Tải bản đầy đủ (.pdf) (198 trang)

thông tin về vấn đề lạm dụng chức vụ, quyền hạn trên báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.14 MB, 198 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

PHẠM THU HƢỜNG

THÔNG TIN VỀ VẤN ĐỀ LẠM DỤNG CHỨC VỤ,
QUYỀN HẠN TRÊN BÁO CHÍ

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ

Hà Nội – 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

PHẠM THU HƢỜNG

THÔNG TIN VỀ VẤN ĐỀ LẠM DỤNG CHỨC VỤ,
QUYỀN HẠN TRÊN BÁO CHÍ
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học
Mã số: 60.32.01.01

Người hướng dẫn khoa học

Chủ tịch hội đồng

Hà Nội – 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn và
giúp đỡ của PGS. TS Dương Xuân Sơn
Nội dung và kết quả nghiên cứu trong đề tài này là trung thực. Những số liệu
trong luận văn có cơ sở rõ ràng được chính tác giả thu thập, phân tích và tổng hợp.
Phần tài liệu tham khảo được dẫn nguồn đầy đủ và chính xác. Các kết luận của luận
văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những nội dung, kết quả trong quá
trình thực hiện nghiên cứu luận văn này.

Hà Nội, ngày 11 tháng 06 năm 2020
Tác giả luận văn


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài “Thông tin về vấn đề lạm dụng chức vụ,
quyền hạn (CVQH) trên báo chí”, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy
cô, gia đình, bạn bè. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Trước hết, tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS.TS
Dương Xuân Sơn, người đã trực tiếp hướng dẫn tận tình cũng như định hướng về
phương pháp làm việc, phương pháp nghiên cứu và tạo mọi điều kiện để tôi hoàn
thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo trong chuyên ngành
Báo chí học, các thầy cô trong Khoa Báo chí và Truyền thông, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi
trong suốt những năm học vừa qua.
Cảm ơn bạn bè, và gia đình đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Tác giả



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................5
1. Tính cấp thiết của đề tài ..........................................................................................5
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .............................................................8
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................................8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................11
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................11
6. Ý nghĩa luận văn ...................................................................................................13
7. Kết cấu của luân văn .............................................................................................14
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ LẠM DỤNG
CVQH TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ ...............................................................................15
1.1 Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài .....................................................15
1.2 Quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về vấn đề lạm dụng CVQH.......................27
1.3 Tình hình thông tin chung về vấn đề lạm dụng CVQH .................................30
1.3.1 Thông tin về vấn đề lạm dụng CVQH trên thế giới .........................................30
1.3.2 Thông tin về vấn đề lạm dụng CVQH ở Việt Nam ...........................................31
1.4 Vai trò của báo chí trong việc thông tin về vấn đề lạm dụng CVQH...........38
1.4.1 Báo chí góp phần nâng cao niềm tin của nhân dân vào hệ thống chính trị ....38
1.4.2 Góp phần nâng cao trách nhiệm CBCC trong thực thi công vụ ......................39
Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................................42
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ LẠM DỤNG CVQH TRÊN BÁO ĐIỆN
TỬ HIỆN NAY .........................................................................................................43
2.1 Vài nét về 3 tờ báo đƣợc khảo sát ....................................................................43
2.1.1 Dantri.com .......................................................................................................43
2.1.2 Vnexpress.net ...................................................................................................44
2.1.3 Tuoitre.vn .........................................................................................................45
2.2 Thực trạng thông tin về vấn đề lạm dụng CVQH trên báo điện tử .............46
2.2.1 Nội dung thông tin ............................................................................................46

2.2.2 Hình thức thông tin ..........................................................................................71

1


2.2.2.1 Khảo sát tần suất, khối lượng, mức độ thông tin.......................................71
2.2.2.2 Cách thức chuyển tải thông tin ..................................................................76
Tiểu kết chƣơng 2 ..................................................................................................104
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP THÔNG TIN VỀ VẤN ĐỀ LẠM DỤNG CVQH
TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ ..........................................................................................106
3.1 Đánh giá chung .................................................................................................106
3.1.1 Thành công của ba tờ báo trong việc thông tin về vấn đề lạm dụng CVQH ........106
3.1.2 Hạn chế của ba tờ báo trong việc thông tin về vấn đề lạm dụng CVQH .......109
3.2 Nguyên nhân của thành công và hạn chế ......................................................114
3.2.1 Nguyên nhân của thành công .........................................................................114
3.3 Giải pháp thông tin về vấn đề lạm dụng CVQH trên báo điện tử ..............117
3.3.1 Giải pháp vĩ mô ..............................................................................................117
3.3.2 Giải pháp đối với nội dung và hình thức thông tin ........................................119
3.3.3 Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ nhà báo, phóng viên .......123
Tiểu kết chƣơng 3 ..................................................................................................126
KẾT LUẬN ............................................................................................................127
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................129

2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CVQH: Chức vụ, quyền hạn
PCTN: Phòng chống tham nhũng
CQNN: Cơ quan Nhà nước

QH: Quốc hội
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
CBCC: Cán bộ, công chức
Dân trí: Báo Dantri.vn
TTO: Báo Tuoitre.vn
VNE: Báo VnExpress.net
HĐND: Hội đồng nhân dân

3


DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Biểu đồ 2.1: Khảo sát tuần suất đưa tin về vấn đề lạm dụng CVQH trên 3 tờ báo:
VnE, Dân trí, Tuổi trẻ. ĐVT: Bài viết ......................................................................72
Biểu đồ 2.2: So sánh lượng nội dung thông tin theo lĩnh vực giữa ba báo VnE, Dân
trí, tuổi trẻ trong thời gian từ 2016 -2019. ĐVT: Bài viết ........................................73
Biểu đồ 2.3: Số lượng bài viết về vấn đề lạm dụng CVQH theo lĩnh vực và theo năm .....74
Biểu đồ 2.4: Số bài đưa tin về vấn đề lạm dụng CVQH theo cấp đơn vị hành chính
(2016-2019) ...............................................................................................................76
Bảng 2.5: Số lượng thể loại được sử dụng để thông tin về vấn đề lạm dụng CVQH ........80
Biểu đồ 2.6: Tỷ lệ phản hồi của độc giả về vấn đề lạm dụng CVQH trên ba báo.......103

