Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

tiểu luận kinh tế khu vực FDI việt nam trong vòng xoáy chiến tranh thương mại mỹ trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.9 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong tình hình cuộc chiến tranh Mỹ - Trung diễn ra gay gắt, phức tạp và sự
ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là đối với Việt Nam ta có rất
nhiều tác động cả tích cực lẫn tiêu cực. Trong đó, sự biến động đầy bất ngờ của
nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài ( FDI ) vào Việt Nam, những ảnh
hưởng đến thị trường và nền kinh tế nước ta vẫn đang là một vấn đề lớn gây
tranh cãi hiện nay. Vậy nên, hôm nay nhóm em xin được bàn luận về đề tài
“Thu hút vốn FDI vào Việt Nam khi chiến tranh thương mại Mỹ – Trung đang
căng thẳng”, bọn em sẽ cung cấp một cái nhìn toàn thể về thực trạng vốn FDI
vào Việt Nam trong năm 2018, so sánh với năm 2017, lý do tại sao lại như vậy
và cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung ảnh hưởng như thế nào, kế hoạch và
mục tiêu của Chính Phủ trong tương lai,... Chúng em xin đưa ra những nhận
định và sự tìm hiểu của mình về vấn đề này, do hiểu biết còn hạn chế, thời gian
nghiên cứu không dài cũng như tài liệu có hạn, chắc chắn tiểu luận sẽ không
tránh khỏi khiếm khuyết, mong cô đóng góp ý kiến để bài tiểu luận của chúng
em trở nên hoàn thiện hơn.
Bài tiểu luận của chúng em gồm lời mở đầu, nội dung, kết luận và tài liệu
tham khảo. Trong đó phần nội dung gồm:
I.
II.

FDI và những lợi thế của Việt Nam trong thu hút nguồn vốn FDI
Ảnh hưởng của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung tới FDI của Việt Nam

III.

Tình hình Vốn đầu tư nước ngoài (FDI) ở Việt Nam

IV.

Chiến lược phát triển vốn FDI của Việt Nam



1


NỘI DUNG
I. FDI và những lợi thế của Việt Nam trong thu hút nguồn vốn FDI.
1. Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (tiếng Anh: Foreign Direct Investment, viết tắt
là FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước
khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước
ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI: Đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu
tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền
quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ
tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người
đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó,
nhà đầu tư thường hay được gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công
ty con" hay "chi nhánh công ty".
2. Các yếu tố hấp dẫn đầu tư trực tiếp
Năm 2001, Peter đã có một nghiên cứu chỉ ra rằng có 4 nhóm chỉ số chính
của nước tiếp nhận có tác động đến việc lựa chọn địa điểm đầu tư của các nhà
đầu tư, bao gồm: chỉ số quốc gia, chỉ số thể chế, chỉ số kinh tế và chỉ số ngành
( bảng 1).
Các nhà đầu tư sẽ đánh giá tầm quan trọng hay thứ tự lựa chọn ưu tiên tùy
thuộc vào thế mạnh và mục tiêu đầu tư của mình. Xét về mức độ ưu tiên, các
nhà đầu tiên luôn quan tâm đến chỉ số về thể chế trước tiên, bao gồm: sự ổn định
về chính trị, luật và các định chế và việc thực thi chính sách pháp luật. Xét theo
góc độ kinh tế, các nhà đầu tư nước ngoài khi lựa chọn địa điểm đầu tư chủ yếu
bị thu hút bởi các nền tảng kinh tế mạnh trong các nền kinh tế chủ nhà. Thế

nhưng, tùy theo mục đích tìm kiếm mà các yếu tố sẽ có thứ tự ưu tiên khác nhau.
Chẳng hạn, với mục đích tìm kiếm thị trường, những yếu tố được các nhà đầu tư
quan tâm bao gồm: quy mô của thị trường, độ mở của nền kinh tế, liên kết thị
trường khu vực... Với mục đích tìm kiếm nguồn lực, nhà đầu tư quan tâm đến
các yếu tố về cơ sở hạ tầng, khoảng cách địa lý, các nguồn tài nguyên, chi phí
lao động và năng suất, các chính sách khuyến khích...

