KDCN phải có được tính độc đáo về thẩm mỹ. Mặc dù vậy,
nếu chúng ta đưa nó thành một tiêu chí bảo hộ trong Luật thì liệu việc thực thi
quy định này trên thực tế có đạt được mục đích hay không? Như trên đã phân
tích việc xác định thế nào là có tính độc đáo về thẩm mỹ là rất khó và có thể
nói là phi hiện thực. Thêm nữa, kể cả chúng ta không coi đây là một tiêu chí
bảo hộ thì bản thân người sáng tạo ra KDCN hay chủ sở hữu KDCN cũng tự ý
thức được nhu cầu thiết thân về giá trị thẩm mỹ của KDCN mà mình sáng tạo
hay sở hữu để từ đó tiến hành đăng ký bảo hộ. Bởi lẽ như đã nói ở trên cái mà
KDCN mang lại chính là giá trị thẩm mỹ và lợi ích kinh tế có được từ kiểu
dáng cũng là xuất phát từ giá trị thẩm mỹ. Theo một lẽ thông thường, rõ ràng
không ai đăng ký bảo hộ cái mà không đem lại lợi ích gì. Vì những lẽ trên,
thiết nghĩ việc không đưa tiêu chí này vào sẽ tạo thuận lợi cho cơ quan đăng ký
mà lại không dẫn đến tình trạng quy định thừa.


- 20 -

Về tính nguyên gốc: Tiêu chí này được nêu ra trong Hiệp định TRIPs
(Điều 25) và Điều 10 Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ như là một

trong hai tiêu chí để một KDCN có thể được bảo hộ (tiêu chí kia chính là tính
mới). Tuy vậy, cả hai Hiệp định này đều không lý giải rõ thế nào được hiểu là
tính nguyên gốc? Hiện nay, pháp luật của đại đa số các nước đều không đặt ra
tiêu chí này đối với KDCN. Chỉ có pháp luật của Nhật Bản (Khoản 1 và 2 Điều
3 Luật Kiểu dáng Nhật Bản năm 1998) là đòi hỏi KDCN phải đạt được tiêu
chuẩn là tính sáng tạo, trong đó tính sáng tạo bao gồm cả tính mới và tính
nguyên gốc. Theo quy định của Nhật Bản thì tính nguyên gốc được hiểu là
KDCN phải được tạo ra một cách độc lập, không được sáng tạo ra một cách dễ
dàng dựa trên những hình dáng đã được nhiều người biết đến. Theo điều kiện
này, một kiểu dáng xin đăng ký mà không có hay hầu như không có tính
nguyên gốc sẽ bị từ chối việc đăng ký bởi không có đủ tính sáng tạo để có thể
được đăng ký: thứ nhất, nếu như các thành phần tạo nên hình thức bên ngoài
của sản phẩm liên quan tới kiểu dáng như hình dáng, đường nét, hay màu sắc,
những yếu tố được coi như chất liệu để sáng tạo ra kiểu dáng đó, đã được công
bố rộng rãi trước ngày nộp đơn; thứ hai, nếu một người với kiến thức bình
thường về lĩnh vực mà kiểu dáng đó được áp dụng (một chuyên gia trong lĩnh
vực) cũng có thể dễ dàng tạo ra kiểu dáng đó; thứ ba, nếu hình dáng liên quan
đến kiểu dáng đó được tạo ra dễ dàng từ những thành phần tạo nên hình thức
bên ngoài của sản phẩm nêu trong đơn đăng ký một kiểu dáng nộp trước đó;
thứ tư, nếu kiểu dáng đó có thể được tạo ra một cách dễ dàng.
Theo định nghĩa về KDCN của Việt Nam thì chỉ yêu cầu về tính mới,
trong khi đó không đề cập đến tính nguyên gốc. Tuy nhiên tại khoản 3 Điều 5
Nghị định 63/CP khi đưa ra các trường hợp không được bảo hộ với tư cách là
KDCN, Việt Nam lại quy định không được bảo hộ đối với Hình dáng bên

ngoài của sản phẩm được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có trình độ
trung bình thuộc lĩnh vực tương ứng. Như vậy, phải chăng đây là một sự bổ
sung cho tiêu chí tính mới, và nếu chiếu theo cách hiểu của Nhật Bản thì
trường hợp này là vi phạm tính nguyên gốc (trường hợp thứ hai)? Theo
chúng tôi, khi mà các Hiệp định nói trên đều không xác định rõ nội hàm tính

nguyên gốc và không đòi hỏi phải áp dụng tiêu chí này (chỉ quy định mang
tính lựa chọn giữa hai tiêu chí là tính mới và tính nguyên gốc), đồng thời cũng
chỉ có pháp luật Nhật Bản là đưa tiêu chí này vào luật, với điều kiện thực tế
hiện nay thiết nghĩ chúng ta không nên quy định tính nguyên gốc là một tiêu
chí bảo hộ KDCN.


×