Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Tiểu luận môn kế hoạch hóa - đánh giá thực hiện kế hoạch thương mại quốc tế giai đoạn 2001 -2010.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.17 KB, 35 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Thương mại quốc tế cho phép các quốc gia mở rộng sản xuất trên cơ sở chuyên
môn hoá một cách sâu sắc. Thương mại quốc tế mở rộng khả năng tiêu dùng của một
nước. Nó cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức
có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất trong nước đó nếu thực hiện chế độ
tự cung tự cấp không buôn bán.
Ngày nay, Thương mại quốc tế còn là công cụ để hội nhập nền kinh tế các nước và
hình thành kinh tế toàn cầu với một không gian rộng lớn, nhờ đó hiệu quả kinh tế xã hội
không ngừng tăng lên làm tăng chất lượng cuộc sống trên toàn thế giới cũng như ở mỗi
quốc gia.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế hiện nay, Việt Nam đang thực hiện
chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Nhà nước đã chủ trương đẩy mạnh
xuất khẩu coi xuất khẩu là tiền đề để công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, là mũi
nhọn có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế của nước ta. Để
quá trình thực hiện hành động chiến lược không bị chệch hướng thì việc nghiên cứu và
có một kế hoạch xuất khẩu hợp lí là điều không thể thiếu trong tiến trình hội nhập kinh
tế thế giới nói chung và phát triển xuất khẩu Việt Nam nói riêng.
Trước tình hình thế giới có nhiều biến động đặc biệt là biến động về mặt kinh tế,
thì hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam cũng không thể không bị ảnh hưởng,
đặc biệt là lĩnh vực xuất khẩu. Do đó, kế hoạch 5 năm 2006-2010 trong lĩnh vực thương
mại quốc tế của Việt Nam cũng cần phải có sự đánh giá sau một nửa chặng đường thực
hiện để có các biện pháp tác động kịp thời giúp cho kế hoạch được thành công. Đây
không chỉ là vấn đề quan tâm của các Bộ, Ban, Ngành có liên quan, mà nó cũng đang thu
hút được sự nghiên cứu của các nhà khoa học, các giảng viên và sinh viên khối kinh tế.

1
PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ KẾ HOẠCH THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
1. THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ-VAI TRÒ VÀ SỰ CẦN THIẾT.
1.1. Tổng quan về thương mại quốc tế.


Trong hoạt động kinh tế mở của một quốc gia thì thương mại quốc tế giữ vai trò
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của quốc gia đó, đặc biệt trong tiến trình hội
nhập kinh tế thế giới với sự tham gia vào những tổ chức thương mại toàn cầu, khu vực
mậu dịch tự do, hiệp ước song phương va đa phương,…kinh tế thương mại lại càng
khẳng định vai trò là cầu nối của kinh tế trong nước với kinh tế thế giới và là động lực
đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hoạt động thương mại quốc tế bao gồm các hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu .
Trong đó Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc
đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng
theo quy định của pháp luật…cùng với xuất khẩu hàng hóa còn có xuất khẩu dịch vụ
như du lịch, hàng không, hàng hải, xuất khẩu lao động. Phạm vi của xuất khẩu không chỉ
hiểu đơn thuần là bán hàng hóa ra khỏi phạm vi biên giới của một nước, mà xuất khẩu
phải được hiểu dựa trên cơ sở đơn vị thường trú và không thường trú. Theo cách phân
chia này, hàng hóa được coi là xuất khẩu trong trường hợp được bán từ đơn vị thường
trú của nước này cho các đơn vị không thường trú của chính quốc gia đó. Cùng với nó là
hoạt động nhập khẩu: là việc đưa hàng hóa “ cũng bao gồm cả sản phẩm sản xuất và sản
phẩm dịch vụ” từ các quốc gia khác vào lãnh thổ của quốc gia mình, tạo nên cán cân
thương mại quốc tế, đóng góp đáng kể tăng trưởng kinh tế.
1.2. Vai trò của thương mại đối với sự phát triển kinh tế trong nền kinh
tế thị trường hiện nay.
Đặc trưng cơ bản của sự phát triển kinh tế thế giới hiện nay là quá trình hội nhập
mạnh mẽ kinh tế quốc tế. Cùng với đó hoạt động thương mại có vị trí ngày càng quan
trọng trong sự phát triển kinh tế của các nước. Điều đó được thể hiện ở các vai trò sau:
Một là: Trở thành nguồn tích lũy vốn quan trọng trong giai đoạn đầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa.
Hoạt động thương mại quốc tế tạo điều kiện xuất khẩu những sản phẩm có lợi thế
so sánh, góp phần cải thiện cán cân thương mại, đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho việc nhập
khẩu máy móc, thiết bị, nguyên nhiên, vật liệu phục vụ cho nhu cầu sản xuất trong nước.
2
Có nhiều nước đang phát triển không đủ điều kiện và khả năng đế sản xuất nhiều loại tư