2


Bảng 1

Chỉ số quốc gia

Chỉ số thể chế

Chỉ số kinh tế

Chỉ số ngành

Quy mô thị trường
Độ mở của nền kinh tế
Cơ sở hạ tầng
Khoảng cách địa lý
Liên kết thị trường khu vực
Các nguồn tài nguyên
Luật và các định chế xã hội
Thực thi chính sách
Các chính sách khuyến khích FDI
Sự ổn định chính chị

Chí phí năng động và năng suất
Sự ổn định kinh tế vĩ mô
Tỷ lệ tăng trưởng
Mức độ cân bằng cán cân thanh toán
Lạm phát
Quy mô ngành
Năng lực cạnh tranh của ngành
Mức trợ cấp cho các ngành trong nước
Nguồn: Peter (2001)

3. Lợi thế của Việt Nam trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Các nước trên thế giới được chia thành 2 nhóm là nhóm các nước phát triển
và nhóm các nước đang phát triển. Trong đó, các nước phát triển được xem là
những quốc gia dồi dào tương đối về vốn, trong khi các nước đang phát triển lại
khan hiếm tương đối về vốn, trong đó có Việt Nam. Ông Sebastian Eckardt,
chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam, cho rằng:
Trong 30 năm qua, Việt Nam đã khá thành công trong việc thu hút FDI và nguồn
vốn này đã đóng góp cho nền kinh tế theo nhiều cách khác nhau. Trong đó phải
kể đến vai trò của FDI với quá trình công nghiệp hóa đất nước. Bởi Việt Nam có
lượng FDI đầu tư nhiều vào lĩnh vực chế tạo, góp phần xây dựng năng lực sản
xuất tại một loạt ngành nghề như điện tử cùng nhiều ngành công nghiệp truyền
thống khác như may mặc và giày dép…. Do đó, để duy trì và tiếp tục thu hút
được vốn đầu tư nước ngoài, Việt Nam phải cạnh tranh với các nước đang phát
triển khác. So với các nước khác, các lợi thế Việt Nam có được trong thu hút
vốn đầu tư được phân tích dựa trên các chỉ số hấp dẫn đầu tư như sau:

3


*Về chỉ số quốc gia, các yếu tố chính Việt Nam có lợi thế bao gồm: Quy

mô thị trường, độ mở của nền kinh tế, khoảng cách địa lý và các nguồn tài
nguyên.
Thứ nhất, quy mô thị trường. Việt Nam với dân số hơn 96 triệu người và
sức mua được dự bào là tiếp tục tăng trưởng bền vững trong những năm tới. Sự
gia tăng nhanh của tầng lớp trung lưu trong những năm qua cũng là một điểm
quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là ngành tiêu dùng và
bán lẻ. Đây cũng là động lực chính trong việc biến thị trường tiêu dùng nội địa
Việt Nam thành một trong những thị trường hấp dẫn nhất hiện nay.
Thứ hai, khoảng cách địa lý. Việt Nam nằm ở vị trí thuận lợi giữa trung
tâm khu vực Đông Á với nhiều nền kinh tế lớn, năng động như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Hồng Kông (Trung Quốc), Thái Lan và Trung Quốc. Vị địa chính trị của
Việt Nam không những thuận lợi cho quốc gia trong các giao dịch kinh tế quốc
tế mà còn tạo cơ hội cho Việt Nam trở thành trung tâm kết nối của khu vực Châu
Á - Thái Bình Dương và kết nối khu vực này với các các nền kinh tế ở khu vực
phía Tây Bán đảo Đông Dương. Bên cạnh đó, Việt Nam có nhiều thuận lợi trong
việc xây dựng và phát triển các cảng nước sâu và như giao thương toàn cầu khi
sở hữu hơn 3.000 km bờ biển.
Thứ ba, độ mở của nền kinh tế. Việt Nam đã tận dụng những lợi thế thông
qua việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đưa ra những chính
sách tự do hoá thương mại và nỗ lực ký kết rất nhiều hiệp định thương mại song
phương và đa phương khác. Số hiệp định thương mại mà Việt Nam đã ký với
các đối tác nhiều hơn tất cả các nền kinh tế Đông Á khác (trừ Singapore). Vì thế,
có thể coi đây là một trong số những nền kinh tế mở cửa nhất. Cho đến nay, Việt
Nam đã có trên 200 đối tác thương mại khắp toàn cầu, trong đó có 29 thị trường
xuất khẩu và 23 thị trường nhập khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD trong năm
2017. Trong đó có 4 thị trường xuất khẩu đạt kim ngạch trên 10 tỷ USD và 5 thị
trường nhập khẩu trên 10 tỷ USD, trong đó Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất
của Việt Nam.
Thứ tư, các nguồn tài nguyên. Việt Nam được đánh giá là một đất nước có
nguồn tài nguyên phong phú về đất, rừng, biến, du lịch và đặc biệt là khoáng sản

phục vụ cho các ngành kinh tế. Nước ta nằm giữa hai vành đai tạo khoáng lớn
của thế giới là Thái Bình Dương và Ðịa Trung Hải. Công tác thăm dò địa chất
trong 40 năm qua đã phát hiện và đánh giá được trữ lượng của 5000 mỏ và điểm
quặng, thuộc 60 loại khoáng sản. Trong đó, than và boxit có trữ lượng lớn nhất,
lên đến vài tỉ tấn nhưng mới khai thác được vài chục triệu tấn, do đó nó được
đánh giá là nguồn tài nguyên tiềm năng để thu hút vốn FDI vào Việt Nam.
4


