Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

ĐỀ CƯƠNG KHOA HỌC GIỚI VÀ BÌNH ĐẲNG GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.7 KB, 21 trang )

ĐỀ CƯƠNG KHOA HỌC GIỚI VÀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
Câu 1. Lịch sử Khoa học giới, sự hình thành và phát triển khoa học giới?
Câu 2. Những thuận lợi và khó khăn trong thực hiện bình đẳng giới. Liên hệ.
Câu 3: Vấn đề đặt ra và giải pháp nhằm thực hiện tốt bình đẳng giới trên một số lĩnh
vực ở địa phương?
BÀI LÀM
Câu 1. Lịch sử Khoa học giới, sự hình thành và phát triển khoa học giới?
Lịch sử phát triển của xã hội loài người gắn liền với việc giải quyết bất bình đẳng
giữa cá nhân; nhóm xã hội; giữa các dân tộc, chủng tộc; giữa các giai cấp; giữa nam và nữ.
Bất bình đẳng xã hội thể hiện ở điều kiện sống và thu nhập; địa vị, vai trò; sự hưởng thụ
vật chất, tinh thần; giáo dục và tri thức; thái độ và hành vi ứng xử,… Cho đến nay, có thể
nói lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử của các cuộc đấu tranh nhằm xóa bỏ
những sự bất bình đẳng xã hội nêu trên thông qua các cuộc khởi nghĩa vũ trang, đảo chính,
đấu tranh nghị trường, thay đổi thể chế kinh tế, chính trị, xã hội. Riêng bất bình đẳng giới
lại không thể giải quyết chủ yếu bằng các biện pháp nêu trên.
Bất bình đẳng giới, nói rõ hơn là địa vị thấp kém của phụ nữ so với nam giới là một
trong những bất bình đẳng xã hội, đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử loài người. Do đó,
cũng đã từ rất lâu, cuộc đấu tranh của phụ nữ giành quyền bình đẳng đối với nam giới,
phong trào vận động ủng hộ phụ nữ trong cuộc đấu tranh đó đã xuất hiện và phát triển.
Thực tiễn đó làm nảy sinh các lý thuyết nữ quyền và lý thuyết giới. Các lý thuyết đó đã
phát triển qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau.
Theo các nhà nghiên cứu về giới trên thế giới và ở Việt Nam thì các mô hình tiếp cận
giới trong những năm gần đây như: Phụ nữ trong phát triển (Women in development WID), Giới và phát triển (Gender and development - GAD), có nguồn gốc từ các phong
trào và các lý thuyết nữ quyền ở các nước phương Tây phát triển từ cuối thế kỷ XIX đến
những năm 70 thế kỷ XX. Tiêu biểu là phong trào và lý thuyết nữ quyền tự do, nữ quyền
mác xít và nữ quyền xã hội chủ nghĩa (trong đó, cả chủ nghĩa nữ quyền mácxít kiểu mới
và nữ quyền xã hội chủ nghĩa đều ra đời từ chủ nghĩa Mác).
1


Nữ quyền là khái niệm ra đời từ tiếng Pháp (féminisme), đề cập đến phong trào phụ


nữ thế kỷ XIX. Đây là một khái niệm lỏng, bao gồm các lý thuyết xã hội khác nhau giải
thích nguyên nhân của việc phụ nữ bị áp bức trong xã hội và phong trào nữ quyền là một
lực lượng xã hội để thay đổi quan niệm giới nhằm nâng cao địa vị của phụ nữ .
Phong trào nữ quyền tự do, ra đời từ thế kỷ XVIII và có truyền thống đấu tranh đòi
quyền bình đẳng và cơ hội bình đẳng của phụ nữ được tiếp cận với giáo dục, việc làm,
quyền công dân, phúc lợi, sức khoẻ và vị trí chính trị. Do đó, nó ảnh hưởng rất lớn tới
nhiều quốc gia và được xem là sự đe dọa đối với phái bảo thủ.
Phong trào nữ quyền tự do đã thách thức đối với một số quan điểm triết học truyền
thống coi phụ nữ không có trí tuệ như nam giới và về bản chất họ là những người phụ thuộc
vào nam giới (Aristotle, Aquynas). Đại biểu của phong trào này đã nhấn mạnh: xã hội
thường đánh giá năng lực của nam giới với tư cách là cá nhân, còn lợi ích và năng lực của
phụ nữ thì lại thường đánh giá theo giới tính. Nếu trong xã hội còn có sự phân biệt đối xử
chỉ dựa vào giới tính thì quyền bình đẳng của phụ nữ để theo đuổi lợi ích cá nhân của họ sẽ
bị tước đi.
Theo các nhà nữ quyền tự do, sự phân biệt đối xử được luật hóa vô hình chung đã cản
trở sự tham gia của phụ nữ vào công việc xã hội. Họ cũng chỉ ra rằng nghèo đói chính là
nguyên nhân làm cho hầu hết phụ nữ không được bình đẳng với nam giới. Vì thế, theo họ
cuộc đấu tranh chính trị của phụ nữ cần tập trung vào vấn đề độc lập kinh tế.
Biện pháp để thay đổi xã hội hiện tại nhằm thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ,
theo phái nữ quyền tự do, các công việc có liên quan đến sự tồn tại của con người, trong
đó có công việc gia đình phải chuyên môn hóa, phải coi công việc này là dịch vụ phải trả
tiền chứ không phải không công; mặt khác lao động gia đình phải được tính giá trị kinh tế.
Tuy nhiên, các nhà nữ quyền tự do không thách thức quyền lực của nam giới, không
giải thích được nguyên nhân cơ bản của sự áp bức đối với phụ nữ, do đó, tư tưởng của
trường phái này thường được gắn với quan điểm phụ nữ trong phát triển (Women In
Development - WID).
Phong trào nữ quyền xã hội chủ nghĩa ra đời từ phong trào phụ nữ những năm 70 thế
kỷ XX, cố gắng kết hợp những quan điểm tiến bộ của chủ nghĩa nữ quyền cấp tiến và chủ
nghĩa Mác: Trường phái này đã lấy phương pháp duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác để
2