liệu sản xuất, do đó việc nhập khẩu sản phẩm đã góp phần đáp ứng yêu cầu sản xuất
trong nước. Qua đó tạo điều kiện mở rộng thị trường trong và ngoài nước, nâng cao khả
năng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Hai là : Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa.
Ở các nước đang phát triển, giá trị nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn, lao động trong
nông nghiệp chiếm đại bộ phận. Phát triển ngoại thương thúc đẩy các mối liên kết
ngược xuôi giữa các ngành, sự phát triển của ngành trực tiếp xuất khẩu đã tác động tới
các ngành cung ứng đầu vào, thúc đẩy sự phát triển của ngành này. Sau đó tích lũy đước
nâng cao các sản phẩm thô vốn sử dụng cho xuất khẩu , lại trở thành nguyên liệu cung
cấp đầu vào cho các ngành công nghiệp chế biến. Sự phát triển của ngành này lại thúc
đẩy sự phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và các ngành dịch vụ.
Ba là : Thương mại quốc tế hướng chiến lược trong quan hệ sản xuất tiên tiến.
Thương mại quốc không chỉ tác động làm gia tăng nguồn thu ngoại tệ mà còn giúp
cho việc gia tăng nhu cầu sản xuất, kinh doanh ở những ngành liên quan khác. Thương
mại quốc tế tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, thúc đẩy tiêu dùng trong nước
giúp cho sản xuất ổn định và kinh tế phát triển, vì có nhiều thị trường do đó giúp phân
tán rủi ro trong cạnh tranh.. Thương mại quốc tế tạo điều kiện mở rộng khả năng cung
cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Thông qua cạnh tranh
trong xuất khẩu, buộc các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến sản xuất, tìm ra
những cách thức kinh doanh sao cho có hiệu quả, giảm chi phí và tăng năng suất.
Bốn là: Hoạt động ngoại thương tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước
ngày càng lớn mạnh, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Việc sản xuất sản phẩm làm cho các doanh nghiệp phụ thuộc vào thị trường thế
giới nhiều hơn so với thị trường trong nước. Do đó, các doanh nghiệp muốn đứng vững
trong cạnh tranh phải dựa vào tiêu chuẩn quốc tế. Thị trường thế giới rộng lớn cũng tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp phát huy được hiệu quả của sản xuất quy mô lớn. Mặt
khác thông qua hoạt động ngoại thương sẽ nhập khẩu được thiết bị và kỹ thuật tiên tiến,
tiếp cận được phương thức sản xuất hiện đại, phương pháp quản lý khoa học. Những
người lao động, cán bộ kỹ thuật có điều kiện để học tập bí quyết công nghệ, năng cao kỹ
năng sản xuất và trình độ quản lý.

Năm là: Thương mại quốc tế là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế
đối ngoại
Hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển sớm hơn quan hệ kinh tế đối ngoại khác và
tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các các quan hệ thương mại quốc tế khác như dịch
3
vụ thương mại, bảo hiểm hàng hoá, thông tin liên lạc quốc tế, dịch vụ tài chính quốc tế,
kinh doanh du lịch, khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên hiện có, cầu nối cho các
hoạt động chuyển giao công nghệ, đầu tư nước ngoài… Cuối cùng, kinh tế đối ngoại
tăng cường hợp tác và chuyên môn hoá quốc tế, là một mắt xích quan trọng trong quá
trình phân công lao động, nâng cao uy tín của của một quốc gia trên trường quốc tế.
Như vậy, với vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, việc đẩy mạnh kinh tế
thương mại quốc tế đã trở thành vấn đề được quan tâm hàng đầu, là động lực phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia trong ” thế giới phẳng”.
1.3. Các nhân tố chính ảnh hưởng đến thương mại quốc tế.
Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động ngoại thương cho ta thấy được sự
cần thiết của hoạt động này trong phát triển kinh tế cả quan hệ trong nước lẫn trong quan
hệ kinh tế với nước ngoài. Đặt nền kinh tế trong mối tương quan với các nền kinh tế
khác,trong xu hướng biến động chung của thế giới, cũng như là cơ sở cho hướng phát
triển của kinh tế trong nước theo chiến lược công nghiệp hóa hiện đại hóa cho một nền
kinh tế mở.
1.3.1. Các nhân tố bên ngoài
a. Nhân tố kinh tế
 Thu nhập của nước ngoài: thu nhập của nước ngoài tăng cũng có nghĩa là khi tăng
trưởng kinh tế của nước ngoài tăng tốc, thì giá trị xuất khẩu có cơ hội tăng lên.,
kéo theo là cải thiện tích cực cán cân thương mại quốc tế của quốc gia.
 Tỉ giá hối đoái: tỷ giá hối đoái tăng tức là tiền tệ trong nước mất giá so với ngoại
tệ, hàng xuất khẩu trong nước trở nên rẻ tương đối so với hàng hóa nước ngoài,
tạo lợi thế so sánh về giá hàng xuất khẩu của nước đó trên thị trường thế giới, là
yếu tố làm tăng giá trị kim nghạch xuất khẩu . Đồng thời, giá ngoại tệ tăng cũng
hạn chế đáng kể hoạt động nhập khẩu cải thiện một bước cho cán cân thương mại

