Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

Nghiên cứu việc áp dụng hiệp định SPS vào giải quyết tranh chấp liên quan đến vụ DS245 giữa nhật bản hoa kỳ và bài học rút ra cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.43 KB, 88 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
-------***-------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Thương mại quốc tế
NGHIÊN CỨU VIỆC ÁP DỤNG HIỆP ĐỊNH SPS
VÀO GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LIÊN QUAN
ĐẾN VỤ DS245 GIỮA NHẬT BẢN VÀ HOA KỲ
VÀ BÀI HỌC RÚT RA CHO VIỆT NAM

Họ và tên sinh viên

: Ngô Thị Minh Phương

Mã sinh viên

: 1111120132

Lớp

: Anh 24 - Khối 9 KT

Khoá

: 54

Người hướng dẫn khoa học

: GS,TS. Nguyễn Thị Mơ


Hà Nội, tháng 05 năm 2019


i
MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT....................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ................................................................ iv
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH VỀ CÁC BIỆN PHÁP VỆ SINH
DỊCH TỄ VÀ KIỂM DỊCH ĐỘNG THỰC VẬT............................................................... 4
1.1. Bối cảnh ra đời, mục tiêu và các nguyên tắc của Hiệp định SPS...................4
1.1.1. Bối cảnh ra đời Hiệp định SPS................................................................................... 4
1.1.2. Mục tiêu của Hiệp định SPS........................................................................................ 5
1.1.3. Các nguyên tắc của Hiệp định SPS........................................................................... 8
1.2. Nội dung chủ yếu của Hiêp định SPS....................................................................... 13
1.2.1. Sự khác nhau giữa Hiệp định SPS và Hiệp định TBT.................................... 13
1.2.2. Cam kết của các nước thành viên về thực hiện Hiệp định SPS...................16
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TỪ VIỆC VẬN DỤNG CÁC QUY
ĐỊNH CỦA HIỆP ĐỊNH VỀ CÁC BIỆN PHÁP VỆ SINH DỊCH TỄ VÀ KIỂM
DỊCH ĐỘNG THỰC VẬT: PHÂN TÍCH TỪ VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ TRANH

CHẤP GIỮA NHẬT BẢN & HOA KỲ................................................................................. 22
2.1. Giới thiệu về vụ tranh chấp giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ về xuất khẩu táo
22
2.1.1. Các bên tham gia và mốc thời gian........................................................................ 22
2.1.2. Diễn biễn tranh chấp.................................................................................................... 23
2.1.3. Quan điểm của Ban Hội thẩm.................................................................................. 27
2.1.4. Quan điểm của Cơ quan Phúc thẩm....................................................................... 29
2.1.5. Thời gian hợp lý............................................................................................................. 31

2.1.6. Quá trình thực thi.......................................................................................................... 31
2.1.7. Thi hành theo Điều 22 DSU (bồi thường)........................................................... 32
2.1.8. Giải pháp thống nhất.................................................................................................... 33
2.2. Những vấn đề đặt ra từ việc vận dụng các quy định của Hiệp định SPS vào

giải quyết tranh chấp................................................................................................................. 34
2.2.1. Nhật Bản đã không có đủ bằng chứng khoa học............................................... 34


ii
2.2.2. Các biện pháp SPS của Nhật Bản không dựa trên sự đánh giá rủi ro.......35
2.2.3. Nhật Bản chưa nhất quán khi đánh giá rủi ro..................................................... 39
2.2.4. Các biện pháp SPS mà Nhật Bản áp đặt lên táo nhập khẩu từ Hoa Kỳ không

nhất quán với quy định của Hiệp định SPS..................................................................... 40
2.2.5. Nhật Bản không nhất quán với Điều khoản 7 và Phụ lục B của Hiệp định
SPS.................................................................................................................................................. 41
2.3. Kết luận rút ra từ vụ tranh chấp................................................................................ 42
CHƯƠNG 3. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM TỪ VỤ
TRANH CHẤP GIỮA HOA KỲ VÀ NHẬT BẢN VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG

43
3.1. Bài học kinh nghiệm.......................................................................................................... 43
3.1.1. Bài học thành công....................................................................................................... 43
3.1.2. Bài học thất bại.............................................................................................................. 47
3.1.3. Những bài học cho Việt Nam từ sự thất bại của Nhật Bản............................ 50
3.2. Giải pháp để Việt Nam vận dụng bài học kinh nghiệm từ vụ tranh chấp
54
3.2.1.