4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà triết học khai sáng Montesquieue đã từng khuyến cáo: “Bất kỳ ai có
quyền lực đều có xu hướng lạm dụng quyền lực”. Trên thực tế, tình trạng lạm dụng
quyền lực vẫn luôn tiềm ẩn và thường xuyên xảy ra ở bất kỳ quốc gia nào cho dù

thể chế chính trị có khác nhau. Dù không giống nhau về mức độ, nhưng không có
quốc gia nào không có những vụ án hay đại án mà người có CVQH tự “nới lỏng”
thêm cho mình những quyền lực vượt ngoài phạm vi cho phép để đạt được mục
đích cá nhân. Chính vì vậy, kiểm soát quyền lực, phòng ngừa, ngăn chặn những
hành vi, xa rời chuẩn mực của cán bộ, công chức là vấn đề được nhiều quốc gia
quan tâm và có thiết chế quy định.
Trong công trình nghiên cứu và cuốn sách “Quyền lực chính trị và kiểm soát
dân chủ ở Anh”, nhà nghiên cứu - học giả Stuart Weir và David Beetham rút ra kết
luận: “Trong hệ thống chính trị ở Vương quốc Anh, kiểm soát quyền lực, phòng,
chống lạm quyền là phương thức tốt để đảm bảo chuẩn mực của nền dân chủ xã
hội”. [35]. Mới đây, ngày 16/7/2019, Hàn Quốc đã thi hành Luật cấm lạm dụng
CVQH nơi công sở. Cụ thể, đạo luật này cấm những người có CVQH lạm dụng
quyền lực của mình gây tổn hại đến tâm thần, sức khỏe hoặc bầu không khí làm
việc. Thậm chí trên trang web của Bộ lao động Hàn Quốc còn dành riêng một
chuyên mục để người dân có thể bằng nhiều cách gọi điện, gửi email hoặc viết ý
kiến trực tiếp tố cáo những cá nhân có hành vi lạm dụng CVQH. Có thể nói, lực
lượng lãnh đạo và chính quyền các nước đều xác định cuộc chiến chống lại tình
trạng lạm quyền là cuộc đấu tranh lâu dài, có ý nghĩa chiến lược và cần phải thắng
lợi từng bước.
Ở Việt Nam, từ năm 1947, chỉ hai năm sau khi nước ta giành được chính
quyền, với tư duy khoa học và tầm nhìn chiến lược cùng với sự nhạy bén về chính
trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên lượng, cảnh báo nguy cơ dễ mắc phải “căn bệnh”
lạm quyền của những người cán bộ chủ trì nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền.
Người viết trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”: “Khi có quyền lực trong tay thì

5


chuyện lạm dụng quyền lực rất dễ xảy ra dù trước đó anh ta có là người có nhiều
thành tích, năng lực”. [31]. Nhận thức sâu sắc về tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí

Minh, Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam khoá XII đã chỉ rõ: “Lạm dụng CVQH là một trong những biểu hiện suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống rất nghiêm trọng của một bộ phận cán
bộ, đảng viên có chức, có quyền trong hệ thống chính trị. Chính vì vậy, đấu tranh
loại bỏ nó là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói
chung và làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay.” [33] Từ đó có thể
thấy, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm và chú trọng đến việc kiểm soát quyền
lực bao gồm từ việc trao quyền, thực thi quyền lực và kiểm soát mà trước hết tập
trung xây dựng, hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát việc trao thực thi
quyền lực và phòng, chống có hiệu quả việc tha hóa quyền lực. Công tác phòng,
chống tham nhũng (PCTN) nói chung và công tác đấu tranh chống tình trạng lạm
dụng CVQH nói riêng đã có những chuyển biến tích cực cả về nhận thức, hành
động, đạt được những kết quả nhất định. Tuy vậy, trên thực tế tình trạng lạm dụng
quyền lực vẫn chưa được khắc phục và đẩy lùi một cách hiệu quả. Đầu năm 2018,
ông Phan Văn Vĩnh – nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an bị
khởi tố, nguyên nhân là do người đứng đầu một cơ quan phòng chống tội phạm này
đã “lạm dụng quyền lực”, “bảo kê”, tiếp tay cho tội phạm lộng hành trong chính
lĩnh vực mình quản lý. Hay như trong vụ bà nữ trưởng phòng Quản trị - Văn phòng
Tỉnh Ủy Đắk Lắk mà dư luận vô cùng bất bình gần đây, bà này đã dùng bằng tốt
nghiệp cấp 3 của chị gái ruột để leo lên vị trí rất cao trong hệ thống chính trị địa
phương. Rõ ràng đã có dấu hiệu lạm dụng quyền lực trong công tác tuyển dụng, bổ
nhiệm cán bộ. Và đáng buồn là tình trạng này dường như không phải là đơn lẻ mà
đã trở thành vấn nạn. Ở rất nhiều địa phương, công tác cán bộ được thực hiện
không đúng quy định, không công khai, minh bạch, công tâm, khách quan; một số
nơi, một số trường hợp thi, tuyển dụng công chức, viên chức chỉ mang tính hình
thức. Tình trạng “tiền tệ”, “hậu duệ”, “quan hệ”, “môn đệ” trở thành thông lệ phổ
biến và mặc nhiên tồn tại gây bức xúc dư luận.

6



Đứng trước tình hình đó, ngày 23-9-2019, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí
thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ký ban hành Quy định 205-QĐ/TW về việc
kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Quy
định này là phương thức, giải pháp để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và
chống chạy chức, chạy quyền, là bước cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng
và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị về xây dựng Đảng.
Ngay lập tức thu hút được sự quan tâm, đồng tình ủng hộ của đông đảo cán bộ,
đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Điều này khẳng định Quy định được ban
hành là rất cần thiết và kịp thời trong bối cảnh hiện nay.
Đặc biệt, trước thềm Đại hội XIII, Đảng và Nhà nước đều nêu cao tinh thần
trách nhiệm, thái độ nghiêm túc và quyết liệt trong chống lộng quyền, lạm quyền,
thao túng công tác cán bộ. Theo đó, trong cuộc họp tiểu ban Nhân sự đại hội XIII
của Đảng diễn ra vào ngày 19/03/2020 vừa qua, Tổng bí thư, Chủ tịch nước
Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Việc khắc phục những hạn chế, yếu kém của
công tác cán bộ là việc làm cấp thiết; công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII không
chỉ là nhiệm vụ của Tiểu ban Nhân sự, của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của Ban Chấp
hành Trung ương mà là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị…”[40]. Có
thể nói vấn đề đấu tranh phòng chống lạm quyền đã và đang là mục tiêu chung của
cả hệ thống chính trị, là vấn đề bức thiết được đặt ra trong tình hình hiện nay. Với
tư cách là phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước (QLNN) từ bên ngoài, báo
chí có vai trò rất quan trọng. Báo chí nói chung và báo điện tử nói riêng đã tận dụng
rất tốt thế mạnh phản ánh thông tin “đúng, trúng, nhanh” đến đông đảo độc giả. Báo
chí thông tin đến người dân quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và pháp
luật của Nhà nước, phát hiện, đấu tranh với những hành vi lạm dụng chức quyền.
Trên báo chí, chúng ta đã được thấy những biểu hiện lạm dụng CVQH trong thi
hành công vụ diễn ra trên nhiều lĩnh vực, với những thủ đoạn rất tinh vi. Tuy nhiên,
trên thực tế việc đưa thông tin về vấn đề lạm dụng chức quyền vẫn còn tồn tại
những bất cập, chưa tương xứng, bên “nặng” bên “nhẹ”. Tại lễ trao giải Báo chí với
công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng diễn ra ngày 16/08/2019, thủ tướng