phân tích những vấn đề mà các nhà nữ quyền cấp tiến đặt ra vì họ nhận ra rằng, các lý
thuyết chính trị trước đó đã không đủ khả năng giải thích sự áp bức đối với phụ nữ.
Theo các nhà nữ quyền xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác nhìn thấy vấn đề giải phóng
phụ nữ thông qua giải phóng giai cấp, giải phóng con người, bởi vì, theo Mác, sự áp bức
đối với phụ nữ là do xã hội có giai cấp. Do đó, cuộc đấu tranh của phụ nữ phải phụ thuộc
vào cuộc đấu tranh giai cấp. Nhưng các nhà nữ quyền xã hội chủ nghĩa cho rằng, phụ nữ là
một giai cấp, bởi vì dù họ thuộc giai cấp nào cũng đều có cùng chung một điểm là dưới sự
thống trị của nam giới, vì vậy, giải phóng phụ nữ phải diễn ra trước giải phóng giai cấp. Sự
phân tích của nữ quyền xã hội chủ nghĩa đã chỉ ra các hình thức áp bức đối với phụ nữ là
sự kết hợp chủ nghĩa tư bản chủ nghĩa dân tộc và sự thống trị của nam giới.
Nữ quyền xã hội chủ nghĩa đã sử dụng phương pháp duy vật lịch sử để xem xét sự
phân công lao động theo giới tính nhằm hiểu rõ hơn cấu trúc của mối quan hệ giới và giới
tính cũng như để giải thích sự áp bức đối với phụ nữ. Theo họ, sự áp bức đối với phụ nữ là
do sự phân công lao động theo giới tính dưới chủ nghĩa tư bản và sự phân chia giữa thị
trường và gia đình. Sự tách biệt phạm vi hoạt động của nam giới, và phụ nữ đã loại trừ phụ
nữ ra khỏi sản xuất hàng hóa hay phương thức sản xuất,và đây là nguyên nhân của sự phụ
thuộc. Sự thống trị của nam giới đối với phụ nữ là do có sự kiểm soát của nam giới đối với
việc tái sản xuất sức lao động của phụ nữ (quan hệ tình dục, sinh sản, công việc gia đình...).
Khác với quan điểm của các nhà nữ quyền cấp tiến, nữ quyền xã hội chủ nghĩa và nữ
quyền mácxít quan niệm rằng, sự áp bức đối với phụ nữ phải được xem xét cả bên trong sự
phân công lao động theo giới tính và bên ngoài gia đình, trong vấn đề sinh sản và sản xuất.
Nữ quyền xã hội chủ nghĩa cũng đã khẳng định phải xem xét quá trình sinh sản của
con người là một quá trình sản xuất hàng hóa, một quá trình thu hút cả nam giới và phụ nữ
tham gia. Muốn xóa bỏ sự thống trị của nam giới đối với phụnữ cần có sự thay đổi nền
tảng kinh tế của xã hội; đồng thời cần phải thay đổi các thể chế khác như mối quan hệ xã
hội (quan niệm truyền thống, chuẩn mực truyền thống, thiên kiến...).
Những quan niệm của nữ quyền xã hội chủ nghĩa nêu trên cho thấy, quan điểm của
trường phái này gắn liền với tư tưởng của lý thuyết giới và phát triển (Gender And

Development - GAD).
3


Như vậy, lý thuyết về Phụ nữ trong phát triển hay Giới và phát triển có nguồn gốc từ
các trường phái nữ quyền mà nội dung cốt lõi của các quan điểm này là tìm ra nguyên
nhân dẫn tới sự phụ thuộc, thấp kém của phụ nữ đối với nam giới cũng như biện pháp để
khắc phục tình trạng này nhằm tạo ra sự bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ.
Chủ nghĩa Mác-Lênin với sự phát triển khoa học giới
Từ giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa Mác ra đời đã góp phần rất quan trọng đưa sự phát
triển lý thuyết nữ quyền, lý thuyết giới sang một giai đoạn phát triển mới.
Trên cơ sở kế thừa có phê phán những thành tựu nghiên cứu trước đó, chủ nghĩa Mác
đã đem lại một phương pháp luận mới nghiên cứu sự bất bình đẳng giới và phong trào nữ
quyền. Đó là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử - quy sự phát triển của
lịch sử, của xã hội về nguyên nhân gốc rễ, cơ bản của nó là nguyên nhân kinh tế, tức là sự
phát triển của lực lượng sản xuất, sự tiến bộ của phương thức sản xuất của cải vật chất,
phân công lao động trong nền sản xuất xã hội. Theo đó, hôn nhân, gia đình, tương quan về
mặt địa vị xã hội giữa nam và nữ (quan hệ giới), xét đến cùng đều chịu sự quy định (chi
phối) của các nhân tố kinh tế, trước khi chịu sự chi phối của các nhân tố thuộc thượng tầng
kiến trúc như chính trị, văn hóa tinh thần, tôn giáo...
Khác hẳn những quan điểm cho rằng sự tồn tại và phát triển của các hình thức gia
đình, sự bất bình đẳng về mặt xã hội giữa nam và nữ hoặc hoàn toàn là do những yếu tố tự
nhiên, sinh vật (chủ nghĩa duy vật tầm thường) hoặc hoàn toàn do yếu tố tôn giáo chi phối
(chủ nghĩa duy tâm)... chủ nghĩa Mác đã đưa ra sự lý giải có đầy đủ căn cứ khoa học và
phù hợp với thực tiễn lịch sử về nguồn gốc của sự bất bình đẳng nam nữ.
Ở giai đoạn đầu của lịch sử, loài người sống trong chế độ thị tộc mẫu quyền, phụ nữ
có vai trò quyết định trong gia đình, thị tộc. Sự xuất hiện và tồn tại của chế độ thị tộc mẫu
quyền là tất yếu trong một giai đoạn lịch sử nhất định, bởi lúc đó lực lượng sản xuất còn
rất thấp kém, con người sống chủ yếu dựa vào của cải hái lượm (chiếm đoạt) của tự nhiên.
Trong các công việc đó phụ nữ có vai trò nổi bật hơn nam giới. Ph.Ăngghen viết: “Kinh tế

gia đình cộng sản... là cơ sở hiện thực của quyền thống trị của người đàn bà, cái quyền
thống trị phổ biến khắp mọi nơi trong thời nguyên thủy”.

4


Tương ứng với trình độ sản xuất thời kỳ này là hình thức gia đình quần hôn, con cái
chỉ có thể nhận biết mẹ, không thể biết ai là cha. Cả hai phương diện đó - tái sản xuất ra
của cải vật chất và tái sản xuất ra con người - đều khẳng định uy quyền của người phụ nữ.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho xã hội chuyển từ nền kinh tế hái lượm
và trồng trọt sang nền kinh tế sản xuất với nghề chăn nuôi săn bắn và năng suất lao động
cao hơn trước. Trong nền sản xuất mới, đàn ông có vai trò nổi trội hơn. Cũng lúc đó sản
phẩm “dư thừa” và sự chênh lệch về của cải trong xã hội đã làm xuất hiện chế độ tư hữu
và sự phân chia giai cấp. Tất cả đưa đến kết quả là “xã hội cũ dựa trên những liên minh thị
tộc bị nổ tung do kết quả của sự xung đột giữa các giai cấp xã hội mới hình thành”. Lúc
này, xã hội chuyển từ chế độ mẫu quyền sang chế độ phụ quyền. Đó là “sự thất bại lịch sử
có tính chất toàn thế giới của giới nữ”.
Sự tan rã của chế độ công hữu (cộng sản nguyên thủy) và sự thay thế nó bởi chế độ tư
hữu cũng kéo theo nó sự thay đổi hình thức gia đình, bởi vì “chế độ gia đình hoàn toàn bị
quan hệ sở hữu chi phối. Quyền chuyên chế của đàn ông một khi được xác lập thì kết quả
đầu tiên của nó thể hiện ra trong hình thức gia đình gia trưởng, trong đó quyền lực hầu như
tập trung tuyệt đối vào người đàn ông - chủ gia đình. Theo Ph.Ăngghen, gia đình gia
trưởng là hình thức trung gian của bước chuyển từ chế độ hôn nhân cặp đôi sang chế độ
một vợ một chồng.
Trong gia đình gia trưởng việc thực hiện nguyện vọng chuyển giao của cải của người
cha cho con trai mà người con này phải đích thực là của mình là một nguyên nhân chính dẫn
đến chế độ một vợ một chồng. Ăngghen viết: “chế độ một vợ một chồng sinh ra từ sự tập
trung nhiều của cải vào tay một người, vào tay người đàn Ông, - và từ nguyện vọng chuyển
của cải ấy lại cho con cái của người đàn ông ấy, chứ không phải của người nào khác”.
Gia đình gia trưởng không chỉ xuất hiện và tồn tại trong giai đoạn lịch sử đã qua mà còn