Các giải pháp đối với Nhà nước.......................................................................... 54

3.2.2.

Các giải pháp đối với doanh nghiệp................................................................... 63

KẾT LUẬN......................................................................................................................................... 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 68
PHỤ LỤC............................................................................................................................................. 71


iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Tên viết tắt

Tên đầy đủ

Tên tiếng Việt

ALOP

Appropriate Level of Protection

Mức độ bảo vệ phù hợp

CODEX

Codex Alimentarius


Ủy ban Tiêu chuẩn Thực phẩm

Commission

Quốc tế

DSB

Dispute Settle Body

Cơ quan giải quyết tranh chấp

DSU

Dispute Settlement

Thỏa thuận về giải quyết tranh

Understanding

chấp

General Agreement on Tariffs

Hiệp định chung về Thuế quan

and Trade

và Thương mại


Hiệp định

Agreement on Sanitary and

Hiệp định về các biện pháp vệ

SPS

Phytosanitary Measure

sinh dịch tễ và kiểm dịch động

GATT

thực vật
Hiệp định

Agreement on Technical Bariers

Hiệp định về Hàng rào Kỹ thuật

TBT

to Trade

đối với Thương mại

IPPC

International Plant Protection


Công ước Quốc tế bảo vệ thực

Convention

vật

Ministry of Agriculture Fishers

Bộ Nông Nghiệp, Lâm Nghiệp

and Food

và Thủy Sản

MFN

Most Favoured Nation

Nguyên tắc tối huệ quốc

OIE

Office International of

Văn phòng quốc tế về bệnh dịch

Epizootics

động vật (Tổ chức Thú y Thế


MAFF

giới)
SPS
TBT

Sanitary and Phytosanitary

Các biện pháp vệ sinh dịch tễ và

Measure

kiểm dịch động thực vật

Technical Bariers to Trade

Hàng rào kỹ thuật đối với
Thương mại

USDA

United States Department of

Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ

Agriculture
WTO

World Trade Organization


Tổ chức Thương mại Thế giới


iv

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ
- BẢNG
Bảng 1.1: Các hiệp định đa biên về thương mại hàng hóa của WTO............................... 5
Bảng 1.2: Các tổ chức đưa ra các tiêu chuẩn quốc tế về SPS.............................................. 8
Bảng 1.3: So sánh sự khác nhau giữa Hiệp định SPS và Hiệp định TBT.....................15
Bảng 1.4: Yêu cầu đối với một biện pháp SPS tạm thời..................................................... 17
Bảng 2.1: Điều 2 và Điều 5, Hiệp định SPS............................................................................ 25
Bảng 2.2: Điều 7, Hiệp định SPS................................................................................................. 27
Bảng 2.3: Điều XI, GATT 1994 và Điều 4.2 Hiệp định Nông Nghiệp..........................28
Bảng 2.4: Điều 11 DSU................................................................................................................... 30
Bảng 2.5: Điều 21.5 DSU............................................................................................................... 31
Bảng 2.6: Điều 22.2 và Điều 22.6 DSU.................................................................................... 33

- HÌNH
Hình 3.1: Quy trình kiểm tra thực phẩm nhập khẩu vào Nhật Bản................................. 59


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiệp định về các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (Hiệp
định SPS) là một trong số các hiệp định đa biên của WTO quy định về những vấn đề
liên quan đến biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật. Mục tiêu của