Nguyễn Xuân Phúc đã phát biểu: “Báo chí rất cần chú trọng thêm đến việc phát

7


hiện những sơ hở về thể chế pháp luật, cơ chế chính sách có thể tạo môi trường cho
tiêu cực, lạm dụng chức quyền. Bên cạnh việc thông tin về các vụ án, vụ việc lớn,
phức tạp, được dư luận xã hội quan tâm, báo chí cũng cần tích cực phản ánh về
những biểu hiện nhũng nhiễu, tiêu cực, cửa quyền, “tham nhũng vặt” xảy ra, gây
không ít phiền hà, bức xúc đối với đời sống của nhân dân và hoạt động sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp.”
Xuất phát từ mong muốn làm rõ những thông tin liên quan đến vấn đề lạm
dụng CVQH qua phương tiện truyền thông đại chúng là báo chí, mà cụ thể là báo
điện tử. Từ đó, đề ra một số giải pháp giúp tăng cường chất lượng thông tin về vấn
đề lạm dụng CVQH cho báo điện tử, tác giả luận văn xin lựa chọn đề tài “Thông tin
về vấn đề lạm dụng CVQH trên báo chí”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở phạm vi rộng, vấn đề lạm dụng CVQH luôn được gắn với quyền lực chính
trị, quyền lực nhà nước, gắn với đời sống chính trị - xã hội nói chung. Còn ở phạm
vi hẹp hơn, theo tổ chức Minh bạch Quốc Tế “lạm dụng CVQH” chính là 1 trong 7
dạng thức của tham nhũng (ngoài ra còn có: Hối lộ, Gian lận và dối trá, Chiếm đoạt,
Tham nhũng có hệ thống, Tham nhũng có móc ngoặc, Tống tiền). Theo Luật phòng
chống tham nhũng Việt Nam có hiệu lực năm 2018, hành vi “lạm dụng CVQH”
nằm trong 12 hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước do người có CVQH
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước thực hiện. Rõ ràng, “lạm dụng
CVQH” là một vấn đề lớn, được thông tin rộng khắp trên báo chí. Đặc biệt báo điện
tử với ưu thế vượt trội của mình đã mang đến cơ hội tiếp cận thông tin về vấn đề
lạm dụng CVQH một cách nhanh chóng, sinh động, thu hút được quan tâm của
đông đảo người dân và thường tạo ra được những diễn đàn tranh luận sôi nổi, là cầu
nối giúp nhân dân được thể hiện tiếng nói của mình trước các cơ quan công quyền.

Trong quá trình nghiên cứu đề cạnh tới các khía cạnh khác nhau của đề tài
đã có một số nghiên cứu khoa học như sau. Luận văn thạc sĩ “Nâng cao chất lượng
thông tin trên báo điện tử” tác giả Phạm Thị Hằng đã làm sáng tỏ những vấn đề về
thực trạng thông tin trên báo điện tử hiện nay, qua đó đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin trên báo điện tử nói chung trong xu

8


thế hội nhập. Luận văn thạc sĩ: “Báo chí với vấn đề kiểm soát quyền lực và phản
biện xã hội” tác giả Mai Thị Thúy Hường đã khảo sát thực tiễn vai trò của báo chí
trong đời sống chính trị, xã hội đồng thời nhấn mạnh vai trò, chức năng giám sát
quyền lực và phản biện xã hội của báo chí. Luận án tiến sĩ “Phản biện xã hội trên
báo điện tử” tác giả Trần Xuân Thân đã hệ thống những lý luận vào thực tiễn phản
biện xã hội trên báo điện tử ở Việt Nam để đánh giá thực trạng chất lượng phản
biện; chỉ ra thế mạnh, hạn chế phản biện xã hội trên báo điện tử; qua đó góp phần
hình thành cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc đề ra các giải pháp nâng cao chất
lượng phản biện xã hội trên báo điện tử ở Việt Nam.
Một số công trình nghiên cứu trong lĩnh vực chính trị học cũng đề cập đến
vấn đề kiểm soát quyền lực như: “Giám sát quyền lực Nhà nước: Một số vấn đề về
lý luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay” (tác giả TS. Trịnh Thị Xuyến, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2008), “Quyền lực nhà nước và quyền công dân” (tác giả
Đinh Văn Mậu, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2003); “Giám sát và cơ chế giám sát việc
thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay”, NXB Công an nhân dân, Hà
Nội, 2003). Tuy nhiên, các công trình này chỉ để cập đến vai trò của các phương
tiện thông tin đại chúng như một trong những thiết chế, một mắt xích của quá trình
giám sát quyền lực và phản biện xã hội. Do đó, sự phân tích, các nhận định, đánh
giá về vai trò, tác động của báo chí còn sơ sài, chưa toàn diện.
Ngoài ra còn có một ông trình nghiên cứu trong lĩnh vực Luật học có đề cập
đến vấn đề tham nhũng nói chung. Luận án tiến sĩ:“Các tội phạm về tham nhũng

theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” tác giả Hồ Sỹ
Sơn đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về các tội phạm về tham nhũng; thực trạng
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội phạm về tham nhũng. Cuốn
sách “Corruption and misuse of public office” (Tham nhũng và vi phạm của cơ
quan công quyền) của các tác giả Colin Nicholls QC, Timothy Daniel, Alan
Bacarese, and John Hatchard do Nhà xuất bản Oxford University Press xuất bản
năm 2011. Trong cuốn sách này, các tác giả đã nghiên cứu về thực tiễn tham nhũng
và các quy định pháp luật liên quan đến tham nhũng cũng như các hành vi lạm
quyền của cơ quan công quyền vốn đang ngày càng gia tăng về tính phức tạp của
hành vi lạm dụng quyền lực công trong thi hành công vụ như đưa và nhận hối lộ,
xung đột lợi ích, lạm quyền, lợi dụng chức vụ quyền hạn… Bên cạnh việc phân tích