*Về chỉ số thể chế, lợi thế của Việt Nam có được từ các yếu tố về sự ổn
định chính trị và các chính sách khuyến khích FDI.
Đầu tiên, sự ổn định chính trị. Thực tế, sự mất ổn định về chính trị bao giờ
cũng là mối quan ngại đầu tiên của các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, Việt
Nam đã và đang duy trì được sự ổn định chính trị - xã hội trong nhiều năm. Theo
đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, chính sự ổn định kinh tế
và chính trị của Việt Nam là yếu tố hàng đầu hấp dẫn nhà đầu tư.
Tiếp theo, các chính sách khuyến khích đầu tư. Ngoài việc tiếp tục triển
khai các chính sách ưu đãi thu hút đầu tư nước ngoài như miễn giảm thuế thu
nhập doanh nghiệp, miễn thuế nhập khẩu một số ngành hàng, miễn giảm tiền
thuê và sử dụng đất,… Nhiều công ty, tập đoàn lớn của Nhà nước đã và sắp
thoái vốn là những điểm thu hút nhà đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, Việt Nam cũng đang kiện toàn một cách toàn diện môi trường
đầu tư kinh doanh, bao gồm luật pháp và các định chế xã hội cũng như tăng
cường hiệu quả thực thi chính sách. Theo đó, hệ thống pháp luật, chính sách và
thể chế điều chỉnh hoạt động đầu tư, kinh doanh của Việt Nam liên tục được cải
thiện. Đặc biệt, những thay đổi mang tính đột phá của Luật Đầu tư:
 Tạo lập cơ sở pháp lý minh bạch để bảo đảm thực hiện nguyên tắc hiến định
về quyền tự do đầu tư kinh doanh của công dân
 Rà soát, loại bỏ các ngành nghề và điều kiện đầu tư kinh doanh không hợp lý,
không rõ ràng

 Củng cố, hoàn thiện cơ chế bảo đảm đầu tư phù hợp với Điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên
 Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính
 Hoàn thiện chính sách ưu đãi đầu tư
 Hoàn thiện chế độ phân cấp và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với
hoạt động đầu tư.
*Về chỉ số kinh tế, Việt Nam có những chỉ số hấp dẫn góp phần thu hút
nguồn vốn FDI từ 2 nhóm yếu tố: ổn định vĩ mô và tăng trưởng kinh tế, chi phí
lao động và năng suất.
Nhóm thứ nhất, ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng. Việt Nam nằm ở khu
vực Đông Nam Á, một trong những khu vực kinh tế phát triển và năng động
nhất thế giới hiện nay. Kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng với tốc độ khá cao
so với bình quân của thế giới và của khu vực. Mặc dù liên tục phải đối mặt với
những bất ổn và thách thức khi kinh tế thế giới trải qua giai đoạn suy thoái
khoảng 10 năm gần đây, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP
trung bình trên 6%/năm. Chính phủ Việt Nam đặt ra mục tiêu trở thành nước có
5


thu nhập trung bình cao vào năm 2035, và tốc độ tăng trưởng bình quân trong
giai đoạn sắp tới là 7%. Tốc độ tăng trưởng cao và ổn định qua nhiều năm luôn
là một yếu tố quan trọng hấp dẫn đầu tư nước ngoài và vì vậy tỷ lệ tăng trưởng
cao so với các nước đang phát triển khác giúp Việt Nam nâng cao vị thế cạnh
tranh trong cuộc đua thu hút vốn đầu tư. Ngoài ra, Việt Nam cũng duy trì sự ổn
định các chỉ số kinh tế vĩ mô khác. Tỷ lệ lạm phát những năm gần đây được
kiểm soát tốt ở mức dưới 5%. Tỷ giá ngoại hối luôn được duy trì ở mức ổn định,
không có những biến động bất thường ảnh hưởng đến kinh tế. Tăng trưởng tín
dụng cũng được kiểm soát chặt chẽ.
Nhóm thứ hai là chi phí lao động và năng suất. Với mức dân số cao hơn 90
triệu dân, trong đó tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động (từ 15 đến 64 tuổi) đạt