xuất hiện và tồn tại cả trong giai đoạn lịch sử hiện nay ở một số nước. Chừng nào nền sản
xuất xã hội vẫn hoàn toàn hoặc vẫn chủ yếu do đàn ông nắm giữ, chỉ huy và điều hành thì
chừng đó vẫn còn gia đình gia trưởng - hoặc dấu vết rõ rệt của gia đình gia trưởng không chỉ
ở trong gia đình mà còn ở trong toàn xã hội. Trong thực tế gia đình gia trưởng, chế độ nam trị
- hoặc ảnh hưởng rõ rệt của nó vẫn tồn tại ngay cả trong xã hội công nghiệp hiện đại, có quy
mô lớn và tốc độ tăng trưởng nhanh. Bởi vì xã hội đó chỉ dựa hoặc chủ yếu dựa trên sức lao
5


động của nam giới, còn phụ nữ thì bị đẩy ra khỏi nền sản xuất xã hội và bị gắn chặt vào các
công việc gia đình.
Từ việc xác định đúng nguồn gốc nảy sinh và phát triển của sự bất bình đẳng trong
quan hệ nam và nữ, chủ nghĩa Mác đã chỉ ra chính xác nguyên nhân của sự bất bình đẳng
ấy. Nguyên nhân sâu xa của sự bất bình đẳng đó là sự áp bức của đàn ông đối với đàn bà
về mặt kinh tế. Như vậy, kết luận của chủ nghĩa Mác trong vấn đề này là khi cơ sở kinh tế
của xã hội biến đổi thì tính chất của mối quan hệ nam - nữ về mặt xã hội cũng sẽ biến đổi.
Không dừng lại ở nguyên nhân kinh tế - chủ nghĩa Mác còn chỉ ra nguyên nhân thuộc
về nhận thức, thể chế chính trị, văn hóa (đặc biệt là phong tục tập quán), tôn giáo đối với
gia đình và sự bất bình đẳng giữa nam và nữ. Ăngghen viết: “Tính ràng buộc vĩnh viễn của
hôn nhân, thì một phần là kết quả của các điều kiện kinh tế, trong đó chế độ một vợ một
chồng phát sinh, và phần nữa là một truyền thống của thời kỳ trong đó mối liên hệ giữa
những điều kiện kinh tế ấy với chế độ một vợ một chồng còn chưa được người ta hiểu một
cách đúng đắn, và đã bị tôn giáo thổi phồng lên”.
Chủ nghĩa Mác đã đặt vấn để giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam - nữ như
một trong những nội dung của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng xã hội,
giải phóng con người. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã phát hiện ra rằng chính sự phát
triển của lực lượng sản xuất ở thời kỳ đại công nghiệp sẽ mở ra con đường giải phóng phụ
nữ, xác lập sự bình đẳng lâu dài, vững chắc giữa nam và nữ.
Không chỉ thay đổi căn bản sự phân công lao động trong nền sản xuất, xã hội, trong
phạm vi gia đình sự phân công lao động cũng phải thay đổi căn bản theo hướng giảm bớt

gánh nặng cho phụ nữ trong công việc gia đình, giải phóng họ ra khỏi công việc bếp núc,
nội trợ. Để làm việc đó, một mặt phải “xã hội hóa” một số chức năng của gia đình; mặt khác
phải thực hiện sự phân công hợp lý giữa nam và nữ trong gia đình để cùng nhau chia sẻ.
Các điều kiện quan trọng khác cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ thực hiện bình đẳng
nam nữ đó là xóa bỏ những phong tục, tập quán cũ đối xử bất công, thậm chí, tàn bạo đối
với phụ nữ, đặc biệt là xóa bỏ tâm lý coi thường phụ nữ, “trọng nam khinh nữ” còn khá
phổ biến trong xã hội…
Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nghiên cứu khoa học giới ở Việt Nam
6


Lý thuyết nữ quyền, lý thuyết giới ra đời từ các nước phương Tây, được nghiên cứu
như một khoa học ở nước ta, mới được bắt đầu từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX. Đến
nay vấn đề giới đã được quan tâm nghiên cứu, phát triển cả về chiều sâu và chiều rộng. Sự
phát triển nhanh chóng trong lĩnh vực này một phần rất lớn là do những nét đặc thù của
hoàn cảnh Việt Nam tạo những thuận lợi cho sự phát triển của khoa học này. Đó là:
Một là, tôn trọng phụ nữ là một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
Truyền thống tôn trọng phụ nữ được nhắc đến trong truyền thuyết về sự ra đời của dân
tộc ta (Âu Cơ và Lạc Long Quân với 50 người con lên rừng, 50 người con xuống biển); được
thể hiện ở phong tục thờ Mẫu, thờ các vị nữ anh hùng , các nữ tướng (thờ chúa Liễu Hạnh,
thờ bà chúa Sứ, bà chúa Kho…); ở phong tục thờ những người có công với làng, nước được
tôn vinh là Thành hoàng mà không phân biệt nam hay nữ. Nhiều câu ca dao, ngạn ngữ… của
nền văn học dân gian Việt Nam đã ghi lại những hình ảnh và quan niệm tôn trọng phụ nữ,
bình đẳng giữa vợ và chồng: “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu. Chồng cày, vợ cây, con trâu đi
bừa”; “Thuận vợ, thuận chồng tát bể đông cũng cạn”; Lệnh ông không bằng cồng bà”…
Hai là, học thuyết Mác-Lênin, hệ tư tưởng, kim chỉ nam của giai cấp công nhân và
Đảng Cộng sản là cơ sở lý luận nền tảng để nghiên cứu lý thuyết giới ở nước ta.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giải phóng phụ nữ, về bình đẳng nam – nữ
đã thâm nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỷ XX, nghĩa là cùng lúc với việc nhà yêu nước
Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Lớp chiến sĩ cách mạng

tiền bối của Việt Nam tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, đồng thời cũng tiếp thu
quan điểm giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ củachủ nghĩa Mác-Lênin nói
riêng. Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930 là văn bản chính
trị đầu tiên ở nước ta nêu rõ mục tiêu đấu tranh cho sự bình đẳng nam – nữ và nâng cao vị
thế của phụ nữ. Hiến pháp đầu tiên (năm 1946) và những Hiến pháp sửa đổi sau này
(1959, 1980, 1992) đều khẳng định phụ nữ có quyền bình đẳng với nam giới về mọi mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo và văn bản pháp lý tối
cao đó nhiều văn bản pháp luật như Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Hình sự, Luật Bảo vệ
chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, Luật Lao động, Luật Bình đẳng Giới, Luật Phòng chống
bạo lực gia đình, đã được ban hành để bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ đối với nam
giới. Ngoài ra còn nhiều văn bản khác như các Chỉ thị, Nghị quyết, Chiến lược, Kế hoạch
7