9


một cách chi tiết và cụ thể khía cạnh pháp lý của tham nhũng, các tác giả của cuốn
sách cũng đi sâu phân tích những bước tiến vượt bậc trong khoa học pháp lý liên
quan đến quy định về hành vi tham nhũng, hình phạt được quy định trong pháp luật
của nhiều nước, chẳng hạn như trong Luật Tham nhũng năm 2010 của Vương quốc
Anh; Luật về hành vi tham nhũng ở nước ngoài của Mỹ; Công ước Liên Hiệp Quốc
về chống tham nhũng.
Tuy nhiên, những đề tài trên là những đề tài mặc dù có chung hướng đi
nhưng lại hoàn toàn khác biệt về đối tượng nghiên cứu, cách thức xử lý trong quá
trình nghiên cứu luận văn thông tin về vấn đề lạm dụng CVQH. Những nghiên cứu
chỉ đề cập đến vai trò, chức năng của báo chí đối với đời sống chính trị - xã hội nói
chung. Hoặc đề cập đến vai trò của báo chí, thực trạng đưa tin của báo chí trong
công tác phòng, chống tham nhũng trên bình diện bao quát rộng. Do đó, tác giả đã
tiến hành đi sâu tìm hiểu, phân tích và làm rõ thực trạng đưa tin về vấn đề lạm dụng
CVQH của báo điện tử tính từ năm 2016 (năm ban hành Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XII hay còn gọi là Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn

chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện
"tự diễn biến" và "tự chuyển hóa" trong nội bộ) đến nay để có góc nhìn toàn diện và
sát thực hơn. Qua đó đánh giá thực trạng hình thức cũng như nội dung truyền tải về
vấn đề lạm dụng CVQH trên báo điện tử đã đạt được những thành công nào và mặt
hạn chế là gì? Trên cơ sở này, tác giả luận văn sẽ chỉ ra những nguyên nhân, bài
học để qua đó đề ra những giải pháp giúp nâng cao chất lượng thông tin về vấn đề
lạm dụng CVQH trên báo điện tử.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của đề tài là khảo sát, phân tích, nghiên cứu, đánh giá thực trạng
thông tin trên báo điện tử Việt Nam về vấn đề lạm dụng CVQH, từ đó đề xuất
những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thông tin báo chí về vấn đề này.
Để đạt được những mục đích trên, luận văn tiến hành thực hiện các nhiệm vụ
chính sau đây:
Thứ nhất, khái quát hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về báo điện tử,
chức năng thông tin trên báo điện tử; làm rõ những khái niệm, quan điểm, lý thuyết

10


về người có CVQH và hành vi lạm dụng CVQH; nêu những thông tin cơ bản về 3
tờ báo mạng được khảo sát:
Thứ hai, đánh giá chất lượng nội dung, hình thức bài viết về vấn đề lạm dụng
CVQH trên báo điện từ năm 2016 đến hết tháng 11 năm 2019 dựa trên 3 tờ báo
điện tử khảo sát. Từ đó tiến hành phân tích những thành công, hạn chế của việc
thông tin về vấn đề lạm dụng CVQH trên báo điện tử ở Việt Nam.
Thứ ba, phân tích nguyên nhân và đưa ra một số giải pháp, kiến nghị để nâng
cao chất lượng, hiệu quả thông tin trên báo điện tử khi thông tin về vấn đề lạm dụng
CVQH nhằm đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu tiếp nhận thông tin cũng như tâm
lý tiếp nhận thông tin của công chúng báo điện tử. Qua đó, góp phần tích cực vào
nhiệm vụ thông tin tuyên truyền về quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước

trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng nói chung và cuộc đấu tranh chống căn
bệnh lạm dụng quyền lực nói riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Thông tin về vấn đề lạm dụng CVQH trên
báo điện tử ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm:
Phạm vi tiếp cận: Nghiên cứu được tiếp cận dưới góc độ báo chí, cụ thể là
báo điện tử với những hiệu quả truyền thông về vấn đề lạm dụng CVQH, những
hạn chế và đề xuất giải pháp.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Từ tháng 1 năm 2016 đến hết tháng 11
năm 2019.
Phạm vi không gian: Vấn đề lạm dụng CVQH rõ ràng là một đề tài rất quan
trọng, nóng hổi được phản ánh rộng khắp trên báo chí hiện nay. Cả báo in, báo phát
thanh, truyền hình và báo điện tử đều đã tích cực phản ánh vấn nạn này đồng thời
phần nào tạo dựng được những chuyển biến trong nhận thức và hành động nhằm
đấu tranh phòng chống lạm dụng chức vụ, quyền hạn của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, Đảng viên. Đối với báo in, dù có lợi thế về độ tin cậy và chiều sâu của
thông tin để giúp công chúng chủ động đọc, nghiền ngẫm, và có thể dùng thông tin
trên báo như một cơ sở để phản biện những vấn đề liên quan đến chính sách đã