Hiệp định là nhằm đảm bảo sự sống và sức khỏe của con người và động thực vật
trong điều kiện tự do hóa thương mại. Hiệp định SPS cho phép các Thành viên của
WTO được quyền đưa ra các biện pháp bảo hộ thông qua các quy định về kiểm dịch
động thực vật, về vệ sinh dịch tễ đối với các sản phẩm nhập khẩu nhằm bảo vệ sự
sống và sức khỏe con người, động thực vật mà vẫn đảm bảo tự do hóa thương mại.
Tuy nhiên vì nó có thể sử dụng như một rào cản thương mại trá hình, WTO đã yêu
cầu các nước Thành viên, thông qua Hiệp định SPS, phải áp dụng các biện pháp này
sao cho không cản trở đến mục tiêu tự do hóa thương mại mà WTO đề ra. Hiệp định
SPS là một trong những hiệp định phức tạp và dễ bị vi phạm nhất trong các hiệp
định của WTO. Nguyên nhân là vì những nguyên tắc trong Hiệp định này đòi hỏi
các nước thành viên phải có trình độ, kinh nghiệm để kiểm tra các biện pháp vệ sinh
dịch tễ và có một cơ sở khoa học thuyết phục của các biện pháp quản lý mà các
Thành viên WTO đưa ra để kiểm dịch động thực vật nhằm bảo vệ cho sức khỏe con
người và động thực vật trong lãnh thổ của mình.
Về mặt văn bản, Hiệp định SPS có nhiều điều khoản phức tạp, dễ bị vi phạm đối
với một số nước chưa có khả năng xây dựng được những tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp
trong việc phân tích rủi ro liên quan đến an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật.
Vì vậy, trong 19 năm tồn tại của Hiệp định SPS (1995 – 2014), đã có 42 tranh chấp
thương mại quốc tế phát sinh liên quan đến việc thực thi Hiệp định này. Đó là những
tranh chấp về các thủ tục về kiểm tra, kiểm dịch động vật, dịch bệnh ở động vật, sâu
bệnh ở cây trồng; về việc sử dụng thuốc trong lĩnh vực thú y; về thực vật biến đổi gen
v.v… Gần như tất cả các tranh chấp xảy ra đều liên quan đến việc áp dụng Điều 2 của
Hiệp định (quyền và nghĩa vụ): có tới 41/42 tranh chấp và Điều 5 (nghĩa vụ phân tích
rủi ro): có tới 40/42 tranh chấp của Hiệp định SPS (WTO, 2015). Về nội dung, Điều 2
quy định về căn cứ khoa học của biện pháp SPS, còn Điều 5 quy


2
định việc phân tích rủi ro đối với việc áp dụng biện pháp SPS bằng phương pháp khoa
học. Hai điều khoản này là những cơ sở pháp lý mà cơ quan giải quyết tranh chấp của

WTO sẽ phải vận dụng khi giải quyết một tranh chấp liên quan đến Hiệp định SPS. Do
tính phức tạp của Hiệp định cả trong quy định lẫn trong quá trình vận dụng, do đó việc
tìm hiểu thực tiễn vận dụng quy định của Hiệp định SPS vào giải quyết tranh chấp là
điều hết sức cẩn thiết. Ngoài ra, thông qua nghiên cứu việc giải quyết tranh chấp đã
phát sinh liên quan đến Hiệp định này, có thể rút ra những bài học hữu ích cho Việt
Nam, góp phần vào việc chuẩn bị cho việc giải quyết những tranh chấp phát sinh liên
quan đến Việt Nam trong tương lai. Tuy nhiên, do khả năng còn hạn chế, trong khuôn
khổ của một khóa luận tốt nghiệp, người viết chỉ lựa chọn một vụ tranh chấp cụ thể để
phân tích. Đó là vụ tranh chấp số DS245 giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ.
Xuất phát từ những lý do trên, người viết đã chọn vấn đề “Nghiên cứu việc áp
dụng hiệp định SPS vào giải quyết tranh chấp liên quan đến vụ DS245 giữa Nhật Bản
& Hoa Kỳ và bài học rút ra cho Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học của

mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích việc giải quyết vụ tranh chấp giữa Nhật Bản & Hoa Kỳ về
xuất khẩu táo, đề bài nêu ra những bài học kết luận cho Việt Nam từ việc áp dụng
những quy định của Hiệp định SPS để một mặt vừa bảo đảm nguyên tắc tự do hóa
thương mại, mặt khác vừa bảo vệ sự sống, sức khỏe của con người và động thực vật.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài có nhiệm vụ:
- Giới thiệu tổng quan về Hiệp định SPS
- Làm rõ những khó khăn đối với Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp định SPS
-

Nêu ra bài học kinh nghiệm rút ra từ việc phân tích việc giải quyết tranh chấp giữa
Nhật Bản & Hoa Kỳ liên quan đến áp dụng Hiệp định SPS


-

Đề xuất giải phát để Việt Nam vận dụng kinh nghiệm từ các nước khi áp dụng Hiệp
định SPS
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu


3
3.1. Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề liên quan đến Hiệp định SPS và
áp dụng Hiệp định SPS trong thực tiễn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu tập trung vào Hiệp định SPS quy định trong WTO,
luật thương mại của Nhật Bản và luật thương mại của Hoa Kỳ có liên quan đến vụ
DS245.
4. Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành khóa luận, các phương pháp sau đây đã được áp dụng:
phương pháp hệ thống hóa, phương pháp tổng hợp và phân tích, phương pháp so
sánh và phương pháp thống kê.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của khóa luận bao gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về Hiệp định về các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm
dịch động thực vật
Chương 2: Một số vấn đề đặt ra từ việc vận dụng các quy định của Hiệp định
về các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật: phân tích từ việc giải
quyết vụ tranh chấp giữa Nhật Bản & Hoa Kỳ
Chương 3: Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ vụ tranh chấp giữa
Hoa Kỳ và Nhật Bản và giải pháp vận dụng



4

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH VỀ CÁC BIỆN PHÁP VỆ SINH DỊCH
TỄ VÀ KIỂM DỊCH ĐỘNG THỰC VẬT
Hiệp định về Các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (Hiệp
định SPS) là một trong số các hiệp định đa biên của WTO được xây dựng để điều
chỉnh việc áp dụng các biện pháp bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm đối với hàng
nhập khẩu giữa các nước Thành viên WTO, đặc biệt là kiểm dịch động thực vật
nhằm bảo vệ sức khỏe con người khỏi các nguy cơ phát sinh từ các chất độc hại, lan
truyền các loại sâu bệnh.
Trong thực tiễn áp dụng các hiệp định đa biên của WTO (xem Bảng 1.1),
Hiệp định SPS là một trong những hiệp định phức tạp và khó áp dụng, đặc biệt là
đối với các nước Thành viên đang phát triển như Việt Nam. Tính phức tạp và khó áp
dụng này được lý giải là vì các biện pháp khoa học mà các nước thành viên áp dụng
khi quản lý hàng hóa nhập khẩu vào nước mình là những biện pháp chưa thống nhất
do vì chúng phải dựa trên các thành tựu, chứng cứ khoa học.
Để thấy được tính phức tạp của Hiệp định, mục 1.1 và 1.2 dưới đây sẽ trình
bày tổng quan về Hiệp định SPS.
1.1. Bối cảnh ra đời, mục tiêu và các nguyên tắc của Hiệp định SPS
1.1.1. Bối cảnh ra đời Hiệp định SPS
Hiệp định SPS ra đời là kết quả của vòng đàm phán Uruguay, theo đó, cùng với
sự ra đời của WTO, hàng loạt các hiệp định đa biên cũng được ban hành nhằm điều
chỉnh các vấn đề của tự do hóa thương mại trên phạm vi toàn cầu. Tương tự như các
hiệp định đa biên khác của WTO, Hiệp định SPS có hiệu lực từ năm 1995 và bao gồm
các biện pháp liên quan đến kiểm dịch vệ sinh dịch tễ, kiểm tra sự an toàn thực phẩm,
bảo vệ thực vật và sức khỏe động vật. Trước năm 1995, các biện pháp vệ sinh dịch tễ là
1


nội dung của Hiệp định TBT . Trước khi Hiệp định TBT ra đời, các biện pháp SPS
được nêu trong Điều XX của Hiệp định GATT, theo đó các Bên ký kết
1

Là Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại của WTO. Hiệp định này được các quốc gia thành viên
của WTO thông qua và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1995 gồm 6 phần với 15 điều và 3 phụ lục.


5
được quyền bỏ qua các nguyên tắc cơ bản của GATT khi xem xét vấn đề về vệ sinh
an toàn và kiểm dịch động thực vật. Tuy nhiên, cả Điều XX của Hiệp định GATT
lẫn các quy định về vấn đề này trong Hiệp định TBT không đủ mạnh để loại bỏ rào
cản và giảm bớt rủi ro khi các Bên ký kết lạm dụng các biện pháp này nhằm mục
đích bảo hộ cho ngành sản xuất trong nước.
Bảng 1.1: Các hiệp định đa biên về thương mại hàng hóa của WTO
Các hiệp định đa biên được quy định cụ thể trong phụ lục 1A của WTO
Phụ lục 1A: Các Hiệp định đa biên về thương mại hàng hóa
- Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT)
- Hiệp định Nông nghiệp (AOA)
- Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS)
- Hiệp định về thương mại hàng dệt may (ATC)
- Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT)
- Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs)
- Hiệp định thực thi điều VI của GATT (Hiệp định chống bán phá giá – ADP)
- Hiệp định thực thi điều VII của GATT (Hiệp định về xác định trị giá hải quan)
- Hiệp định về giám định hàng hóa trước khi gửi hàng
- Hiệp định về quy tắc xuất xứ
- Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu
- Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM)
- Hiệp định về các biện pháp tự vệ