hành động… của Đảng, Chính phủ, các tổ chức đoàn thể nhằm góp phần vào sự nghiệp
giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi phương diện cũng như tăng quyền
hạn cho Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam…
Ba là, cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đóng vai trò chủ đạo
trong đời sống tinh thần ở nước ta.
Đường lối cách mạng cơ bản của Đảng ta – độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người bao quát trong nó
nội dung giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam – nữ. Tiến trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội nhằm mang lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân sẽ không đi tới mục tiêu triệt
để nếu không hoàn thành sự nghiệp giải phóng phụ nữ, và như thế là mới xây dựng chủ
nghĩa xã hội “chỉ một nửa” như Bác Hồ nói. Hơn nữa, nếu không có sự tham gia của hơn
nửa dân số là phụ nữ với tư cách là những chủ thể tự giác thì không có đầy đủ động lực
đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đến thắng lợi.
Bốn là, hiện nay thực hiện bình đẳng giới ở nước ta đã trở thành cam kết của Chính
phủ Việt Nam với cộng đồng thế giới. Sự hội nhập vào trào lưu chung của thế giới trong sự
nghiệp giải phóng phụ nữ, đem lại cho nước ta những thuận lợi: những kinh nghiệm quí

báu, những tri thức và phương tiện hiện đại cùng sự tài trợ về tài chính thông qua các dự
án. Chính phủ cam kết với cộng đồng quốc tế thực hiện những công – ước về bình đẳng
giới như: Công ước chống mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ CEDAW; Cương lĩnh
hành động Bắc Kinh; Mục tiêu thiên niên kỷ…
Mặc dù lý thuyết nữ quyền, lý thuyết giới được nghiên cứu như một khoa học ở nước
ta muộn hơn so với nhiều nước khác (châu Âu), nhưng giai đoạn hiện nay – kể từ khi đất
nước đổi mới – có những bước đi tương đối mạnh mẽ, chắc chắn và đạt được những thành
tựu bước đầu đáng ghi nhận. Nó được hỗ trợ từ phía Nhà nước và dần dần trở thành một
phong trào quần chúng của phụ nữ, dưới sự chỉ đạo và động viên của Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam, của ủy ban quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Hiện nay ở nước ta đã hình thành khoảng 10 cơ sở nghiên cứu và giảng dạy về giới. Đó
là các trung tâm nghiên cứu, khoa, bộ môn thuộc Chính phủ và phi chính phủ như: Viện Gia
đình và giới thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam; Trung tâm Nghiên cứu phụ nữ, Viện
Khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh; Khoa Phụ nữ học – Đại học Mở bán công
8


Thành phố Hồ Chí Minh; Bộ môn nghiên cứu giới thuộc Khoa Xã hội học Học viện Báo chí
và Tuyên truyền, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; Ban Lý luận dân
tộc và Giới thuộc Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh… Ngoài ra một số viện nghiên cứu, trường đại học, một số bộ cũng có các
chương trình nghiên cứu có liên quan đến giới.Các cơ quan, chương trình nghiên cứu này đã
không chỉ cuốn hút phụ nữ mà còn cả nam giới, không chỉ các nhà khoa học trong nước mà
còn cả cácnhà khoa học nước ngoài tham gia.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản nêu trên, Việt Nam cũng đầy khó khăn liên quan
đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới, đó là:
Một là, nền kinh tế nước ta chưa thoát khỏi tình trạng lạc hậu, sản xuất nhỏ hiện vẫn
chiếm ưu thế, năng suất tuy có nhích lên nhưng nhìn chung còn thấp (thậm chí rất thấp).
Điều đó có nghĩa lả việc thực hiện sự phân công lao động mới nhằm đưa phụ nữ tham gia
vào nền sản xuất xã hội, giải phóng họ ra khỏi bếp núc và công việc nội trợ gia đình còn

thiếu điều kiện cơ bản là nền sản xuất đại công nghiệp. Ở nhiều gia đình nông dân, sau vụ
cày, cấy và gặt hái, người chồng phải đi kiếm công việc làm thuê ở xa trong thời gian dài,
người vợ ở nhà phải gánh vác toàn bộ công việc gia đình...
Hai là, nước ta đang thực hiện sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự bao cấp của Nhà nước được dỡ
bỏ trong nhiều lĩnh vực liên quan đến cuộc sống con người như y tế, chăm lo sức khoẻ, giáo
dục làm cho chức năng chăm lo cuộc sống của từng gia đình trở nên nặng nề hơn. Điều đó
có nghĩa là việc xã hội hóa một số chức năng của gia đình trong đó có nhiều chức năng mà
phụ nữ thường phải đảm nhiệm dường như thực hiện khó hơn. Trong thực tế, gánh nặng
công việc gia đình của phần đông phụ nữ chưa giảm đi, thậm chí, còn tăng lên.
Ba là, trình độ dân trí ở nước ta còn hạn chế, nhất là ở nông thôn, miền núi, vùng sâu,
vùng xa..., các phong tục tập quán lạc hậu chưa được khắc phục trong đó có thái độ, hành
vi coi thường, ngược đãi đối với phụ nữ, tư tưởng trọng nam, khinh nữ còn nặng ở một số
lớp người... Đó thật sự là những trở ngại lớn.
Tóm lại, trên đây là những vấn đề mang tính thực tiễn của Việt Nam, vừa có yếu tố thuận
lợi vừa mang những khó khăn, hạn chế đối với việc thực hiện bình đẳng giới. Bằng sự nổ lực
của của phụ nữ nói riêng cũng như sự chung tay của cả cộng đồng thì vấn đề giới và bình
9


đẳng giới mới trở thành hiện thực ở Việt Nam, đóng góp chung vào sự phát triển bền vững
của đất nước.
Câu 2. Những thuận lợi và khó khăn trong thực hiện bình đẳng giới. Liên hệ.
Thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam
và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa
nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
và gia đình đang đặt ra những thực trạng cần giải quyết.
Điều 5, Luật bình đẳng giới năm 2006 nêu rõ:
- Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã
hội.Giới tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ.

- Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và
cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ
hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.
- Hoạt động, biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới là hoạt động do cơ quan, tổ chức, gia
đình, cá nhân thực hiện nhằm đạt mục tiêu bình đẳng giới; biện pháp nhằm bảo đảm bình
đẳng giới thực chất, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong trường hợp có sự
chênh lệch lớn giữa nam và nữ về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ
hưởng thành quả của sự phát triển mà việc áp dụng các quy định như nhau giữa nam và nữ
không làm giảm được sự chênh lệch này. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được thực
hiện trong một thời gian nhất định và chấm dứt khi mục đích bình đẳng giới đã đạt được.
Thời gian qua, việc thực hiện luật pháp, chính sách bình đẳng giới ở nước ta đã đạt
được những kết quả thuận lợi, đó là:
1. Nhận thức về bình đẳng giới và trách nhiệm của cả hệ thống chính trị từ lãnh đạo
các cơ quan đảng, cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ công chức và
người dân được nâng lên rõ rệt.
2. Sự cam kết trách nhiệm được thể hiện: Nhiều bộ, ngành và địa phương đã có nghị
quyết và chương trình hành động về thực hiện bình đẳng giới, chương trình hành động vì
sự tiến bộ phụ nữ.
3. Hầu hết các bộ, ngành và tỉnh thành đều xây dựng, quy hoạch cán bộ bao gồm tạo
nguồn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ nhằm tăng tỷ lệ phụ nữ tham chính.
10