11


được công bố nhưng hạn chế của báo in là phát hành thường chậm, phạm vi hẹp
hơn phát thanh, truyền hình... Đồng thời, giới hạn về diện tích, tính định kỳ nên báo
in khó truyền tải nhanh mà đầy đủ, đa dạng nội dung thông tin thời sự và tiếp nhận
công bố phản hồi cũng đa dạng của độc giả. Tính minh hoạ bằng hình ảnh động, âm
thanh không tồn tại trên báo in nên tính khô cứng, sự “nhiều chữ” trong tác phẩm
phản biện trên báo in không dễ kích thích độc giả chú ý. Đối với phát thanh thì
thông tin nhanh, nhiều người dễ dàng nghe thấy. Song, do đặc trưng “thông tin

tuyến tính”, chỉ cần một thời điểm không tập trung chú ý đã không thể hiểu đúng
hoặc hiểu không đầy đủ về nội dung thông điệp nên khả năng kêu gọi sự tham gia
phản hồi, đóng góp ý kiến của độc giả không cao. Còn đối với truyền hình, nhờ
truyền tải thông tin bằng cả hình ảnh và âm thanh nên dễ thuyết phục, tăng khả
năng tiếp cận thông tin, dễ lôi kéo công chúng chú ý theo dõi. Tuy nhiên, truyền
hình cũng bị hạn chế bởi cơ cấu chương trình, thời điểm phát sóng… nên có thể
công chúng vẫn bị rơi rụng cơ hội tiếp cận thông tin. Đặc biệt, việc tham gia vào
quá trình làm báo truyền hình của công chúng bị hạn chế do tính phức tạp của sản
xuất tác phẩm truyền hình.
Báo điện tử với thế mạnh thông tin nhanh, mật độ thông tin dày dặn, tính
liên kết thông tin cao, báo điện tử đã tỏ rõ ưu thế của mình trong cuộc đua thông tin
về vấn đề lạm dụng chức vụ, quyền hạn. Trên thực tế, trong nhiều trường hợp, ngay
sau khi có những phát hiện trên mạng xã hội, báo điện tử đã ngay lập tức vào cuộc,
bám lấy những mảng đề tài quan trọng, nóng hổi, đưa tin rộng khắp tới người đọc.
Trong khi đó, do phải trải qua nhiều công đoạn xuất bản hơn, báo in thường thông
tin tới bạn đoc chậm hơn, và cũng do hạn chế về mặt dung lượng các trang mà các
bài báo về vấn đề lạm dụng chức vụ quyền hạn trên báo in không đa dạng, khối
lượng mỏng hơn so với báo điện tử. Chính vì những lý do trên, tác giả luận văn xin
được chọn phạm vi nghiên cứu của đề tài này là báo điện tử. Cụ thể, tác giả sẽ tiến
hành bao quát qua ba tờ báo điện tử: VnExpress.net, Dantri.com, và Tuoitre.vn.
Đây là ba tờ báo uy tín, đã khẳng định được vị trí của mình trong làng báo điện tử
Việt Nam với thế mạnh cập nhật thông tin nhanh nhạy, phong phú, đa dạng. Hơn
nữa đây cũng là những tờ báo có sức chiến đấu, có đối tượng độc giả trung thành,
đa dạng về lứa tuổi.

12


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình triển khai luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên

cứu sau:
* Phương pháp luận:
Luận văn dựa vào quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước về công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cựu nói chung và lạm dụng
CVQH nói riêng. Đồng thời, dựa trên hệ thống cơ sở lý luận về chức năng, nhiệm
vụ của báo chí nói chung và báo điện tử nói riêng.
* Phương pháp cụ thể:
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn còn sử dụng trong một tổng thể
các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp lịch sử, phương pháp phân
tích, tổng hợp, quy nạp, so sánh, thống kê...., trong đó:
Các phương pháp lịch sử cụ thể: Tác giả sử dụng các thao tác phân tích, quy
nạp, hệ thống hóa, so sánh được là chủ yếu để nghiên cứu các vấn đề tại Chƣơng 1
nhằm hệ thống và làm rõ những vấn đề lý luận như khái niệm và các dấu hiệu pháp
lý của các tội phạm về lạm dụng CVQH, phân biệt các tội phạm về lạm dụng
CVQH với một số tội phạm khác, khái quát hóa quan điểm của Đảng, Nhà nước về
vấn đề lạm dụng CVQH theo tiến trình thời gian.
Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp: Được sử dụng để làm rõ
nội hàm các khái niệm và các vấn đề liên quan về lạm dụng CVQH, làm rõ các nội
dung, phương thức cũng như thực trạng báo chí tham gia thông tin về vấn đề lạm
dụng CVQH.
Phương pháp mô hình hóa: Tác giả tiến hành xây dựng, tái hiện lại hệ thống
thông tin về vấn đề lạm dụng CVQH theo hình thức khái quát hóa nhất tuy nhiên
vẫn thể hiện được đầy đủ bản chất, đặc điểm nổi bật nhất của đối tượng nghiên cứu
là thông tin về vấn đề lạm dụng CVQH.
Phương pháp phân tích, hệ thống: Được sử dụng để nghiên cứu các vấn đề
tại chương 2 nhằm đánh giá thực trạng thông tin vấn đề lạm dụng CVQH trên báo
điện tử, qua đó rút ra những ưu điểm, những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế
để làm tiền đề cho việc đề xuất các giải pháp ở chương 3 của luận văn.
Phương pháp Logic: sử dụng chủ yếu tại chương 3 để làm rõ những quan
điểm, giải pháp nhằm bảo đảm tiêu chí nâng cao chất lượng thông tin báo chí về

vấn đề lạm dụng CVQH.

13


6. Ý nghĩa luận văn
Ý nghĩa lý luận:
Đây là một trong những đề tài nghiên cứu mới ở cấp độ luận văn thạc sỹ
thông tin về vấn đề lạm dụng CVQH trên báo điện tử Việt Nam. Luận văn có những
nghiên cứu tổng thể về hoạt động thông tin của báo điện tử về thực trạng lạm dụng
CVQH, về thông tin tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng trong công tác
đấu tranh ngăn ngừa các biểu hiện lạm dụng CVQH từ năm 2016 đến nay, từ đó rút
ra một số vấn đề lý luận cơ bản trong hoạt động thông tin về vấn đề này. Ví dụ: Lý
luận về kiểm soát, giám sát quyền lực, lý thuyết thông tin, chuẩn hóa các khái
niệm…
Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn là sự tổng kết, nghiên cứu bước đầu về việc truyền tải thông tin của
báo điện tử về vấn đề lạm dụng CVQH ở Việt Nam, mức độ quan tâm của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân về vấn đề này. Qua đó đề ra một số giải pháp cơ bản giúp
tăng cường chất lượng thông tin về vấn đề lạm dụng CVQH cho báo điện tử.
Vấn đề nghiên cứu này nếu được giải quyết cũng sẽ có ý nghĩa quan trọng đối
với các nhà báo cũng như cơ quan quản lý của báo điện tử có cái nhìn đúng đắn và
toàn diện hơn trong việc thông tin về vấn đề lạm dụng CVQH ở Việt Nam.
Luận văn là tài liệu tham khảo tốt cho các cơ sở đào tạo, nghiên cứu và những
ai quan tâm về vấn đề này.
7. Kết cấu của luân văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
chính của luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề lạm dụng CVQH trên báo
điện tử