Nguồn: (Nguyễn Thị Mơ, 2011, tr.149)
Do vậy, Hiệp định SPS đã ra đời để bổ sung các vấn đề nằm ngoài phạm vi
của Hiệp định TBT, nhằm tạo sự tự do hóa thương mại toàn cầu mà vẫn đảm bảo
sức khỏe của con người, động thực vật, ngăn chặn các bệnh tật lây truyền qua động
vật không cho nhập khẩu vào một quốc gia.
1.1.2. Mục tiêu của Hiệp định SPS
Mục tiêu của Hiệp định SPS được quy định tại Điều 2 và Điều 3, theo đó bao
gồm các mục tiêu cụ thể sau đây:


6
-

Thi hành các biện pháp bảo vệ sức khỏe, cuộc sống con người, động thực vật, với
yêu cầu là các biện pháp đó không được áp dụng theo cách thức có thể tạo ra sự
phân biệt đối xử giữa các Thành viên có điều kiện giống nhau hoặc như một rào cản
thương mại trá hình (Điều 2.3, Hiệp định SPS).
Mục tiêu này dựa theo các nguyên tắc của Hiệp định GATT 1994. Theo đó,
các biện pháp bảo vệ sức khỏe được áp dụng tạo ra sự phân biệt đối xử đểu bị cấm,
trừ khi các biện pháp đó phù hợp với ngoại lệ được quy định tại khoản b, Điều XX
của Hiệp định GATT 1994 là các biện pháp “cần thiết để bảo vệ cuộc sống và sức
khoẻ của con người, động vật hay thực vật”. Điều I khoản 1 và Điều III khoản 4
cùng với Điều XVII của Hiệp định GATT 1994 cũng ngăn cản việc áp dụng các
biện pháp thuộc trường hợp ngoại lệ Điều XX theo những cách mà sẽ "tạo ra sự
phân biệt đối xử tuỳ tiện giữa các quốc gia nơi mà các quy định tương tự xảy ra,
hoặc một hạn chế trá hình về thương mại quốc tế.
Không phân biệt đối xử là một nguyên tắc quan trọng đối với các thành viên
khi cam kết ra nhập WTO. Đối với các biện pháp SPS, nguyên tắc này vẫn áp dụng
nhưng có giới hạn. Cụ thể, Hiệp định SPS không cấm các biện pháp SPS phân biệt

đối xử mà chỉ cấm các biện pháp SPS phân biệt đối xử một cách tuỳ tiện hoặc
không có căn cứ. Nếu một nước có lý do chính đáng để áp dụng các biện pháp SPS
khắt khe hơn đối với hàng hoá nhập khẩu đến từ một khu vực nhất định so với hàng
hoá đến từ các khu vực khác hoặc hàng hoá trong nước (ví dụ, khu vực đó đang có
dịch bệnh nguy hiểm) thì vẫn được chấp nhận theo Hiệp định SPS.
Ví dụ trong vụ tranh chấp Australia – Các biện pháp ảnh hưởng đến nhập
khẩu cá hồi” (DS18), Canada tuyên bố rằng Australia đã áp đặt các yêu cầu nhập
khẩu đối với cá hồi từ Canada, nhưng không có biện pháp kiểm soát nội địa liên
quan đến việc cá chết ở Australia. Theo khiếu nại của Canada, điều này là sự phân
biệt đối xử vô lý theo Điều 2.3 của Hiệp định SPS. Có thể thấy trong trường hợp
này, sự phân biệt đối xử không chỉ giữa hàng hóa giống nhau nhập khẩu từ các
nguồn khác nhau mà còn giữa hàng nhập khẩu và hàng nội địa nếu các hàng hóa đó
có thể gây ra các rủi ro tương tự (giữa cá hồi từ Canada và cá chết khác ở Australia).