4. Công tác tuyên truyền, phổ biến luật pháp chính sách về bình đẳng giới được tăng
cường, góp phần nâng cao nhận thức của người dân về bình đẳng giới và phụ nữ tham gia
chính trị.
5. Công tác giám sát, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch hành động và chiến lược quốc
gia vì sự tiến bộ phụ nữ được thực hiện theo định kỳ có tác động nâng cao tính trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong thực hiện bình đẳng giới.
6. Nhiều văn bản như chỉ thị, hướng dẫn của tổ chức đảng, nghị định, thông tư, hướng

dẫn của cơ quan nhà nước có liên quan về nhân sự, trong đó có cán bộ nữ được ban hành
trong các kỳ đại hội Đảng các cấp, bầu cử Quốc hội, bầu cử Hội đồng nhân dân, nhân sự
chủ chốt ủy ban nhân dân các cấp và nhân sự các bộ ngành liên quan đến phụ nữ.
7. Nhận thức về vai trò và trách nhiệm của phụ nữ trong tham gia chính trị cũng được
nâng cao, bản thân cán bộ nữ đã chủ động, tự tin, nỗ lực phấn đấu vươn lên; đội ngũ cán
bộ nữ nhìn chung đã phát triển cả về số lượng và chất lượng so với trước đây.
Tuy nhiên, việc thực hiện các chính sách liên quan đến bình đẳng giới vẫn còn nhiều
điều bất cập, khó khăn đó là:
Một là, từ quyết tâm chính trị và chủ trương, đường lối đến việc triển khai thực hiện
còn có khoảng cách khá rõ, nhất là trong bối cảnh đất nước bị ảnh hưởng nặng nề của tư
tưởng Nho giáo và các quan niệm truyền thống về phụ nữ như ở Việt Nam; sự khác biệt về
việc làm, mức sống và cơ hội đào tạo.
Sự khác biệt giữa phụ nữ và nam giới hiện nay biểu hiện ở chỗ nam giới thường
chiếm tỷ lệ cao hơn ở những nhóm việc như công nhân có trình độ kỹ thuật, lãnh đạo, dịch
vụ cá nhân, nghiên cứu khoa học, lực lượng vũ trang; phụ nữ thường chiếm tỷ lệ cao ở một
số nhóm nghề như nông nghiệp, buôn bán nhỏ, giáo viên, nhân viên văn phòng. Điều đó
chỉ ra tính chất việc làm có thu nhập ổn định của nam giới cao hơn nữ giới. Xét trên bình
diện giới thì điều đó chứng minh rằng nam giới có lợi thế hơn so với phụ nữ trong việc tìm
kiếm và lựa chọn những ngành nghề, những công việc có vị thế xã hội cao hơn, mang lại
thu nhập thường xuyên hơn. Theo nghiên cứu của nhóm chuyên gia, “tỷ lệ nam giới tham gia
lãnh đạo, quản lý cao gấp 1,5 đến 3 lần so với nữ giới”.
Cường độ lao động, thời gian, hình thức lao động, mức lương và thu nhập của phụ nữ
còn có chênh lệch với nam giới. Không như nam giới, phụ nữ luôn bị chi phối khá nhiều
11


thời gian và sức lực cho công việc nội trợ; lo các công việc đối nội, đối ngoại; thực hiện
vai trò chăm sóc gia đình mà xã hội đã mặc định trông đợi ở họ. Điều này làm sự cách biệt
giữa nam và nữ trong việc tham gia vào thị trường lao động; trong việc tiếp cận các cơ hội
đào tạo, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng. Tình trạng đó không chỉ cản

trở phụ nữ trong việc tìm kiếm hay lựa chọn những công việc phù hợp mà còn hạn chế sự
cạnh tranh của họ trên thị trường lao động nói chung và cạnh tranh với đồng nghiệp nam
tại chính nơi làm việc nói riêng, nhất là về cơ hội đề bạt, thăng tiến nghề nghiệp.
Hai là, bất cập về phân công lao động.
Hiện nay, sự tham gia của phụ nữ vào công việc sản xuất ngày càng tăng lên nhưng
sự tham gia của nam giới vào công việc nội trợ lại không tăng đáng kể, tương xứng. Có
nghĩa là, sự chia sẻ từ phía phụ nữ trong công việc sản xuất không đi liền với sự chia sẻ từ
phía nam giới trong việc nội trợ gia đình. Điều này vô hình chung dẫn đến việc sử dụng và
phân bổ không hợp lý nguồn nhân lực, quỹ thời gian và tiềm năng của phụ nữ và nam giới
trong gia đình. So với nam giới, phụ nữ có quá ít thời gian dành cho các nhu cầu phát triển
năng lực, tiếp cận thông tin, học hỏi, giao tiếp và tích lũy kinh nghiệm.
Ba là, hiện nay, nhiều điều luật gần như không được áp dụng mạnh mẽ trên thực tế
như: Quyền sở hữu và sử dụng về đất đai của phụ nữ và trẻ em sau ly hôn ở nhiều nơi
chưa được bảo vệ; tình trạng bạo lực gia đình, buôn bán phụ nữ và trẻ em... chưa được
ngăn chặn và xử lý kịp thời. Tư tưởng “trọng nam khinh nữ” khiến cho tình trạng mất cân
bằng giới tính sau khi sinh đang có xu hướng tăng mạnh ở nước ta (số liệu thống kê mới
nhất của Tổng cục Thống kê cho thấy, tỷ số giới tính của trẻ em mới sinh năm 2013 là
113,8 bé trai/100 bé gái, tăng so với mức 112,3 bé trai/100 bé gái của năm 2012); vấn đề
dạy con và chăm sóc sức khỏe cho các thành viên trong gia đình; đời sống tinh thần và
khuôn mẫu giới (vai trò trụ cột trong gia đình, các phẩm chất mong muốn ở con trai và con
gái, quan niệm về tên vợ, chồng trên giấy chứng nhận tài sản); việc sử dụng thời gian rảnh
rỗi, tiếp cận các hoạt động giải trí, giao lưu bạn bè, mở rộng mối quan hệ xã hội.
Liên hệ:
Những nỗ lực của Đảng, Nhà nước góp phần thực hiện tốt chương trình bình đẳng
giới trên các lĩnh vực. Trong đó, bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị là một trong những
lĩnh vực nỗi bật và được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Chiến lược quốc gia về bình đẳng
12


giới đến năm 2020; Luật Bình đẳng giới (năm 2006) và nhiều nghị quyết quan trọng của