quốc tế, giúp sớm đạt được mục tiêu chiến lược công nghiệp hóa đất nước theo
hướng xuất khẩu.
 Các thể chế áp dụng cho hoạt động thương mại quốc tế của các tổ chức kinh tế
thế giới mà quốc gia đó là thành viên: Tham gia các hoạt động kinh tế thế giới
đặc biệt là hoạt động xuất khẩu, thì các quy định, nguyên tắc đã được thiết lập
cần phải được tuân thủ nghiêm ngặt. Yếu tố này ảnh hưởng đến quyền pháp nhân
của quốc gia đó, đảm bảo được lợi thế so sánh và quyền tham gia thương mại một
cách có hiệu quả.
 Chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia: Định hướng chiến lược phát triển kinh
tế, định hướng cho các cân đối lớn trong cơ cấu tăng trưởng…Trong đó cân đối
4
thương mại quốc tế được coi là công cụ đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa
quốc gia, cũng như tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt chú trọng hơn
trong hoạt động xuất khẩu là một lĩnh vực được xem là động lực của tăng trưởng
theo cả chiều sâu và rộng. Bởi vậy mục tiêu và định hướng của chiến lược quốc
gia tác động mạnh đến lĩnh vực này.
 Cơ chế và thể chế kinh tế trong nước theo hướng mở: Xu hướng hội nhập toàn
cầu, kinh tế trong nước hội nhập kinh tế thế giới, trong đó ngoại thương được coi
là tiên phong trong hướng chiến lược “mở” của đất nước đặc biệt hoạt động xuất
khẩu giữ vai trò rất lớn bởi vậy việc xác lập những cơ chế, thể chế kinh tế chung
và riêng cho hoạt động xuất khẩu có tác động rất lớn đến chu trình trong hoạt
động này. Bên cạnh đó, với một nền kinh tế mở thì hoạt động nhập khẩu cũng
được mở rộng. Đây là điều kiện cho việc mở rộng hơn quy mô, cơ cấu sản phẩm
và cả thị trường tiêu thụ và nhập khẩu trong hoạt động thương mại quốc tế nói
chung và trong cơ cấu hoạt động thương mại nói riêng.
 Khoa học - Công nghệ: Số lượng và chất lượng của các hàng hóa xuất khẩu và
nhập khẩu chịu tác động mạnh. Đối với xuất khẩu quyết định đến giá trị gia tăng
cho sản phẩm và chi phí trung gian cho sản phẩm dùng để xuất khẩu. Tác động
đáng kể trong việc tạo lợi thế cạnh tranh về giá trên thị trường thế giới. Còn đối
với nhập khẩu, một bước gián tiếp cho ta tiếp nhận được công nghệ tiên tiến, một

cách thức để rút ngắn thời công nghiệp hóa, hướng dần đến theo hướng thay thế
nhập khẩu. Mở rộng tích cực cán cân thương mại.
b. Chính trị và pháp luật
 Luật pháp trong và ngoài nước: Yếu tố này tác động mạnh mẽ đến hoạt động
thương mại hợp pháp trên thị trường thế giới. Tạo những điều kiện thuận lợi và
có thể gây khó khăn trong chu trình xuất. nhập khẩu.
 Môi trường chính trị trong và ngoài nước: Sự ổn định hay bất ổn về mặt chính trị
nó tác động đến các hoạt động kinh tế của mỗi quốc gia và do vậy thương mại
quốc tế là nhân tố cũng nằm trong phạm vi ảnh hưởng của nhân tố này.
c. Văn hóa.
Thị hiếu của người tiêu dùng ở các nước nhập khẩu hàng hóa: Nhu cầu tiêu dụng ở
mỗi quốc gia là khác nhau do sự khác biệt về phong tục,tập quán, văn hóa,các yếu tố
mùa vụ và chu kì tiêu dùng. Hoạt động xuất khẩu cần phải quan tâm đến các yếu tố này,
nó sẽ quyết định xu hướng tiêu dùng , kéo theo là xu hướng nhập khẩu có thể tăng hoặc
giảm.
1.3.2. Các nhân tố bên trong
5
 Chiến lược phát triển thương mại quốc tế của quốc gia: hướng phát triển của
chiến lược thương mại quốc tế, các định mức xuất, nhập khẩu cần đạt trong kì kế
hoạch có vai trò quyết định đến hướng phát triển của hoạt động ngoại thương
theo chiều rộng hay theo chiều sâu.
 Chất lượng, cơ cấu các mặt hàng tham giá xuất, nhập khẩu: Xác định các mặt
hàng chủ lực có phải là lơi thế của quốc gia hay không, nó quyết định đến lợi thế
so sánh trong giao dịch thương mại quốc tế.
 Thị trường xuất, nhập khẩu hướng tới: Cơ cấu thị trường mà hoạt động ngoại
thương hướng tới, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu, ảnh hưởng đáng kể đến năng
lực cạnh tranh của hoạt động xuất khẩu, chất lượng các mặt hàng nhập khẩu. Các
thị trường khó tính hay dễ tính đều tác động đến chu trình giao dịch của xuất
khẩu. Việc nâng cao được kim ngạch xuất khẩu cũng phụ thuộc vào định hướng
phát triển tại các thị trường nhập khẩu:là việc khôi phục thị trường truyền thống,