69,3 %, Việt Nam đang trong giai đoạn vàng về cơ cấu dân số. Đây là nguồn lao
động trẻ, khỏe, năng động, có tiềm năng và khả năng tiếp thu kiến thức tiên tiến
để đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế tri thức.
Với mức giá lao động rẻ khoảng 1 USD/giờ, thấp hơn hẳn so với quốc gia
trong khu vực nói chung và các nước đang phát triển nói riêng, Việt Nam sẽ thu
hút được nhiều vốn đầu tư từ các quốc gia trên thế giới. Các nhà đầu tư cho
rằng, năng suất lao động của Việt Nam có thể thấp hơn so với một số nước phát
triển, nhưng nếu xét trong mối tương quan với giá lao động của Việt Nam thì chi
phí lao động tính trên sản phẩm vẫn thuộc loại rẻ. Chẳng hạn, năng suất lao
động của công nhân tại Nhà máy Samsung Việt Nam bằng 80% so với Hàn
Quốc, trong khi về chi phí lao động Việt Nam chỉ bằng 20% chi phí tại Hàn
Quốc. Nguồn lao động trẻ và giá rẻ của Việt Nam được cho rằng sẽ trở thành
“thỏi nam châm thu hút các nhà đầu tư quốc tế”.
*Về chỉ số ngành, bên cạnh những ngành truyền thống của Việt Nam như
dệt may, da giày, thủy sản thì các ngành công nghiệp điện tử và công nghệ cao,
lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo cũng được coi là thế mạnh trong thu hút
FDI. Tính đến 2017, lĩnh vực này thu hút nhiều nhất nhà đầu tư nước ngoài với
11.833 dự án đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt trên 175 tỷ USD (chiếm
51,6% tổng số dự án và 58,9% tổng vốn đăng ký đầu tư tại Việt Nam).
II. Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung
1. Khái niệm chiến tranh thương mại
Chiến tranh thương mại (còn gọi là chiến tranh mậu dịch) là hiện tượng
trong đó hai hay nhiều nước tăng hoặc tạo ra thuế hoặc các loại rào cản thương
mại với nhau nhằm đáp trả những rào cản thương mại của nước đối lập.
2. Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung
6


Chiến tranh thương mại giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ vào năm 2018 khởi
đầu khi Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump tuyên bố sẽ áp dụng mức thuế 50 tỷ

đô la Mỹ cho hàng hóa Trung Quốc dựa theo Mục 301 của Đạo luật Thương mại
năm 1974, để ngăn chặn những gì họ cho là hành vi thương mại không công
bằng và hành vi trộm cắp tài sản trí tuệ. Để trả đũa cho tuyên bố đó, Trung Quốc
áp dụng mức thuế 25% bổ sung cho máy bay, ô tô và đậu tương, là hàng xuất
khẩu nông nghiệp hàng đầu của Hoa Kỳ sang Trung Quốc. Từ đó, tình hình hai
nước trở nên căng thẳng khi cả hai tiến hành trả đũa nhau bằng cách áp đặt thuế
hoặc hủy đơn hàng.
Các chuyên gia kinh tế đều cho rằng diễn biến cuộc chiến tranh thương mại
giữa hai nước sẽ khó lòng đi vào hồi kết, trong khi đó Hoa Kỳ và Trung Quốc là
hai nền kinh tế lớn trên thế giới, khi tiến vào trạng thái đối đầu sẽ có tác động rất
lớn đến nền kinh tế thế giới và nhiều nước sẽ chịu ảnh hưởng, trong đó có Việt
Nam.
Việt Nam thiết lập quan hệ với cả hai quốc gia, do đó, các chuyên gia kinh
tế khuyến nghị rằng, Việt Nam sẽ có những lợi ích từ cuộc chiến này nếu biết
tận dụng. Nhưng cơ hội luôn đi kèm với thách thức, Việt Nam là nước ở giữa,
cần hài hòa để không làm mất lòng nước nào trong cả hai nước. Trong dài hạn,
hậu quả mà Việt Nam gánh chịu là khó lòng dự đoán vì diễn biến của chiến
tranh thương mại Mỹ – Trung là khó nắm bắt, còn đối với ngắn hạn, nguồn vốn
FDI thu hút của Việt Nam không bị ảnh hưởng nhiều từ cuộc chiến này, vì các
nước đầu tư FDI nhiều nhất không phải là Mỹ hay Trung Quốc mà là Nhật Bản,
Hàn Quốc,....
III. Tình hình Vốn đầu tư nước ngoài (FDI) ở Việt Nam
1. Tình hình vốn FDI vào Việt Nam năm 2017
Theo Cục Đầu tư nước ngoài, tính đến ngày 20/12/2017, cả nước có 2.591
dự án FDI mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 21,27
tỷ USD; có 1.188 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn đăng
ký tăng thêm xấp xỉ 8,41 tỷ USD và 5.002 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà
đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn là 6,19 tỷ USD. Như vậy, tính chung
trong năm 2017, tổng vốn FDI đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn mua cổ
phần của nhà đầu tư nước ngoài là 35,88 tỷ USD.