Đảng như: Nghị quyết 04/NQ-TƯ ngày 12-7-1993 về đổi mới và tăng cường công tác vận
động phụ nữ trong tình hình mới; Chỉ thị 37-CT/TƯ ngày 16-5-1994 của BBT về một số
vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới; Nghị quyết 11-NQ/TƯ ngày 27-4-2007 về
công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước… đã được ban
hành là những bằng chứng về cam kết chính trị trong việc trao quyền cho phụ nữ. Đây là
cơ sở quan trọng để toàn Đảng và toàn xã hội tạo điều kiện thúc đẩy việc tăng cường sự
tham gia của phụ nữ với vai trò lãnh đạo, quản lý trong tương lai; xóa bỏ các hình thức
phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, lồng ghép bình đẳng giới trong việc xây dựng và thực
thi pháp luật; đồng thời nâng cao nhận thức, thu hẹp khoảng cách về giới và nâng cao vị
thế của phụ nữ trong quá trình hội nhập quốc tế; tích cực thực hiện các sáng kiến quốc tế
và khu vực nhằm thúc đẩy việc bảo vệ quyền của phụ nữ và chống phân biệt đối xử đối
với phụ nữ.
ĐHĐB lần thứ XII của Đảng có 10% nữ ủy viên, Bộ Chính trị có 15,78%nữ. Tỷ lệ nữ
ĐB QH: 26,6%; Tỷ lệ nữ HĐND các cấp 2016-2021 trên 26,50%. Tỷ lệ nữ tham gia Quốc
hội khóa XIV(2011-2016) đạt 26,6%, Tỷ lệ nữ nhiệm kỳ 2015-2020: cấp cơ sở 19,69%
(↑1,59%); cấp huyện 14,3% (↑ 0,3%); cấp TW 13,3% (↑ 1,9%); đưa Việt Nam nằm trong
nhóm nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao ở khu vực và thế giới (đứng thứ 43/143 nước
trên thế giới và thứ 2 trong ASEAN). Phụ nữ đảm nhiệm nhiều vị trí lãnh đạo chủ chốt
của đất nước như Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Bộ trưởng; 14/30 Bộ hoặc cơ
quan trực thuộc Chính phủ có Thứ trưởng là nữ. Ở các địa phương, nhiều phụ nữ giữ vai
trò chủ chốt ở các cấp, các ngành, góp phần giải quyết các vấn đề quan trọng. Nữ doanh
nhân là người dân tộc thiểu số tăng, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, y tế, chăm sóc sức
khỏe nhân dân vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số được phát huy.
Tại Việt Nam, sự tăng trưởng kinh tế trong những thập niên gần đây, đặc biệt kể từ
khi đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới, đã tạo điều kiện cho phụ nữ tiếp cận các cơ
hội giáo dục và đào tạo. Theo số liệu thống kê, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ lớn về
các mục tiêu bình đẳng giới. Việt Nam đã rất thành công trong việc nâng cao tỷ lệ học sinh
nữ cấp tiểu học và trung học cơ sở. Hiện tại, tỷ lệ nhập học tiểu học đối với trẻ em gái là
91,5% và trẻ em trai là 92,3%. Tỷ lệ nhập học trung học cơ sở đối với trẻ em gái là 82,6%
13



và trẻ em trai là 80,1% . Tỷ lệ nhập học trung học phổ thông đối với trẻ em gái là 63,1%
và trẻ em trai là 53,7%. Tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động là 73% và nam giới là
82%. Tỷ lệ nữ tốt nghiệp đại học là 36,24%; thạc sĩ: 33,95%; tiến sĩ: 25,69%. Trong giới
báo chí, tỷ lệ các nhà báo nữ cũng ước tính tới gần 30% tổng số nhà báo. Phụ nữ chiếm ưu
thế trong một số ngành, như giáo dục, y tế, và dịch vụ. Trong công tác chuyên môn, phụ
nữ chiếm số đông trong các bộ môn văn học, ngôn ngữ, y dược, khoa học xã hội, khoa học
tự nhiên và kinh tế. Tổng số giờ làm việc của nữ giới (kể cả ở nhà và bên ngoài) cao hơn
rất nhiều so với tổng số giờ làm việc của nam giới.
Nỗ lực bảo đảm bình đẳng giới của Việt Nam đã được quốc tế ghi nhận, theo xếp
hạng năm 2012 của Liên hợp quốc về chỉ số bất bình đẳng giới, Việt Nam xếp thứ 47/187
quốc gia, so với vị trí 58/136 quốc gia năm 2010 (thứ hạng càng gần 0 càng thể hiện sự
bình đẳng cao)..
Tuy nhiên,những thành tựu trên không thể khỏa lấp một thực tiễn còn gặp nhiều thách
thức nhưtỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia các vị trí lãnh đạo các cấp còn ít, tỷ lệ
nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số còn cao. Do đó vẫn còn phụ nữ dân tộc thiểu số chưa
biết chữ, vấn đề việc làm, dạy nghề cho phụ nữ dân tộc thiểu số để tiếp cận với lao động
chất lượng cao cần có sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát hơn của các cấp chính quyền, sự ủng hộ
và hợp tác của cộng đồng quốc tế và bản thân chị em phụ nữ cũng cần tự mình vươn lên,
học hỏi, nâng cao trình độ, kiến thức, kỹ năng để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Khoảng cách giới còn tồn tại khá lớn trong một số lĩnh vực của cuộc sống. Trước hết
là sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị còn hạn chế, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Tỷ
lệ cán bộ nữ làm công tác quản lý, lãnh đạo còn thấp so với các vị trí quản lý, lãnh đạo nói
chung và so với sự gia tăng của lực lượng lao động nữ. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội chưa
đạt chỉ tiêu của Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2010 (phấn đấu đạt
từ 33% trở lên) và chỉ tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 2020.
Trong lĩnh vực kinh tế, cơ hội của phụ nữ tiếp cận việc làm có thu nhập cao và các
nguồn lực kinh tế vẫn còn thấp hơn so với nam giới. Một số chỉ tiêu đặt ra ở Chiến lược
quốc gia bình đẳng giới về lao động, đào tạo,… vẫn chưa đạt được. Theo số liệu của Tổng

14


Cục Thống kê, tỷ lệ lao động nữ nông thôn dưới 45 tuổi được đào tạo nghề và chuyên môn
kỹ thuật đạt 11,8% năm 2013, bằng gần một nửa so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
Về mặt chăm sóc sức khỏe, việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ
nữ vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số còn hạn chế. Tỷ suất tử vong mẹ còn cao so với
một số nước trong khu vực. Mức giảm tỷ suất tử vong mẹ trong 10 năm qua còn chậm,
nhất là ở vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc thiểu số. Tỷ lệ nữ có bảo hiểm y tế (tính trong
số người khám chữa bệnh) tăng lên qua các năm, tuy nhiên còn thấp hơn nam giới. Theo
số liệu điều tra mức sống dân cư năm 2010, khoảng 64,5% số phụ nữ có bảo hiểm y tế, so
với 69,4% số nam có bảo hiểm y tế.
Tình trạng bạo lực đối với phụ nữ tồn tại khá nghiêm trọng. Nhận thức về pháp luật
của cán bộ và người dân về phòng, chống bạo lực gia đình còn hạn chế. Chế tài thực hiện
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình chưa mạnh, chưa xử lý nghiêm các hành vi bạo lực gia
đình.
Về mặt luật pháp, một số văn bản hướng dẫn, thể chế hóa quy định của pháp luật liên
quan đến bình đẳng giới chậm được ban hành. Việc triển khai quy định lồng ghép vấn đề
bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và đánh giá việc lồng ghép vấn
đề bình đẳng giới trong xây dựng và thẩm định các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
đạt kết quả chưa cao.
Tóm lại,Đảng, Chính phủ, toàn xã hội và bản thân phụ nữ cần phải hết sức cố gắng
khắc phục những khó khắn để giành những thắng lợi triệt để hơn nữa trong công cuộc giải
phóng phụ nữ và tiến tới thực hiện bình đẳng giới, giải phóng cá nhân con người. Đây
chính là tiền đề và điều kiện dẫn tới sự phát huy tài năng, trí tuệ, những phẩm chất tinh
thần tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam, góp phần phục vụ công cuộc phát triển đất nước.