chú trọng thị trường tiềm năng hay phát triển thị trường mới.
2. KẾ HOẠCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ.
2.1. Khái quát về kế hoạch thương mại quốc tế.
Kế hoạch thương mại quốc tế là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội. Nó đưa ra định hướng phát triển thương mại quốc tế, các mục tiêu về
thương mại quốc tế cần thực hiện trong thời kì kế hoạch và hệ thống các chính sách
nhằm thúc đẩy sự phát triển của thương mại quốc tế.
Kế hoạch thương mại quốc tế gồm 3 nội dung là:
- Định hướng về thương mại quốc tế trong kỳ kế hoạch.
- Các mục tiêu về xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại.
- Các chính sách phát triển thương mại quốc tế.
2.2. Nhiệm vụ của kế hoạch thương mại quốc tế.
- Xác định quy mô và tốc độ hoạt động xuất khẩu - nhập khẩu đảm bảo phù hợp
với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và tiến trình hội nhập của đất nước. Yếu tố này
phản ánh qua mức gia tăng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và xuất khẩu thuần.
- Xác định danh mục sản phẩm xuất khẩu chủ yếu, đảm bảo phát huy được lợi thế
so sánh của đất nước và hiệu quả kinh tế của xuất khẩu.
- Xác định danh mục các sản phẩm nhập khẩu, đảm bảo cho phục vụ sản xuất trong
nước. Cần phải xác định các loại sản phẩm ưu tiên nhập khẩu, đặc biệt là máy móc, thiết
bị phục vụ cho sản xuất, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng, nhất là hàng tiêu dùng xa xỉ
6
- Định hướng phát triển thị trường xuất khẩu sản phẩm: trong hoạt động ngoại
thương, thị trường luôn được coi là mặt mạnh là yếu tố quyết định đến chu trình của
hoạt động thương mại quốc tế. Một định hướng tốt vào các thị trường tiềm năng là
phương thức để tăng kim ngạch xuất khẩu.
- Đề ra các chính sách hợp lý, thúc đẩy hoạt động xuất - nhập khẩu: Các cơ chế,
chính sách khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu phù hợp trong từng thời kỳ là cơ
sở cần thiết cho phát triển thương mại ổn định và hiệu quả.
2.3. Nội dung kế hoạch thương mại quốc tế.
2.3.1. Phân tích đánh giá thực trạng hoạt động ngoại thương trong thời gian

qua.
Quá trình phân tích đánh giá thực trạng cần tiến hành trên hệ thống các kết quả đạt
được về mục tiêu chung, cũng như các kết quả đạt được trong cơ cấu các mặt hàng, các
thị trường cụ thể. Xác định sự đóng góp vào tốc độ tăng trưởng của thương mại quốc tế
nói riêng và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nói chung. Bên cạnh đó cần phân tích các
mặt hàng chủ lực trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Sự tăng trưởng của nó đóng góp như thế
nào vào kinh tế thương mại của đất nước? Đánh giá tỷ trọng của của các mặt hàng được
coi là lợi thế so sánh của đất nước so với thế giới. Yếu tố nào đảm bảo các chỉ tiêu về cả
chất lượng cũng như số lượng kim ngạch xuất khẩu trong kỳ kế hoạch hay sự tác động
nào làm giảm sút cán cân thương mại quốc tế của đất nước… Những đánh giá đó sẽ khái
quát được tình hình hoạt động thương mại quốc tế trong quan hệ thương mại của quốc
gia trong thời gian qua. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng. Từ đó xác định hướng chiến
lược trong kì kế hoạch tới, thấy đươc các điểm mạnh, điểm yếu cũng như cơ hội và
thách thức đối với ngoại thương trong thời kỳ kế hoạch. Trên cơ sở đó đưa ra những giải
pháp hoàn thiện hướng phát triển của xuất khẩu nhằm đóng góp tích cực vào thương mại
quốc tế của đất nước cũng như hướng chiến lược ngoại thương trong thời kỳ hội nhập
WTO.
2.3.2. Định hướng, mục tiêu và các mục tiêu thương mại quốc tế.
2.3.2.1. Định hướng
Một hướng đi đúng phù hợp với tình hình thực trạng trong nước, phù hợp với chiến
lược phát triển chung của quốc gia, đồng thời khẳng định được năng lực cạnh tranh
trong kinh tế đối ngoại, tránh sự lệ thuộc trong thương mại quốc tế, phát huy tốt vai trò
của hoạt động kinh tế này là yêu cầu trong nội dung kế hoạch thương mại quốc gia.
Bên cạnh định hướng chung, xuất khẩu hay nhập khẩu, hoạt động nào cần được
chú trọng nhiều hơn, phụ thuộc vào vị trí của quốc gia đang trong giai đoạn nào của quá
trình phát triển. Do đó nhiệm vụ xác định các nhóm mặt hàng cụ thể của xuất khẩu, nhập
7
khẩu hay danh mục các thị trường chủ yếu cần phải có các định hướng phù hợp nhằm
tận dụng tối đa được điều kiện thuận lợi của nhập khẩu, phát huy hoàn toàn được lợi thế
của xuất khẩu, tạo cân bằng tích cực trong cán cân thương mại quốc tế. Theo đó có 3