-

Xây dựng các nguyên tắc, luật lệ làm chuẩn mực chung để hướng dẫn các thành viên
xây dựng, chọn lựa và áp dụng các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch


7
động thực vật để hạn chế đến mức tối thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của nó đối
với thương mại.
Hiệp định SPS đòi hỏi các quốc gia khi áp dụng các biện pháp SPS phải đảm
bảo rằng các biện pháp này hạn chế thương mại ở mức thấp nhất có thể (nếu không
sẽ là vi phạm WTO và có thể phải huỷ bỏ). Thông thường, một biện pháp SPS sẽ
không bị coi là hạn chế thương mại trên mức cần thiết nếu nó nhằm thực hiện mục
tiêu (bảo vệ lợi ích công cộng) của mình, có tính đến tất cả các điều kiện và tính khả
thi về kỹ thuật và kinh tế. Tuy nhiên, đây là một tiêu chí rất khó định lượng, đặc biệt
là đối với các doanh nghiệp khi đánh giá.

Ví dụ trong vụ Australia – Cá hồi, Ban Hội thẩm đã đưa ra các tiêu chí xác
định biện pháp SPS của Australia áp đặt đối với cá hồi nhập khẩu từ Canada là hạn
chế thương mại trên mức cần thiết. Đó là nếu tồn tại một biện pháp SPS khác đồng
thời thỏa mãn các điều kiện sau:
i.
ii.

Có tính khả thi về kỹ thuật, kinh tế và có thể áp dụng được
Cho phép đạt được mục tiêu bảo vệ về vệ sinh dịch tễ ở mức độ phù
hợp

iii.
-

Ít hạn chế thương mại hơn biện pháp SPS đang được xem xét.

Thúc đẩy việc hài hòa hóa các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật
giữa các thành viên trên cơ sở các tiêu chuẩn, hướng dẫn và khuyến nghị
khoa học do các tổ chức quốc tế liên quan đưa ra để các quy định của các nước
không trở thành rào cản đối với thương mại quốc tế.
Theo quy định tại Hiệp định SPS, các nước Thành viên WTO phải bảo đảm
rằng các biện pháp SPS dựa trên cơ sở các tiêu chuẩn, khuyến nghị, hướng dẫn quốc
tế liên quan của các tổ chức tiêu chuẩn quốc tế nhất định (xem Bảng 1.2). Các biện
pháp SPS của từng nước Thành viên WTO chỉ phải tuân thủ các tiêu chuẩn bắt buộc
chứ không áp dụng cho tiêu chuẩn tự nguyện mà tổ chức này ban hành. Các nước
Thành viên WTO có quyền áp dụng các biện pháp SPS khắt khe hơn các tiêu chuẩn
quốc tế với điều kiện phải được chứng minh bởi các căn cứ khoa học và đảm bảo tất
cả các nguyên tắc khác của Hiệp định SPS.



8
Bảng 1.2: Các tổ chức đưa ra các tiêu chuẩn quốc tế về SPS
- Uỷ ban Tiêu chuẩn Thực phẩm trong lĩnh vực an toàn thực phẩm;
- Văn phòng quốc tế về bệnh dịch động vật trong lĩnh vực sức khoẻ động vật;
- Công ước quốc tế về bảo vệ thực vật trong lĩnh vực sức khoẻ thực vật;
-

Các tổ chức quốc tế khác có liên quan mà tất cả các thành viên WTO đều có thể
tham gia (các tổ chức này sẽ do Uỷ ban SPS xác định) trong các lĩnh vực khác.

Nguồn: (Ban Pháp chế - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, 2013, tr.14)
- Trên cơ sở thực thi Hiệp định, các Thành viên sẽ có thêm lòng tin để tích cực