7


( Nguồn : )
2. Tình hình vốn FDI vào Việt Nam năm 2018
Theo Cục Đầu tư nước ngoài, trong 9 tháng đầu năm 2018, tổng vốn đăng
ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài là
25,37 tỷ USD, bằng 99,6% so với cùng kỳ năm 2017.

8


( Nguồn : )
Trong đó, có 2.182 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư
với tổng vốn đăng ký cấp mới 14,1 tỷ USD, bằng 97% so với cùng kỳ năm 2017
và có 841 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng
thêm 5,5 tỷ USD, bằng 82,1% so với cùng kỳ năm 2017. Có 5.275 lượt góp vốn,
mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị vốn góp 5,7 tỷ USD,
9


tăng 36,8% so với cùng kỳ 2017. Tính đến ngày 20/9/2018, ước tính các dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 13,25 tỷ USD, tăng 6% so với
cùng kỳ năm 2017. Theo lĩnh vực đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào
18 ngành lĩnh vực, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút được
nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đạt 11,3 tỷ USD,
chiếm 44,6% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh bất động
sản đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư 5,8 tỷ USD, chiếm 23% tổng vốn đầu tư
đăng ký. Đứng thứ ba là lĩnh vực bán buôn, bán lẻ với tổng vốn đầu tư đăng ký

2,1 tỷ USD, chiếm 8,3% tổng vốn đầu tư đăng ký.
3. Ảnh hưởng của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đến nguốn vốn
FDI ở Việt Nam
Cuộc chiến tranh thương mại giữa hai nước lớn nhất nhì thế giới đang
có ảnh hưởng tới chuỗi cung ứng toàn cầu của guồng máy kinh tế thế giới (trong
đó có Việt Nam) đang trong giai đoạn tăng tốc toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
đầy hăm hở, theo cả bề rộng và bề sâu, trước mắt và lâu dài.
Bên cạnh những tác động có lợi như mở ra cơ hội cho doanh nghiệp Việt
Nam và các quốc gia khác tăng cường đầu tư, nâng cấp và liên kết chuỗi sản
phẩm mới để sản xuất và xuất khẩu sản phẩm sang Mỹ và Trung Quốc hay việc
có cơ hội mua rẻ hơn những mặt hàng của Trung Quốc (như động cơ, thiết bị…)
khó xuất sang Mỹ thì việc sức ép tăng lãi suất đồng USD của Mỹ và giảm giá
đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc sẽ cùng hợp lực làm tăng sức ép lên tỷ giá
VND. Sức ép giảm giá VND (tăng tỷ giá đối với đồng USD) sẽ gia tăng cùng
chiều với sự gia tăng nhập siêu và khan hiếm ngoại tệ, cũng như quy mô dòng
chảy ngược USD ra ngoài biên giới trước sức hút chênh lệch lãi suất huy động
đồng USD của Việt Nam (hiện bằng 0% và chưa có dấu hiệu tăng) với Mỹ (từ
1,75-2% và sẽ tiếp tục tăng chậm).
Nếu kéo dài xu hướng ổn định tỷ giá (tức làm tăng giá trị danh nghĩa
VND), sự bất lợi về xuất khẩu của hàng Việt sẽ đậm nét hơn và sức cản thu hút
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam cũng sẽ lớn dần lên.
Điều này đồng nghĩa với khả năng thu hẹp sản xuất và xuất khẩu của khu vực
đầu tư trực tiếp nước ngoài, vì bị thiệt hại về tỷ giá khi đầu tư vào Việt Nam.
Còn nếu buộc phải tăng tỷ giá, tức giảm giá VND, để tăng thu hút FDI, thì áp
lực lạm phát trong nước sẽ là thách thức lớn nhất của nửa cuối năm 2018, trong
bối cảnh sức ép lạm phát chi phí đẩy và lạm phát tiền tệ trong nước giữ nguyên,
thậm chí còn tiếp tục gia tăng cùng quá trình tăng tốc tự chủ tài chính và thị
trường hóa cộng đồng đông đảo các đơn vị sự nghiệp công trong nước theo lộ
trình đã định.
10