Chương 2: Thực trạng thông tin về vấn đề lạm dụng CVQH trên ba tờ báo
điện tử được khảo sát
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về vấn đề lạm dụng
CVQH trên báo điện tử ở Việt Nam

14


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ LẠM DỤNG CVQH
TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ
1.1 Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
 Lạm dụng
Lạm dụng là một từ Việt gốc Hán. Trong đó, chữ lạm thuộc bộ thủy (liên
quan tới nước), nghĩa gốc là “nước tràn ngập”, sau phái sinh nghĩa “quá mức” (như
trong lạm thu, lạm quyền, lạm phát); chữ dụng có nghĩa là “dùng”. Do đó lạm
dụng có thể hiểu là “dùng quá mức”.
Từ điển tiếng Việt định nghĩa lạm dụng là “dùng, sử dụng quá mức hoặc quá
giới hạn”. [23, tr.538]. Ví dụ: “Lạm phát ngân sách” tức là sự phát hành hoặc chi
tiêu tiền bạc cho việc đầu tư công vượt quá mức quy định, hay vượt quá mức QH đã
cho phép, gây ra nợ công và làm đồng tiền mất giá, “Lạm thu”: thu thuế quá mức
quy định để lấy làm của riêng…
Tóm lại, lạm dụng có thể được giải thích là dùng, sử dụng vượt quá mức, quá
giới hạn quy định hoặc cho phép.
 Lạm quyền
Theo Từ điển tiếng Việt (do Viện Ngôn ngữ biên soạn, Nxb Đà Nẵng, 2006),
lạm quyền là “làm những việc vượt quá quyền hạn của mình”.
Dưới góc độ quyền lực chính trị, lạm quyền là hành vi của cán bộ công chức
(CBCC) trong thực hiện quyền lực chính trị theo những cách sai trái nhằm phục vụ
lợi ích cho cá nhân họ hoặc nhóm lợi ích không đúng với các quy định trong hệ

thống pháp luật của quốc gia, có thể gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; nếu không gây thiệt hại về mặt vật chất
thì cũng đem lại tác động xấu về mặt đạo đức, tinh thần cho xã hội.
CBCC chỉ có thể lạm quyền khi được giao cho một quyền hạn nhất định tùy
thuộc vào chức vụ và vị trí làm việc. Không chỉ CBCC có chức vụ mới có thể lạm
quyền, bất cứ CBCC nào thực thi công vụ có liên quan đến phục vụ công dân đều
có thể lạm quyền, khi lái nghĩa vụ thực hiện thành quyền ban phát để vụ lợi. Lợi ở

15


đây không chỉ là tiền, mà còn là quyền sai khiến người khác không phù hợp với quy
định của pháp luật cũng như danh tiếng trong xã hội.
 Chức vụ
Thuật ngữ chức vụ được sử dụng phổ biến trong đời sống thường nhật, trong
khoa học pháp lý, khoa học hành chính và cả trong một số văn bản pháp luật, nhưng
tới nay cũng chưa có khái niệm nào rõ ràng mà chỉ được sử dụng một cách ước lệ.
Theo Đại từ điển tiếng Việt (NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1998), chức
vụ nhà nước được hiểu là “đơn vị mang tính tổ chức - cơ cấu của cơ quan Nhà nước
(CQNN) được thiết lập trên cơ sở văn bản pháp luật của CQNN có thẩm quyền, xác
định vị trí phục vụ và vai trò lao động xã hội của người lao động, quyền và nghĩa vụ
cũng như yêu cầu đối với chuyên môn của họ. Các chức vụ gắn với nhau bởi quan
hệ phân công lao động hợp thành các bộ phận cơ cấu còn tổng thể của chúng hợp
thành CQNN”. Có thể thấy, với cách định nghĩa này thì mọi cán bộ, công chức làm
việc trong CQNN đều giữ một chức vụ nhất định. Chức vụ nhà nước là đơn vị nhỏ
nhất cấu thành CQNN, hoặc bộ phận cấu thành cơ quan hành chính nhà nước, tùy
thuộc vào tính chất, địa vị pháp lý của CQNN. Tuy nhiên, trên thực tế, các cơ quan,
tổ chức Nhà nước rất đa dạng về loại hình, chức năng nên chức vụ nhà nước cũng
rất đa dạng: Chức vụ trong cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan hành chính nhà
nước, cơ quan tư pháp và trong các đơn vị sự nghiệp nhà nước.

Cơ quan quyền lực nhà nước là cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra để thay
mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước. Cơ quan quyền lực nhà nước có quyền
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật; quyết định những vấn đề quan trọng để
thi hành án trên cả nước hoặc trong địa phương, giám sát hoạt động các CQNN. Ở
Việt Nam, Quốc hội (QH) và Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp được gọi là cơ
quan quyền lực nhà nước. Điều 69 Hiến pháp năm 2013 quy định: “QH là cơ quan
đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. QH thực hiện quyền lập hiến, quyền lập
pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với
hoạt động của Nhà nước”. Thông qua lá phiếu tín nhiệm, nhân dân ủy thác quyền
lực của mình cho QH. Thay mặt nhân dân QH quy định, thực hiện và bảo đảm thực

16


hiện quyền lực thống nhất trong cả nước. Đây là cơ quan cao nhất của Nhà nước,
thực hiện quyền lực nhân dân. Thông qua hoạt động của mình, QH thực hiện quyền
lực của nhân dân thành ý chí của nhà nước, thể hiện trong Hiến pháp, luật, các nghị
quyết, mang tính chất bắt buộc thực hiện chung đối với mọi thành viên trong xã hội.
Cơ cấu tổ chức của QH gồm: Ủy ban thường vụ QH, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban
QH. Các chức vụ trong cơ quan, tổ chức của QH có thể kể đến: Chủ tịch QH, Phó
Chủ tịch QH và các ủy viên, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Phó Chủ tịch và các Ủy
viên Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của QH, Phó Chủ nhiệm Ủy ban của QH
và các ủy viên... Theo Khoản 1, 2 điều 113 Hiến pháp 2013: “HĐND là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân
dân địa phương và CQNN cấp trên; đồng thời quyết định các vấn đề của địa
phương do luật định”. Về cơ cấu tổ chức HĐND các cấp đều có Thường trực
HĐND và các Ban của HĐND. Thường trực HĐND là cơ quan thường trực của
HĐND, thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật; chịu

trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND. Các ban của HĐND là cơ quan
của HĐND, có nhiệm vụ thẩm tra dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề án trước khi
trình HĐND, giám sát, kiến nghị về những vấn đề thuộc lĩnh vực Ban phụ trách;
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND. Theo đó, các chức vụ trong
HĐND các cấp bao gồm: Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND, Ủy viên
Thường trực HĐND.
Cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan quản lý chung hay từng lĩnh vực
công tác, có nhiệm vụ thực thi pháp luật và chỉ đạo việc thực hiện các chính sách,
kế hoạch của nhà nước. Ở Việt Nam, QH và HĐND các cấp đóng vai trò quyết
định trong việc thành lập các cơ quan hành chính nhà nước. Chính phủ và Ủy ban
nhân dân (UBND) các cấp hợp thành hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. Theo
quy định tại điều 94, Hiến pháp năm 2013: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền
hành pháp, là cơ quan chấp hành của QH. Chính phủ chịu trách nhiệm trước QH
và báo cáo công tác trước QH, Ủy ban thường vụ QH, Chủ tịch nước”. Có thể kể

17


đến các chức vụ chính trong Chính phủ: Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng
Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ... UBND ở cấp chính
quyền địa phương do HĐND cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước HĐND và cơ quan
hành chính nhà nước cấp trên. UBND tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật
ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của UBND và thực hiện các nhiệm vụ
do CQNN cấp trên giao”. Trên thực thế, UBND - Cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương có hai tư cách: Một là, cơ quan chấp hành của HĐND; chịu trách nhiệm
thi hành các nghị quyết của HĐND và báo cáo công việc trước HĐND cùng cấp và
UBND cấp trên. HĐND có quyền bãi miễn các thành viên của UBND, giám sát các
hoạt động và bãi bỏ những quyết định không thích. UBND chịu sự giám sát của

HĐND và đôn đốc của Thường trực HĐND. Hai là, cơ quan hành chính nhà nước
ở địa phương (UBND) chịu trách nhiệm không chỉ chấp hành những nghị quyết
của HĐND cùng cấp mà các quyết định của các cơ quan chính quyền cấp trên, thi
hành luật thống nhất trên cả nước. UBND các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của
Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất. Các chức vụ trong UBND các cấp: Chủ
tịch UBND, Phó chủ tịch UBND, Trưởng phòng Nội vụ, Trưởng phòng Tài chính
– kế hoạch,...
Cơ quan tư pháp là CQNN thực hiện quyền tư pháp, một trong ba quyền của
quyền lực nhà nước thống nhất. Khoản 2, Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp”. Ở nước ta, quyền tư pháp cùng với quyền lập pháp và quyền hành
pháp tạo thành quyền lực thống nhất của Nhà nước, mục đích thực hiện quyền tư
pháp là xử lý mọi hành vi vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp về quyền và
nghĩa vụ phát sinh, bổ sung, thay đổi hoặc chấm dứt từ các quan hệ xã hội được
pháp luật bảo vệ do Tòa án thực hiện bằng thủ tục tố tụng chặt chẽ, dân chủ, công
khai và công bằng, nhằm khôi phục, duy trì trật tự pháp luật, khôi phục quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị xâm phạm, góp phần bảo đảm pháp luật được
tôn trọng và chấp hành nghiêm minh. Một số chức vụ trong cơ quan tư pháp: Chánh
án tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), Phó Chánh TANDTC, Thẩm phán
TANDTC, Trưởng ban thanh tra TANDTC, Phó trưởng ban thanh tra TANDTC,...

18


“Từ góc nhìn hệ thống, bộ máy hành chính nhà nước là hệ thống các cơ quan
hành chính nhà nước (Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, UBND các cấp, cơ quan
chuyên môn thuộc UBND, mỗi cơ quan lại là một hệ thống được tạo bởi các bộ
phận cấu thành, hay bởi các chức vụ nhà nước”. [20, tr67-79]. Trên thực tế, tùy
thuộc vào tính chất, vị trí, tính phức tạp của cơ quan hành chính nhà nước. Có
những cơ quan thì đơn vị tổ chức - cơ cấu của nó đơn giản được bắt đầu từ những

chức vụ. Ví dụ, trong cơ cấu của Chính phủ có các chức vụ Thủ tướng, Phó thủ
tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Nhưng cũng có cơ quan thì chức
vụ lại là bộ phận, đơn vị nhỏ nhất tạo nên các đơn vị cơ cấu của những cơ quan này
(bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan chuyên môn thuộc UBND).
Chức vụ nhà nước là đơn vị nhỏ nhất cấu thành CQNN, hoặc bộ phận cấu
thành cơ quan hành chính nhà nước, tùy thuộc vào tính chất, địa vị pháp lý của
CQNN. Các chức vụ nhà nước, tùy theo tính chất, vị trí pháp lý của cơ quan hành
chính nhà nước có thể được chia thành nhiều loại khác nhau: Chức vụ chính trị,
chức vụ quyền lực hành chính, chức vụ chuyên môn. “Các chức vụ chính trị trong
bộ máy hành chính nhà nước trong điều kiện dân chủ và pháp quyền thường được
thiết lập bằng con đường bầu cử, chẳng hạn như: Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Chủ
tịch, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND các cấp, hoặc đề cử, phê
duyệt (Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ). Hoạt động của những người giữ
những chức vụ chính trị là hoạt động chính trị, họ luôn theo đuổi những mục tiêu
chính trị nhất định. Chính trị ở đây được hiểu theo nghĩa rộng của từ, chính trị là
tất cả những gì mà việc giải quyết nó luôn gắn với quyền, lợi ích của công dân, cơ
quan, tổ chức, cộng đồng lãnh thổ, quốc gia, dân tộc, giai cấp, tầng lớp, thậm chí là
cả những vấn đề liên quan tới lợi ích của cả các dân tộc khác. Hoạt động của các
chức vụ chính trị thể hiện qua những chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật
do họ ban hành và việc điều hành vĩ mô của họ đối với toàn bộ mọi mặt đời sống xã
hội trên phạm vi lãnh thổ nhất định”. [20]
Các chức vụ quyền lực hành chính như: Thứ trưởng, Tổng cục trưởng, Cục
trưởng, Vụ trưởng, Phó vụ trưởng, Giám đốc sở, Phó Giám đốc sở, Trưởng phòng,
Phó trưởng phòng và tương đương... được thiết lập bằng quyết định hành chính theo