định hướng cho phát triển thương mại quốc tế.
Một là: Định hướng xuất khẩu bằng sản phẩm thô: Định hướng này nhằm vào các
mặt hàng của nông , lâm, thủy sản và sản phẩm các ngành khai thác khoáng sản. Nhằm
mục tiêu giải quyết các vấn đề về vốn và công nghệ, phát triển được ngành có lợi thế.
Tuy nhiên lại có nhiều hạn chế do: cầu sản phẩm thô có xu hướng giảm, cung luôn biến
động và nhiều bất lợi về giá. Định hướng này chỉ phù hợp với các quốc gia đang phát
triển, nhiều hạn chế về vốn, công nghệ lạc hậu.
Hai là: Định hướng chiến lược thay thế nhập khẩu: định hướng này chỉ là một
đoạn trong chu trình sống của sản phẩm. Nhằm mục tiêu hướng vào phát triển nội địa,
bảo vệ các ngành còn non trẻ chưa đủ sức cạnh tranh. Xuất phát của chiến lược này là
hạn chế nhập khẩu các hàng hóa tiêu dùng cuối cùng. Khi vốn tích lũy được gia tăng va
công nghệ đã được nâng cao sẽ hạn chế tiếp nhập khẩu các hàng hóa trung gian. Và tiếp
đến là xóa bỏ nhập khẩu. Định hướng này chỉ phù hợp với quốc gia phát triển, nắm chắc
công nghệ, chủ động được đầu tư và nguồn lực, thị trường trong nước đủ lớn và chính
sách bảo hộ của chính phủ phù hợp. Sẽ có nhiều hạn chế đối với các quốc gia đang phát
triển nếu áp dụng chiến lược này như: giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong nước, hạn chế xu hương công nghiệp hóa của đất nước, tăng nợ nước ngoài…
Ba là: Hướng về xuất khẩu: Là chiến lược hướng ra thị trường quốc tế để xuất
khẩu sản phẩm, bao gồm cả xuất khẩu sản phẩm thô và sản phẩm công nghệ, dựa vào
lợi thế so sánh của đất nước. Nhằm mục tiêu tạo nên một cơ cấu mở, phát triển các
ngành có lợi thế, tăng khả năng tiêu dùng kể cả các mặt hàng không có khả năng sản
xuất. Đây cũng là hướng chiến lược phù hợp cho các nước đang phát triển. Tuy vậy lại
thiếu tính bền vững trong chuỗi giá trị quốc tế, thị trường trong nước không được chú
trọng.
2.3.2.2. Mục tiêu
Hệ thống các mục tiêu đối với kế hoạch thương mại quốc tế của quốc gia bao gồm
hai hệ thống mục tiêu chính là mục tiêu cho kế hoạch xuất khẩu và mục tiêu cho kế
hoạch nhập khẩu cụ thể:
 Đối với hoạt động xuât khẩu.
Thứ nhất là hệ thống các mục tiêu về quy mô phát triển.