Nhưng cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đang khiến nhiều
doanh nghiệp chuyển dịch sản xuất sang ASEAN để né tránh việc bị áp thuế.
Các lĩnh vực như sản phẩm tiêu dùng, phần cứng công nghiệp, công nghệ, viễn
thông, ô tô và hóa chất đang được chuyển dịch sang Đông Nam Á (trong đó có
Việt Nam) làm tăng FDI các ngành công nghiệp chế biến và chê tạo.
Tuy nhiên không phải Mỹ hay Trung Quốc, mà là Hàn Quốc và Nhật Bản,
cũng như Thái Lan, Singapore… mới “dẫn dắt” cuộc chơi FDI ở Việt Nam, vậy
nên, việc Mỹ và Trung Quốc có chiến tranh thương mại chỉ ảnh hưởng nhẹ đến
việc đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên về lâu dài, không thể lường
trước được những tác động của nó đối với vốn Đầu tư nước ngoài của Việt Nam,
vậy nên, Chính phủ cần có các biện pháp và chiến lược để nền kinh tế cũng như
nguồn FDI của nước ta không bị đi xuống.
IV. Chiến lược phát triển vốn FDI của Việt Nam
1.Đối tác tiềm năng để thu hút vốn FDI vào Việt Nam
Hàn Quốc, Nhật Bản với quan hệ đối tác chiến lược đáng tin cậy của nước
ta, với tiềm năng kinh tế và công nghệ hàng đầu thế giới vẫn là hai đối tác lớn
nhất, cần khai thác tốt hơn nữa các kênh hợp tác xúc tiến đầu tư, thương mại, du
lịch đã hình thành và khuyến khích ý tưởng, sáng kiến mới để thu hút nhiều hơn,
có hiệu quả hơn vốn FDI từ hai nước này.
Số dự án

Tổng số vốn (Triệu đô la Mỹ)

Nhật Bản

397,0

9.204,7


Hàn Quốc

895,0

8.720,0

295,0

2.137,6

Đài Loan

117,0

1.532,7

Hoa Kỳ

80,0

874,4

CHLB Đức

33,0

413,9

Pháp


48,0

109,3

I-ta-li-a

8,0

19,9

CHND Trung Hoa

Đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam được cấp giấy phép năm 2017
( Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam />tabid=716 )
Trung Quốc là nhà đầu tư tiềm năng đang triển khai nhiều dự án quy mô
lớn tại nước ta, có triển vọng sẽ trở thành một trong những quốc gia đứng đầu
trong thu hút FDI của Việt Nam. Cảnh giác đối với ý đồ và hoạt động nhằm mục
11


đích kiềm chế Việt Nam là cần thiết, nhưng không vì thế mà không tìm cách tận
dụng lợi thế về địa lý, truyền thống giao lưu kinh tế, văn hóa giữa doanh nghiệp,
nhân dân hai nước để lựa chọn dự án, nhà đầu tư trên cơ sở bảo đảm lợi ích dân
tộc, góp phần thực hiện mục tiêu láng giềng hữu nghị, hợp tác cùng phát triển
giữa Việt Nam với Trung Quốc.
Việc hình thành Cộng đồng ASEAN thì FDI giữa các nước thành viên với
nhau và FDI từ nhà đầu tư ngoài khối vào ASEAN được điều chỉnh từ Hiệp định
đầu tư toàn diện (ACIA) được ký ngày 26/12/2009 và có hiệu lực từ ngày
29/3/2012; theo đó hoạt động đầu tư của ASEAN bao gồm 4 trụ cột: tự do hóa

đầu tư, bảo hộ đầu tư, thuận lợi hóa đầu tư và xúc tiến đầu tư. Tận dụng tốt hơn
việc hình thành thị trường chung, chu chuyển hàng hóa, vốn, lao động có tay
nghề giữa các nước thành viên để thu hút nhiều hơn và có hiệu quả hơn FDI
cũng như hoạt động đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam tại các nước ASEAN.
Mỹ và EU vẫn là thị trường lớn nhất thế giới, có nhiều nhà đầu tư tiềm
năng vào công nghệ và dịch vụ hiện đại; do đó cần có các hoạt động xúc tiến
đầu tư thích hợp với từng loại hình doanh nghiệp, đặc điểm từng quốc gia, đáp
ứng đòi hỏi cao của các TNCs hàng đầu thế giới về sở hữu trị tuệ, chống tham
nhũng, thực thi nghiêm chỉnh pháp luật với bộ máy hành chính và công chức
hợp tác và hổ trợ nhà đầu tư. Triển vọng thu hút nhiều hơn vốn FDI từ Mỹ và
EU phụ thuộc chủ yếu vào việc giải quyết tốt những đòi hỏi của nhà đầu tư về
công khai, minh bạch, dễ dự báo của hệ thống luật pháp và thực thi pháp luật
của nước ta.
Số liệu thống kê từ Cục Đầu tư nước ngoài cho thấy, tính đến cuối tháng
8/2018, châu Á chiếm trên 70% tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam. Trong khi
đó, đầu tư từ châu Âu, Mỹ lại quá ít ỏi so với tổng vốn FDI vào Việt Nam, cũng
như so với nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư này trên thế giới
và vào các nước ASEAN.
Mỹ, cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới và cũng là nhà đầu tư lớn nhất thế
giới hiện mới đầu tư vào Việt Nam 886 dự án, với tổng vốn đăng ký hơn 8,96 tỷ
USD. Tất nhiên, khoản đầu tư này là chưa tính đến các dự án Intel, Coca-Cola,
Procter & Gamble, ConocoPhillips…, do nhà đầu tư Mỹ đầu tư vào Việt Nam
thông qua các chi nhánh, công ty con của mình tại một số thị trường khác như
British Virgin Islands, Singapore, Hồng Kông..., song gần 9 tỷ USD là con số rất
khiêm tốn. Năm 2017, Mỹ đầu tư ra nước ngoài 342 tỷ USD, tăng tới 22% so
với năm trước, song lại chỉ đầu tư vào Việt Nam vỏn vẹn trên 868 triệu USD.
Trong khi đó, EU, vào năm ngoái, cũng đã đầu tư ra nước ngoài 334 tỷ
USD, tuy giảm 41% so với năm 2016, song vẫn là một khoản đầu tư rất lớn. Tuy
12