15



Câu 3: Vấn đề đặt ra và giải pháp nhằm thực hiện tốt bình đẳng giới trên một số
lĩnh vực ở địa phương?
Khái niệm về giới: là khái niệm khoa học ra đơì từ môn nhân loại học, chỉ sự khác
biệt giữa nam và nữ về măt xã hội, nói về giới là nói về vai trò, trách nhiệm và quyền lơị
mà xã hội quan niệm hay quy định chon nam và nữ.
Bình đẳng giới: là khái niệm biểu đạt sự đối như nhau của xã hội đối với nam và nữ;
là trạng thái xã hội trong đó phụ nữ và nam giới có vị trí như nhau, có các cơ hội như nhau
để phát hiện đầy đủ tiềm năng của mình, sử dụng nó cho sự phát triển của xã hội và đươc
hưởng lợi từ kêts quả của sự phat triển đó. Luât BDG (2007) có viết: “BĐG là việc nam,
nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, đươc tạo điều kiện và cơ hội phat huy năng lực của mình
cho sự phats triển của coongj đồng, của gia đình và hươngr thu nhu nhau về thành quả của
sự phát triển đó ”
Những Khó khăn và giải pháp:
Khó khăn:
- Trong lĩnh vực Chính trị:
Công tác qui hoạch cán bộ còn chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến thiếu cán bộ
nữ kế cận cho nhiều vị trí lãnh đạo, quản lý và cũng là nguyên nhân khiến tỷ lệ nữ đại biểu
tham gia trong Bộ chính trị, BCH Trương Đảng, Quốc hội, BCH Đảng Bộ địa phương và
ĐB HĐND các cấp còn thấp…Ngay trong Quốc Hội thì sự phân công theo giới vẫn còn
hạn chế, tỷ lệ nữ tập trung cao trong môtj số uyr ban mang tính đoàn thể xã hội, còn các ủy
ban lien quan đến kinh tế hoặc có quyeèn lực cao thì tyr leej nữ thấp thậm chí không có.
Nhìn chung tỷ lệ cán bộ quản lý, lãnh đạo nữ còn thấp so với sự tăng lên cả về số
lượng và chất lượng của lực lượng lao động nữ và so với cán bộ quản lý, lãnh đạo nói
chung.
Một số ngành, tuy có tỷ lệ lao động nữ chiếm đa số nhưng tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo,
quản lý rất ít, thậm chí không có lãnh đạo nữ. Trong ngành giáo dục - đào tạo, tuy tỷ lệ nữ
cán bộ, công chức khá cao, nhưng sự tham gia của họ vào các vị trí lãnh đạo còn khiêm
tốn.
- Trong lĩnh vực lao động, việc làm: Mặc dù, tỷ lệ lao động nữ trong tổng số lao động
mới được giải quyết việc làm tăng lên và có khả năng vượt kế hoạch, nhưng lao động nữ

16


chủ yếu vẫn chiếm số đông ở những lĩnh vực không đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật cao, có
thu nhập thấp và việc làm bấp bênh, độ rủi ro cao.
Sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong tổng số lao động được giải quyết việc làm nếu
được xem xét cả yếu tố giới sẽ thấy vẫn còn những bất bình đẳng: xét về cơ cấu, lao động
nữ mới được giải quyết việc làm chỉ chiếm tỷ lệ cao trong khu vực nông-lâm nghiệp, thủy
sản, còn trong khu vực công nghiệp-xây dựng chỉ chiếm 36% và khu vực thương mại-dịch
vụ chiếm 56,4%. Lao động nữ ít có cơ hội hơn trong tiếp cận vơí việc làm và dễ bị thất
nghiệp hơn so vơí lao động nam, chỉ những hoạt động kinh tế được trả thù lao bằng tiền và
hiện vật thông qua trả lương, trả công mơí được công nhận là việc làm, ngoài ra nhiều
hoatj động khác thuộc vai trò tái sản xuất ra con người như nội trợ, nuôi con, chăm sóc bố
mẹ già … không được coi là việc làm. Quan điểm này bất hợp lý gây bất lơị cho nam và
nữ.
Mặc dù không có sự phân biệt về giới trong chính sách tiền lương, song thu nhập
thực tế giữa lao động nam và nữ vẫn chênh lệch, do lao động nữ ít có điều kiện làm việc
trong những ngành, nghề đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật cao. Thu nhập của nữ chỉ bằng
74,5% so với thu nhập của nam giới.
-Trong lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo: việc tiếp cận với giáo dục của trẻ em gái và phụ
nữ vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn và trở ngại hơn so với trẻ em trai và nam giới;
do phải thực hiện thiên chức làm mẹ, phụ nữ đã gặp rất nhiều trở ngại trong quá trình phấn
đấu, tu dưỡng và học tập vươn lên, đặc biệt khi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ.
Công tác xóa mù chữ cho phụ nữ ở lứa tuổi từ 15 đến dưới 40 hiện vẫn còn gặp nhiều
khó khăn, đặc biệt là phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Báo cáo của các
địa phương cho thấy tại một số tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nam Bộ, chỉ tiêu xóa mù
chữ cho phụ nữ dưới 40 tuổi chỉ đạt khoảng 70-75%.
Trình độ học vấn của phụ nữ so với nam giới ở bậc học càng cao, càng có sự chênh
lệch đáng kể. Phụ nữ có học hàm, học vị như giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ còn ít.
- Trong lĩnh vực y tế: Thách thức lớn nhất hiện nay là tỷ lệ tử vong bà mẹ giảm chưa

nhiều, nhất là ở vùng sâu, vùng xa và vùng nghèo. Số phụ nữ mắc và chết do 5 bệnh tai
biến sản khoa vẫn có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây. Phụ nữ phải chịu thiêtj
thòi nhiều về các bệnh lây nhiểm qua các đường tình dục, phụ nữ nước ta trong độ tuổi
17