8
Đây là mục tiêu mang tính tổng quát nhất về thành tựu của xuất khẩu mong muốn
đạt được trong kỳ kế hoạch. Phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng kinh tế và sự biến động
trên thị trường quốc tế. Nó bao gồm mục tiêu về:
- Tổng kim ngạch xuất khẩu .
- Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu ..
- Mục tiêu lồng ghép như xuất khẩu bình quân đầu người, tỷ trọng xuất khẩu.
Thứ hai là các mục tiêu về danh mục các hàng hóa xuất khẩu
Phương hướng chủ đạo để phát triển xuất khẩu là tạo dựng danh mục các hàng hóa
xuất khẩu(gồm cả sản phẩm sản xuất và dịch vụ) trong đó cần chú trọng đặc biệt tới
những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là giới hạn vào
những mặt hàng cố định mà linh hoạt đáp ứng nhu cầu thị trường và biến động giá cả.
Đồng thời cần tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu có hàm lượng công nghệ cao,
nhiều chất xám, có công nghệ mới để tạo cho nhóm hàng này có vị trí quan trọng trong
cơ cấu hàng xuất khẩu.
Trong một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, việc xác định cơ cấu hàng
xuất khẩu phải căn cứ vào: thị trường xuất khẩu, điều kiện và khả năng sản xuất ở trong
nước, hiệu quả cao (bao gồm hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội). Trong ba
yếu tố này, hiệu quả là yếu tố quan trọng hàng đầu trong sự lựa chọn cơ cấu về mặt hàng
xuất khẩu. Để nâng cao hiệu quả và sức cạnh trạnh của hàng xuất khẩu, cần có chính
sách chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng: (1) giảm tỷ trọng thô và sơ chế
đi đôi với tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến trong cơ cấu hàng xuất khẩu, (2) giảm tỷ
trọng các sản phẩm xuất khẩu truyền thống đi đôi với tăng tỷ trọng các sản phẩm xuất
khẩu mới, (3) tăng tỷ trọng các sản phẩm có giá trị gia tăng cao trong giá trị kim ngạch
hàng xuất khẩu.
Xác định cơ cấu hàng xuất khẩu phải gắn liền và phù hợp với việc cơ cấu nền kinh
tế và cơ cấu thị trường thế giới trong hiện tại và tương lai.
Thứ ba: là các mục tiêu về danh mục các thị trường xuất khẩu hàng hóa
Đây là vấn đề quan trọng có ý nghĩa quyết định đến tính khả thi của kế hoạch xuất
khẩu. Việc có được thị trường xuất khẩu nghĩa là xác định được nhu cầu của sản phẩm

trên thị trường quốc tế. Nguyên tắc chung với vấn đề này là đa dạng hóa thị trường xuất
khẩu, giữ vững và mở rộng thị trường truyền thống, đồng thời tích cực tìm kiếm thêm thị
trường mới.
 Đối với hoạt động nhập khẩu.
9
Kế hoạch nhập khẩu căn cứ vào: khả năng tăng trưởng kinh tế về thu nhập, về nhu
cầu máy móc thiết bị, nhu cầu tiêu dùng đối với hàng ngoại nhập, căn cứ vào sự chuyển
dịch cơ cấu ngành và mối tương quan với quy mô và tốc độ với kim ngạch xuất khẩu.
Thứ nhất là hệ thống các mục tiêu về quy mô phát triển: luôn hướng tới sự cân
bằng hợp lý cán cân xuất nhập khẩu bao gồm:
- Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa.
- Tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa.
Thứ hai là các mục tiêu về danh mục các mặt hàng nhập khẩu
Với cơ cấu thị trường mở, mỗi quốc gia nằm trong một thị trường chung, được tiếp
cận với rất nhiều các sản phẩm và dịch vụ tiên tiến trên thế giới. Tuy vậy việc xác định
cơ cấu mặt hàng nhập khẩu phải đảm bảo được cân đối thương mại, tránh sự lệ thuộc
quá nhiều vào thị trường thế giới, giải quyết tốt các vấn đề công nghệ, vốn, đảm bảo
được năng lực cạnh tranh của các hàng hóa trong nước, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng
tối ưu. Mục tiêu là: (1) Giảm tỷ trọng các hàng hóa tiêu dùng cuối cùng đi đôi với tăng
tỷ trọng các mặt hàng trung gian, (2) Giảm nhập đến mức hạn chế các công nghệ lạc
hậu, công nghệ trung gian đi đôi với việc tăng tỷ trọng về nhập khẩu các thiết bị hiện
đại, đảm bảo chuyển giao công nghệ hiệu quả. (3) Giảm tối thiểu các mặt hàng có khả
năng thay thế nhập khẩu.
Xác định cơ cấu hàng nhập khẩu phải gắn liền và phù hợp với việc cơ cấu nền kinh
tế và cơ cấu thị trường thế giới trong hiện tại và tương lai.Một cơ cấu không hợp lý dẫn
đến giá trị và tỉ trọng nhập siêu cao, làm thâm hụt cán cân thương mại…Vì vậy cần phải
có những mục tiêu phù hợp cho danh mục các mặt hàng nhập khẩu.
Thứ ba: là các mục tiêu về danh mục các thị trường nhập khẩu hàng hóa
Với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động nhập khẩu diễn ra dường như sôi
động hơn, sự đa dạng hóa các thị trường nhập khẩu là một yêu cầu trong tiến trình hội