19


chế độ bổ nhiệm. Những chức vụ này được thiết lập để thực hiện các hoạt động
công vụ (theo nghĩa hành chính) để phục vụ cho việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền

hạn, thẩm quyền của CQNN mà pháp luật đã quy định, thực chất là thực hiện những
chính sách, pháp luật mà các chức vụ chính trị đã ban hành. Hoạt động của những
chức vụ quyền lực hành chính dựa trên cơ sở pháp luật và để thực hiện pháp luật
bằng các hoạt động tổ chức, điều hành và giải quyết các vấn đề hành chính hoặc các
vấn đề chuyên môn phát sinh hàng ngày trong đời sống nhà nước, xã hội bằng việc
ban hành các quyết định hành chính, thực hiện các hành vi hành chính.
Bên cạnh các chức vụ chính trị, chức vụ quyền lực hành chính, trong bất kỳ
chế độ nhà nước nào đều tồn tại các chức vụ chuyên môn. Các chức vụ chuyên môn
rất đa dạng, mỗi quốc gia, vào mỗi thời kỳ lịch sử của nó đều có các loại chức vụ
chuyên môn khác nhau như: nhân viên, cán sự, chuyên viên, chuyên viên chính,
chuyên viên cao cấp và các chức vụ tương đương khác. Chức vụ chuyên môn tồn tại
ở các CQNN (hay bộ máy giúp việc của CQNN), những người giữ các chức vụ này
trong khoa học hành chính thường được gọi là công chức hành chính. Đây là những
chức vụ được xác lập để thực hiện công vụ, nhiệm vụ thường xuyên trong các
CQNN, họ phục vụ nhà nước bằng những chuyên môn nghiệp vụ nhất định và để
phục vụ cho các chức vụ quyền lực hành chính nhà nước, quyền lực chính trị.
 Quyền hạn
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ thì “quyền hạn có nghĩa là
quyền được xác định về nội dung, phạm vi và mức độ.”
Trong bài viết “Trao quyền: Cái gì, khi nào và như thế nào” đăng trên Tạp
chí Kinh Tế Phát Triển số 86 tháng 8/2004 (Tác giả: Nguyễn Thị Hồng Thủy):
“Quyền hạn là quyền chính thức được trao cho mỗi vị trí trong tổ chức (chứ không
phải trao quyền cho người) để hoàn thành trách nhiệm được giao ở vị trí đó”.
Như vậy có thể hiểu quyền hạn là quyền của một cơ quan, tổ chức hoặc cá
nhân được xác định theo phạm vi nội dung, lĩnh vực hoạt động, cấp và chức vụ, vị
trí công tác và trong phạm vi không gian, thời gian nhất định theo quy định của
pháp luật quyền hạn luôn gắn liền với một vị trí hay chức vụ nhất định trong một cơ
quan, tổ chức, bao gồm quyền tự chủ trong quá trình quyết định và đòi hỏi sự tuân

20



thủ quyết định đó. Ví dụ: Quyền hạn của kiểm sát viên là quyền cho phép kiểm sát
viên được thực hiện công việc trong giới hạn chuyên môn, chức vụ, vị trí công tác
theo quy định của pháp luật. Cụ thể, trong giải quyết vụ án hành chính là quyền giải
quyết những công việc cụ thể của kiểm sát viên trong các giai đoạn khác nhau của
quá trình giải quyết vụ án hành chính (từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết
vụ án) nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành chính kịp thời, đúng pháp luật.
Trên thực tế, pháp luật luôn quy định nhiệm vụ đi đôi với quyền hạn, tạo
thành mối liên kết vững chắc làm căn cứ để tổ chức, cá nhân thực hiện chức năng,
công việc. Nếu quyền hạn nhỏ hơn trách nhiệm thì công việc rất khó hoàn thành,
nhưng nếu quyền hạn lớn hơn trách nhiệm thì rất dễ dẫn đếm lạm quyền, lộng
quyền. Quyền hạn không phải là thứ tự nhiên có mà nó sinh ra từ nhu cầu và sự
phân công của tổ chức, phục vụ tổ chức và tuân thủ pháp luật. Về nguồn gốc của
quyền hạn, có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng quyền hạn xuất phát từ
chức vụ. Ví dụ giám đốc một xí nghiệp có quyền hạn vì người đó giữ chức giám
đốc. Lý thuyết này đúng nhưng chưa đủ, vì không giải thích được hiện tượng có
giám đốc ra lệnh mà nhân viên không thi hành, tức là nhân viên không thừa nhận
quyền hành của giám đốc. Vì vậy, có tác giả cho rằng quyền của giám đốc xuất phát
từ sự chấp nhận của cấp dưới. Chừng nào cấp dưới chấp nhận sự chỉ đạo của giám
đốc và làm theo chỉ đạo đó, thì giám đốc còn có quyền. Trái lại, nếu cấp dưới từ
chối không chấp nhận chỉ đạo của giám đốc, không làm theo chỉ đạo của giám đốc,
thì giám đốc không có quyền. Cách lý giải này thể hiện được tính chất song phương
và quan hệ con người trong việc sử dụng quyền hạn, nhưng không giải thích được
trọn vẹn nguồn gốc của quyền hạn. Trên thực tế, vẫn có những trường hợp, cấp dưới
phủ định quyền hạn của cấp trên, tức là không chấp nhận, nhưng vẫn phải làm theo
chỉ đạo của cấp trên do sự cưỡng bức, ép buộc. Cho đến nay, lý thuyết về nguồn gốc
của quyền hạn do nhà xã hội học người Đức, Max Weber được công bố rộng rãi và
được nhiều học giả chấp nhận. Max Weber cho rằng: “Quyền hạn chỉ đầy đủ nếu có
đủ 3 yếu tố: sự hợp pháp khi đảm nhận chức vụ, cấp dưới thừa nhận quyền hạn đó

là chính đáng và bản thân nhà quản lý có khả năng và các đức tính khiến cấp dưới
tin tưởng. Nếu không có đủ 3 yếu tố trên, quyền hạn vững mạnh, rất khó để thực thi
quyền”. [16, tr217]

21


×