vậy, Việt Nam chỉ nhận được một phần rất nhỏ từ khoản vốn đầu tư này. Theo số
liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài, hiện có 24/28 nước EU đầu tư vào Việt Nam,
nhưng riêng khoản vốn đầu tư từ Hà Lan, Anh, Pháp Luxembourg và Đức đã
chiếm tới 84,3% trong số này.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư thừa nhận, quan hệ kinh tế và thương mại giữa Việt
Nam và EU phát triển tương đối thuận chiều, nhưng FDI vẫn còn quá ít, đặc biệt
vào các ngành công nghệ cao và dịch vụ hiện đại từ một số nước dẫn đầu EU
như Đức, Pháp, Italia…
2. Các ngành, lĩnh vực ưu tiên thu hút FDI
Chúng ta phải tập trung ưu tiên thu hút các dự án công nghệ cao của các tập
đoàn xuyên quốc gia trong các lĩnh vực công nghiệp chế tạo, nông nghiệp công
nghệ cao, công nghệ thông tin và các lĩnh vực dịch vụ mà Việt Nam có tiềm
năng và lợi thế so sánh.
Đó cũng phải là các dự án thân thiện với môi trường, tiết kiệm tài nguyên,
năng lượng và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
đồng thời, cũng sẽ ưu tiên thu hút các dự án có sức lan tỏa, gắn kết với khu vực
doanh nghiệp trong nước.
Chúng ta cũng cần chọn lọc những dự án có hàm lượng công nghệ cao,
công nghệ nguồn có giá trị gia tăng cao, những dự án lớn của các tập đoàn
xuyên quốc gia để tạo ra sức lan tỏa thúc đẩy doanh nghiệp trong nước phát
triển, phát triển công nghiệp hỗ trợ thông qua sự kết nối doanh nghiệp FDI và
doanh nghiệp trong nước.
Đó phải là những dự án giảm sử phụ thuộc vào nguồn lao động giá rẻ, giảm
tiêu hao năng lượng, nguyên liệu đầu vào.

13


( Nguồn: />3. Chiến lược thu hút FDI vào Việt Nam thế hệ mới

Cần thay đổi cơ bản về định hướng đầu tư nước ngoài, đặc biệt cần xúc tiến
đầu tư có mục tiêu chứ không phải xúc tiến đầu tư theo kiểu đại trà. Chúng ta
cần nâng cao chất lượng đầu tư FDI, gắn kết FDI và doanh nghiệp tư nhân để
tham gia nhiều hơn, hiệu quả hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, nếu làm được thì
tăng trưởng rất nhanh”, GS Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu
tư nước ngoài nhấn mạnh.
Chuyên gia cao cấp về chính sách đầu tư và thương mại của Ngân hàng
Thế giới Wim Douw cũng cho rằng, thời gian qua nhiều địa phương vẫn còn
nặng tư duy về số lượng, “hào phóng một cách lãng phí”, đua nhau đưa ra các
ưu đãi để thu hút nhà đầu tư trong khi đó khung chính sách hiện hành chưa đủ để
thu hút FDI thế hệ mới. Chúng ta cần tiếp tục nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước nói chung, cũng như đối với khu vực doanh nghiệp, bao gồm cả các doanh
nghiệp FDI nói riêng, nhằm hạn chế những mặt tiêu cực của FDI thời gian qua
như nhập khẩu thiết bị công nghệ lạc hậu, tình trạng ô nhiễm môi trường, vấn đề
chuyển giá, trốn thuế, đình công, lãn công...
Do đó, Việt Nam cần có khung chính sách mới; trong đó, phải bám sát mục
tiêu thu hút từ ưu đãi thuế “thuần tuý lợi nhuận”, sang các chính sách ưu đãi về
hành vi như: ưu tiên các dự án FDI có chất lượng cao hơn. Tiếp theo, Nhà nước
14