nhập. Do đó cần có những mục tiêu hướng thị trường nhập khẩu vào quan hệ kinh tế bền
vững giữa các quốc gia để tận dụng được những lợi thế về giá, chất lượng, công nghệ
hàng nhập khẩu…
2.2.3. Chính sách và các giải pháp cho thương mại quốc tế.
a.Chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô, hỗ trợ cho kế hoạch thương mại quốc tế.
Cơ cấu thị trường thế giới thay đổi do tác động trực tiếp và gián tiếp của cách
mạng khoa học kỹ thuật theo xu hướng:
Thứ nhất : Giảm đáng kể tỉ trọng nhóm lương thực thực phẩm trên thị trường thế
giới.
Thứ Hai : Tỷ trọng nhóm hàng truyền thống giảm mạnh trên thị trường thế giới.
10
Thứ Ba : Do giá nguyên liệu tăng cao nên một số nước nhập khẩu chính đã
chuyển sang tăng cường khai thác trong nước nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào bên
ngoài.
Thứ Tư : Tăng tỉ trọng sản phẩm công nghiệp chế biến, đặc biệt là máy móc thiết
bị.
Chính sách xuất khẩu là hệ thống các nguyên tắc, biện pháp kinh tế hành chính,
pháp luật dùng để thực hiện các mục tiêu đã được xác định trong lĩnh vực xuất khẩu của
mỗi một quốc gia trong thời ký nhất định. Chính sách xuất khẩu là một bộ phận trong hệ
thống các chính sách về thương mại quốc tế nói chung. Xác định các chính sách xuất
khẩu có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện kế hoạch xuất khẩu nói riêng và kế
hoạch về thương mại quốc tế nói chung. Qua đó giúp xây dựng chính sách điều tiết
thương mại quốc tế có hiệu quả. Nắm vững thâm nhập thị trường và lựa chọn hình thức
bành trướng kinh tế bên ngoài.
Để hoạt động ngoại thương có thể đi theo những định hướng cơ bản trong kế
hoạch, cần phải có những chinh sách điều tiết để hướng dẫn hoạt động ngoại thương,
bao gồm: các chính sách sau
a.1. Chính sách về tỉ giá hối đoái
Tỉ giá hối đoái là tỉ lệ chuyển đổi đơn vị tiền tệ của nước này ra những đơn vị tiền
tệ của nước khác, tỉ giá này phản ánh giá trị đồng tiền một nước so với giá trị đồng ngoại

tệ trong từng thời kì nhất định.
Tỉ giá hối đoái có thể tác động lớn đến hoạt động thương mại quốc tế cua quốc gia.
Khi tỉ giá hối đoái tăng tức là đồng tiền trong nước sẽ giảm giá trị so với đồng tiền nước
ngoài thì hàng hóa xuất khẩu sang nước khác tính theo giá cả của đồng tiền nước ngoài
sẽ giảm, làm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi
cho xuất khẩu hàng hóa và có tiacs dụng hạn chế nhập khẩu. và ngược lại.
Thông thường có ba chính sách về tỉ giá hối đoái:
Thứ nhất: Chính sách tỉ giá hối đoái cố định, là chính sách do Nhà nước quy định,
không thay đổi theo sự biến động cung cầu ngoại tệ trong nước và quốc tế, tức là không
theo sự biến động của thị trường. Chính sách này thường áp dụng ở các quốc gia theo cơ
chế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước thường trực tiếp xác định tỉ giá hối đoái và hoạt
động xuất khẩu do nhà nước độc quyền. Trong điều kiện này, tỉ giá hối đoái thường ít có
tác động với việc điều tiết thương mại quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng
hóa nói riêng.
Thứ hai: Chính sách tỉ giá hối đoái thả nổi tự do, là tỉ giá hối đoái hoàn toàn do
cung cầu trên thị trường tự do quyết định, không có bất cứ sụ can thiệp nào của Chính
11
phủ. Trong chế độ tỉ giá hối đoái này, Chính phủ để cho thị trường ngoại hối quyết định
giá trị đồng tiền trong nước.
Thứ ba: Chính sách tỉ giá hối đoái theo thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, là
tỉ giá không được thả nổi tự do trên thị trường, khi Chính phủ can thiệp vào thị trường
ngoại hối để tác động đến tỉ giá hối đoái thì việc hình thành tỉ giá này được gọi là tỉ giá
thả nổi có quản lý. Chính phủ có thể can thiệp bằng mua hoặc bán các đồng ngoại tệ,
hoặc các biện pháp kiểm soát thị trường ngoại hối. Mức độ tác động điều tiết của tỉ giá
hối đoái còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường và mức độ mở của nền kinh
tế.
a.2. Chính sách thuế quan và phi thuế quan.
 Công cụ thuế bao gồm cả thuế xuât khẩu và thuế nhập khẩu.
Thứ nhất: Thuế xuất khẩu hàng hóa: Thuế xuất khẩu thường hướng tới việc nâng
cao khả năng cạnh tranh cho các sản phẩm xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Do đó, trong