sinh đẻ mắc nhiều bệnh nhiễm phụ khoa... phụ nữ nhiểm HIV thường bị phân biệt đối xử,
bị sỉ nhục và là nạn nhân của các cuộc bạo lực.
- Trong lĩnh vực văn hóa: Do ảnh hưởng tiêu cực của nho giáo đối với bâts bình đẳng
nam nữ, thể hiện rõ nhâts là tư tưởng trọng nam khinh nữ, đề cao gia trưởng, đề cao người
đàn ông trong gia đình và xã hội, trong khi đó lại hạ thấp địa vị, vai trò của phụ nữ, cho
rằng phụ nữ thấp kém hơn nam giới, dẫn đến trong phân công lao động có biểu hiện bâts
bình đẳng trong xã hội, trong gia đình, môtj số người vẫn giữ quan niệm rằng phụ nữ phải
phục vụ chồng con là “chức năng”, “thiên chức” là sự hy sinh cao quys của phụ nữ, đã dồn
lên vai người phụ nữ những công việc nặng nề nhâts ngoài việc sinh đẻ và chăm sóc gia
đình, nội trợ còn phải tham gia gánh vats nhiều công việc xã hội.
- Trong lĩnh vực gia đình: Đến nay, suy nghĩ và quan niệm bình đẳng giới còn bị ràng
buộc khá nhiều bởi những khuôn mẫu định kiến về giới: Phụ nữ vẫn là người đảm nhận
chính các công việc nội trợ, chăm sóc, còn nam giới vẫn được xem là người giữ vai trò trụ
cột trong gia đình. Tâm lý thích sinh con trai hơn con gái, nên tỷ số giới tính khi sinh đã có
sự gia tăng trong những năm gần đây.
Tình hình tội phạm, buôn bán phụ nữ, trẻ em vẫn có những diễn biến phức tạp, có
chiều hướng gia tăng và quốc tế hóa. Tình trạng ngược đãi phụ nữ trong gia đình vẫn tồn
tại cả ở thành thị và nông thôn, trong tất cả các nhóm xã hội. Hình thức bạo lực gia đình
phổ biến là bạo lực của chồng đối với vợ.
Một số giải pháp:
Một là: Tuyên truyền, phổ biến pháp luật để nâng cao nhận thức của toàn xã hội về
bình đẳng giới
- Triển khai thực hiện tuyên truyền, giáo dục Luật Bình đẳng giới và các văn bản
hướng dẫn thực hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng một cách thiết thực, phù hợp

với từng ngành, địa phương và đối tượng cụ thể. Tập trung trước tiên vào việc nâng cao
nhận thức cho các cấp ủy, người lãnh đạo, đảng viên, chống tư tưởng coi thường phụ nữ,
các hành vi phân biệt đối xử giới thông qua việc mở các chuyên mục, chuyên đề trên các
phương tiện thông tin đại chúng như báo hình, báo viết, báo nói, mạng Internet và thông
qua các hội nghị, hội thảo, tập huấn cho các báo cáo viên, tuyên truyền viên.
18


- Nghiên cứu khả năng lồng ghép và thực hiện lồng ghép nội dung giáo dục về giới
và bình đẳng giới vào chương trình đào tạo của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức thuộc lĩnh vực quản lý.
- Tập trung vào việc phổ biến tuyên truyền pháp luật về bình đẳng giới để hình thành
đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên ở cấp cơ sở, đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công
tác trợ giúp pháp lý.
Hai là: Xây dựng, hoàn thiện và thực hiện pháp luật, chính sách, chương trình, dự án
về bình đẳng giới và các giải pháp phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới nhằm tạo điều
kiện cho sự phát triển của phụ nữ
- Tăng cường thực hiện rà soát, sửa đổi, bổ sung pháp luật có liên quan đảm bảo phù
hợp với mục tiêu bình đẳng giới; có cơ chế phù hợp để tăng cường quan hệ đối tác giữa
các cơ quan, tổ chức có liên quan trong lĩnh vực bình đẳng giới; khuyến khích tạo điều
kiện để các tổ chức phi chính phủ tham gia hoạt động về bình đẳng giới;
- Tổ chức nghiên cứu, rà soát, đề xuất sửa đổi và lồng ghép vấn đề bình đẳng giới đối
với các chương trình mục tiêu quốc gia và các đề án hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội hiện
hành;
- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách hỗ trợ nâng cao năng lực hoạt động kinh tế
cho phụ nữ;
- Xây dựng bộ chỉ số đánh giá bình đẳng giới trong tất cả các lĩnh vực được quy định
trong Luật Bình đẳng giới.
- Tập trung nghiên cứu xây dựng và ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới
giai đoạn 2011 - 2020.

Ba là: Kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý nhà nước và nâng cao năng lực cho đội
ngũ cán bộ làm công tác bình đẳng giới từ trung ương đến địa phương, cơ sở
- Kiện toàn tổ chức quản lý nhà nước về bình đẳng giới từ Trung ương đến địa
phương, cơ sở; kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của các Ban vì sự tiến bộ của phụ
nữ ở các cấp.
- Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ
của phụ nữ từ trung ương đến địa phương, cơ sở .
19


- Tổ chức tập huấn kiến thức về giới và kỹ năng lồng ghép giới cho cán bộ, công
chức nói chung và cán bộ nữ nói riêng.
Bốn là: Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế (đa phương, song
phương, với các tổ chức phi chính phủ) về bình đẳng giới
- Xây dựng chương trình nghiên cứu về bình đẳng giới trong các lĩnh vực; trước mắt
tập trung vào các nghiên cứu về các trở ngại liên quan đến giới đối với việc phát triển của
phụ nữ, đặc biệt là doanh nhân nữ để xác định nhu cầu và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ hiệu
quả;
- Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm học tập, chia sẻ kinh nghiệm triển
khai thực hiện Luật Bình đẳng giới và vận động nguồn lực hỗ trợ thực hiện các chính sách,
pháp luật về bình đẳng giới.
Năm là, nâng cao vai trò của tổ chức hội liên hiệp phụ nữ các cấp.
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam thông qua quy định trách nhiệm của các cấp Hội
trong công tác cán bộ nữ cần tăng cường thực hiện chức năng đại diện của tổ chức; chủ
động, tích cực tham mưu, đề xuất, tham gia xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính
sách về công tác cán bộ nữ; phát hiện, bồi dưỡng, giới thiệu nguồn cán bộ nữ có chất
lượng cho Đảng; tham gia có hiệu quả vào công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ nữ ở các
cấp. Trong đó cần coi trọng công tác tham mưu, đề xuất, tham gia giám sát và phản biện
xã hội; giới thiệu nguồn cán bộ nữ; tham gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của hội viên... góp phần vào thành tựu chung về bình đẳng giới của

Việt Nam. từng bước đẩy lùi những quan niệm định kiến giới đã ăn sâu trong tiềm thức
của các nhóm xã hội.
Sáu là, nâng cao năng lực của cán bộ nữ trong lĩnh vực chính trị.
Tiếp tục nâng cao nhận thức, quan điểm về bình đẳng giới và công tác cán bộ nữ
trong các cấp ủy đảng, chính quyền, các đoàn thể và quần chúng nhân dân. Tích cực tuyên
truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về giới và bình đẳng giới trong hệ thống chính trị và
toàn xã hội.
Quan tâm xây dựng quy hoạch, tạo nguồn cán bộ nữ, nâng cao năng lực của phụ nữ
về mọi mặt nhằm tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong các cơ quan của hệ thống
chính trị; thực hiện quy hoạch gắn với đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng cán bộ nữ, bảo
20


đảm yêu cầu phát triển liên tục, bền vững đội ngũ cán bộ nữ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, tránh tình trạng khi đại hội, bầu cử mới tìm kiếm nhân sự đủ tiêu chuẩn.
Rà soát, xây dựng, bổ sung, hoàn thiện chính sách đối với phụ nữ nói chung và cán
bộ nữ nói riêng nhằm tạo điều kiện phát huy tiềm năng của phụ nữ. Quan tâm đặc biệt tới
xây dựng chính sách cho các đối tượng cán bộ nữ. Xem xét sửa đổi Bộ luật Lao động và
các luật liên quan về vấn đề nghỉ hưu của nữ cán bộ, công chức.

21



×