tham gia vào các cơ quan tiêu chuẩn hóa quốc tế hiện đang hoạt động trong lĩnh vực
an toàn thực phẩm, bảo vệ động thực vật.
Các Thành viên cần tham gia vào các cơ quan tiêu chuẩn hóa quốc tế hoạt
động trong lĩnh vực an toàn thực phẩm, bảo vệ động thực vật nhằm tận dụng đầy đủ
quyền nhận xét dự thảo các quy định và tiêu chuẩn quốc tế, đảm bảo rằng các tiêu
chuẩn, quy định và biện pháp kiểm dịch động thực vật do các nước Thành viên đưa
ra không trở thành rào cản đối với thương mại quốc tế. Đồng thời, các Thành viên
cũng nên tham gia rộng rãi vào các Công ước và Điều ước quốc tế về an toàn thực
phẩm và bảo vệ động thực vật, tiến tới luật hóa quy định của các Công ước này vào
chính sách quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm.
1.1.3. Các nguyên tắc của Hiệp định SPS
Các nguyên tắc chủ yếu của Hiệp định SPS là tính hài hòa, tính tương đương,
mức độ bảo vệ phù hợp (ALOP), mức đánh giá rủi ro, điều kiện của vùng và tính
minh bạch được đề cập đến trong các điều khoản cụ thể của Hiệp định SPS.
1.1.3.1. Tính hài hòa (Điều 3, Hiệp định SPS)
Trong nguyên tắc về tính hài hòa, các nước Thành viên WTO được khuyến
khích xây dựng các biện pháp SPS riêng của mình dựa trên những hướng dẫn, khuyến

nghị và tiêu chuẩn quốc tế hiện có làm cơ cở để áp dụng các biện pháp này (Khoản 1
Điều 3 của Hiệp định SPS). Các thành viên có thể áp dụng các biện pháp kiểm dịch
động thực vật ở mức độ bảo vệ cao hơn trên cơ sở các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến
nghị có liên quan, nếu có sự khẳng định về khoa học hoặc là kết quả của mức độ bảo vệ
động thực vật mà một thành viên xác định là phù hợp với Hiệp định SPS (Khoản


9
3

Điều 3 của Hiệp định SPS). Ủy ban SPS tạo điều kiện và giám sát việc hài hòa hoá
với các tiêu chuẩn quốc tế.
Có ba tổ chức chính xây dựng tiêu chuẩn quốc tế được đề cập đến một cách
cụ thể trong Hiệp định SPS. Đó là:

-

Công ước Bảo vệ Thực vật Quốc tế qui định về sức khoẻ thực vật: được FAO thiết lập
năm 1952 (tính đến hiện nay năm 2015 có tất cả 181 nước tham gia) nhằm

điều phối các hoạt động để ngăn ngừa sự lan truyền và xâm nhập của các loại sâu
bệnh trên cây trồng và các sản phẩm cây trồng và nhằm khuyến khích thực hiện các
biện pháp thích hợp để kiểm soát các loại sâu bệnh này (IPPC, 2015).
-

Tổ Chức Thú y Thế giới qui định về sức khoẻ động vật: ra đời thông qua Hiệp định
quốc tế ký kết vào ngày 25 tháng 1 năm 1924 với tên gọi ban đầu là Văn
phòng quốc tế về bệnh dịch động vật. Tháng 5 năm 2003 được đổi thành Tổ chức Thú

y


Thế giới. OIE là tổ chức liên chính phủ chịu trách nhiệm đảm bảo và cải thiện sức khỏe
của động vật trên toàn thế giới. Năm 2014, tổ chức này có tổng số 180 Thành viên là
các quốc gia và vùng lãnh thổ trong đó có Việt Nam. OIE duy trì mối quan hệ

lâu dài với 45 tổ chức quốc tế và khu vực khác và có văn phòng trên khắp các châu
lục (OIE, 2015). OIE hoạt động với các mục tiêu sau:
i.

Đảm bảo sự minh bạch trên phạm vi toàn cầu về bệnh dịch và hiện
trạng bệnh dịch trên động vật;

ii.
iii.

Tập hợp, phân tích và phổ biến các thông tin khoa học về thú y;
Cung cấp các chuyên gia và khuyến khích sự đoàn kết quốc tế trong
việc kiểm soát dịch bệnh ở động vật;

iv.

Dưới sự ủy nhiệm của Hiệp định SPS, bảo vệ nền thương mại thế giới
bằng việc xuất bản các tiêu chuẩn thú y quốc tế cho các hoạt động
thương mại liên quan tới động vật và sản phẩm động vật;

v.

Tăng cường khung pháp lý và các nguồn lực cho các dịch vụ thú y của
các quốc gia;


vi.

Cải thiện an toàn thực phẩm có nguồn gốc động vật.