thời kì đầu xuất khẩu các sản phẩm thường chỉ chịu thuế suất thấp, thuê suất thường ở
mức xấp xỉ hoặc bằng 0. Hiện nay, ở nhiều quốc gia trên thế giới không chỉ giảm thuế
với hàng hóa xuất khẩu mà còn hoàn thuế đối với nguyên, vật liệu nhập khẩu để sản xuất
sản phẩm xuất khẩu.
Thứ hai: Thuế nhập khẩu phục vụ cho hoạt động ngoại thương và sản xuất trong
nước được gọi là thuế bảo hộ. Đó là việc đánh thuế cao vào những hàng nhập khẩu có
sức cạnh tranh với hàng trong nước. Hình thức này áp dụng cho các quốc gia thực hiện
chiến lược thay thế nhập khẩu. Nhiều nước phát triển thực hiện việc thay thế nhập khẩu
có điều kiện, tức là bảo hộ hàng sản xuất trong nước với những thời gian nhất định, tạo
điều kiện cho những ngành hàng nâng cao khả năng cạnh tranh, sau đó sẽ tiến hành xuất
khẩu.
 Công cụ phi thuế quan gồm: hạn ngạch, các ưu đãi tín dụng,…
 Thứ nhất: Hạn ngạch là hình thức hạn chế nhập khẩu hoặc xuất khẩu. Đây là
những hạn mức do nhà nước trực tiếp quyết định. Theo đó bãi bỏ những hạn mức
đối với các mặt hàng có lợi thế của quốc gia trên thị trường quốc tế, hay nghiêm
cấm xuất khẩu một số mặt hàng theo quy định quốc gia…Đồng thời hạn ngạch
xuất khẩu cũng phụ thuộc vào quốc gia nhập khẩu của các các mặt hàng đó. Cùng
với đó là các hạn ngạch nhập khẩu. Các mặt hàng cấm nhập khẩu sẽ tương ứng
với hàng cấm xuất khẩu. Và hạn ngạch nhập khẩu cũng phụ thuộc vào hạn ngạch
xuất khẩu của nước mà quốc gia tiến hành nhập khẩu.
Thứ hai: Ưu tiên vay vốn cho các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu. Các biện pháp
thường được sử dụng như ưu đãi tín dụng, trợ giúp các doanh nghiệp tăng cường khả
12
năng tiếp cận với thông tin thương mại quốc tế, đào tạo kĩ năng xúc tiến thương mại cho
cán bộ hoạt động xuất khẩu. Định hướng thị trường cho các ngành hàng xuất khẩu. Mua
tạm trữ hàng hóa cho những sản phẩm xuất khẩu có tính thời vụ (gạo, cà phê).
b.Các giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh thương mại quốc tế của quốc gia
Thứ nhất: Nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả và chất lường sản phẩm hàng
hóa, dịch vụ; từng bước nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Giải quyết tốt các vấn đề về
thương hiệu hàng hóa để tăng thêm khả năng cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường

quốc tế. Một trong những vấn đề trọng tâm là ”Xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ
lực”. Mặc dù có chính sách đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu nhằm tăng cường các quan
hệ thương mại.Tuy vậy để tạo ra một lợi thế so sánh trong hoạt động xuất khẩu của quốc
gia thì việc tập trung vào các mặt hàng chủ lực là cơ sở để quốc gia đó chủ động hơn
trong định hướng phát triển kinh tế thương mại của quốc gia mình, tăng vị thế của quốc
gia trên trường quốc tế, nâng cao chất lượng cũng như giá trị của kim ngạch xuất khẩu.
Tạo ra sự tăng trưởng ổn định của kim ngạch xuất khẩu nói riêng và giữ vững được cán
cân thương mại trong bối cảnh đầy biến động của kinh tế toàn cầu .
Thứ hai: Phát triển thị trường trên cơ sở phát triển mạnh xúc tiến thương mại, thực
hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực mở rộng thị trường, đa phương hóa
và đa dạng hóa quan hệ với các đối tác; tận dụng mọi khả năng để tăng mức xuất khẩu
trên tất cả các thị trường đã có, song song với việc đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị
trường tiềm năng là củng cố thị trường truyền thống và phát triển thị trường mới.
Thứ ba: Đầu tư cho xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu tạo cán cân thương mại tích
cực.
Nhà nước áp dụng các biện pháp khuyến khich đầu tư sau nhằm hướng vào xuất
khẩu:
- Khuyến khích đầu tư qua thuế.
- Khuyến khích đầu tư bằng chính sách tạo nguồn vốn.
- Khuyến khích đầu tư qua chính sách tín dụng.
- Khuyến khích đầu tư qua khu công nghệ cao và khu chế xuất.
Thứ tư: Hoàn thiện cơ chế chính sách xuất nhập khẩu, từng bước nâng cao hiều
quả xuất nhập khẩu thông qua việc hoàn thiện toàn bộ hệ thống thuế, phí theo hướng
khuyến khích xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, khuyến khích
sử dụng các vật tư, nguyên liệu, sản phẩm công nghiệp sản xuất trong nước cho nhu cầu
sản xuất nói chung và sản xuất hàng xuất khẩu nói riêng . Triển khai các công cụ quản lý
nhập khẩu phù hợp với quy định của thị trường quốc tế.
13

PHẦN THỨ HAI

KẾ HOẠCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2006- 2010
ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH GIAI ĐOẠN 2006-2008
14

×