cũng sẽ có những chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp lớn mạnh, đưa doanh
nghiệp lên ngang tầm với các doanh nghiệp nước ngoài thì mới liên kết được với
nhau, nếu còn chênh lệch thì sẽ không thể thiết lập được sự gắn kết nào.
Cùng quan điểm, ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế, VCCI cho
rằng, hiện, chưa có cơ chế nào để bảo đảm những định hướng được thực hiện ở
chính quyền địa phương cấp tỉnh, trong khi các địa phương chính là các đầu mối
chủ động thực hiện các hoạt động xúc tiến đầu tư. Thực tế, suy cho cùng việc
đảm bảo để các dự án được thực thi và chấp thuận thì vai trò của cấp chính
quyền địa phương là vô cùng quan trọng.

Các chuyên gia kinh tế cũng khuyến nghị Việt Nam phải nỗ lực xây dựng
môi trường kinh doanh phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp trong kỷ nguyên
công nghệ số. Việt Nam đang có chiến lược quốc gia hướng tới cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 nhưng môi trường kinh doanh được đánh giá chỉ ở mức 2.0.
Việc thúc đẩy tính lan tỏa từ hiệu ứng thu hút FDI và gia tăng kết nối giữa khu
vực FDI với doanh nghiệp trong nước là cực kỳ cần thiết trong giai đoạn hiện
nay, đặc biệt khi cuộc cách mạng 4.0 đã và đang làm thay đổi phương thức sản
xuất trên toàn thế giới theo hướng tự động hóa, sử dụng trí tuệ nhân tạo... vào
sản xuất – kinh doanh và dịch vụ ở tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế.
Yêu cầu bức thiết đặt ra cần phải đẩy mạnh cải cách hơn nữa, để thu hút các nhà
đầu tư, tăng cường đối thoại công - tư, bảo vệ nhà đầu tư chân chính để họ tin
tưởng làm ăn lâu dài ở Việt Nam. Chúng ta cần sớm cải thiện nguồn nhân lực
chất lượng cao, đào tạo bài bản, để sớm có được đội ngũ chuyên gia kỹ thuật,
quản lý công nghệ có những kỹ năng sát yêu cầu thực tế, ý thức đầy đủ về các
vấn đề an toàn lao động, bảo vệ môi trường.

15


.

KẾT LUẬN
Vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp ở nước ngoài trong tổng thể chiến lược
phát triển và tăng trưởng kinh tế ở nước ta hiện nay là một trong những nhiệm
vụ chiến lược rất quan trọng, ở một góc độ nào đó có thể nói rằng việc thực hiện
mục tiêu tăng trưởng nhanh, lâu bền mà Việt Nam đang theo đuổi phụ thuộc rất
nhiều và năng lực giải quyết nhiệm vụ nói trên.
Thực tế trong quá trình triển khai khai thác thực hiện ở những năm qua đã
không tránh khỏi những thiếu sót, yếu kém cả trong quản lý cũng như điều kiện
về cơ sở hạ tầng, trình độ sản xuất và các dụng cụ sinh hoạt khác... Điều này gây

không ít khó khăn trong quá trình hợp tác và đầu tư. Tuy nhiên, các vấn đề này
nảy sinh bao giờ cũng từ nguyên nhân của nó. Vấn đề là tìm các nguyên nhân
như thế nào, đồng thời, nếu phân tích đánh giá tình hình một cách đúng đắn thì
chúng ta sẽ có những giải pháp hữu hiệu. Vì vậy tạo môi trường pháp lý thuận
lợi, làm mạnh ổn định Kinh tế - Chính trị, đổi mới và hoàn thiện các chính sách
cơ chế quản lý tài chính tín dụng... là công việc thường xuyên luôn luôn tại sức
hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài và tạo ưu thế cạnh tranh với các nước
trong khu vực.
Hy vọng rằng trong thời gian tới, hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài sẽ góp phần không nhỏ tới quá trình tăng trưởng kinh tế, tránh nguy cơ tụt
hậu tạo tiền đồ vững chắc cho nền kinh tế phát triển, thực hiện thành công công
việc đổi mới đất nước theo hướng công nghiệp hoá do đảng và nhà nước đề ra.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.

tapchitaichinh.vn
cafef.vn
baodautu.vn
gso.gov.vn
5. />6. />7. />8. />9. />10. />11. />12. />
viet-nam-14401.htm
13. />
hut-fdi-cua-viet-nam-148916.html

14. />
17



×