- Ủy ban dinh dưỡng Codex qui định về an toàn thực phẩm: được thành lập

năm 1963 bởi Tổ chức Nông Lương của Liên hợp quốc (FAO/UN) và Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO) nhằm xây dựng các tiêu chuẩn, hướng dẫn về thực phẩm và các văn


10
bản liên quan. Codex đã có hơn 200 tiêu chuẩn đối với thực phẩm chế biến, sơ chế
hoặc không qua chế biến; hơn 40 quy tắc chế biến thực phẩm hợp vệ sinh và kỹ
thuật; đánh giá hơn 1000 chất phụ gia thực phẩm và 54 loại thuốc thú y; thiết lập
hơn 3000 mức độ dư lượng thuốc trừ sâu tối đa cho phép; và hơn 30 khuyến nghị về
chất gây ô nhiễm (Codex Alimentarius, 2015).
Các nước Thành viên WTO được khuyến khích tham gia tích cực vào ba tổ
chức này vì chúng mở ra các diễn đàn khác cho chuyển giao hỗ trợ kỹ thuật. Các
nước thành viên WTO được khuyến khích cung cấp, trợ giúp kỹ thuật cho các
Thành viên là nước đang phát triển. Một ví dụ là Chính Phủ Australia, thông qua Cơ
quan Phát triển Quốc tế Australia và Bộ Nông Lâm và Ngư nghiệp đang thực hiện
“Chương trình Nâng cao Năng lực về SPS” mà trọng tâm là các nước ASEAN.
1.1.3.2. Tính tương đương (Điều 4, Hiệp định SPS)
Hiệp định SPS yêu cầu các nước nhập khẩu là Thành viên WTO chấp nhận
các biện pháp SPS của các nước xuất khẩu là Thành viên WTO là tương đương,
ngay cả khi các biện pháp này khác với các biện pháp của mình hoặc của các Thành
viên buôn bán cùng sản phẩm áp dụng, nếu nước xuất khẩu chứng minh được một
cách khách quan cho nước nhập khẩu thấy rằng những biện pháp đó đạt được mức
độ bảo vệ phù hợp của nước nhập khẩu (Điều 4.1, Hiệp định SPS). Cụ thể là, công
nhận tương đương thông qua việc tham vấn song phương và trao đổi các thông tin

kỹ thuật. Cụ thể, Hiệp định SPS quy định: “Các Thành viên, khi được yêu cầu, sẽ
tiến hành tham vấn với mục tiêu đạt được thoả thuận song phương và đa phương về
công nhận tính tương đương của các biện pháp vệ sinh động-thực vật” (Điều 4.2,
Hiệp định SPS) 1.1.3.3. Mức độ bảo vệ phù hợp (Điều 5, Hiệp định SPS)
Theo Hiệp định SPS, ALOP là mức độ bảo vệ mà quốc gia Thành viên WTO
cho là phù hợp để bảo vệ đời sống hay sức khỏe con người cũng như động thực vật
trong pham vi lãnh thổ của mình.
Trước hết, các Thành viên cần phải phân biệt rõ ràng giữa mức độ bảo vệ phù
hợp được một Thành viên WTO thiết lập với các biện pháp SPS. Mức độ bảo vệ phù
hợp chỉ ra những mục tiêu bao quát, trong khi các biện pháp SPS sẽ được thiết lập
cụ thể để đạt được mục tiêu này, do đó phải xác định mức độ bảo vệ phù hợp trước
rồi mới xây dựng các biện pháp SPS.


11
Mỗi thành viên WTO đều có quyền quyết định mức độ bảo vệ phù hợp cho
riêng mình. Tuy nhiên khi đưa ra quyết định đó các Thành viên WTO phải tính đến
mục tiêu giảm thiểu mức độ tiêu cực đến thương mại. Ngoài ra, các Thành viên
WTO buộc phải áp dụng nhất quán khái niệm về mức độ bảo vệ phù hợp, đảm bảo
“không áp dụng tùy tiện và thiếu căn cứ” dẫn đến “hậu quả là sự phân biệt đối xử
hay vô hình trung hạn chế thương mại quốc tế”.
1.1.3.4. Đánh giá rủi ro (Điều 5, Hiệp định SPS)
Hiệp định SPS yêu cầu các Thành viên WTO khi xây dựng các biện pháp
SPS của mình trên cơ sở đánh giá rủi ro, phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. Trong
việc thực hiện các đánh giá rủi ro, các Thành viên WTO được yêu cầu xem xét đến
các biện pháp kỹ thuật được các tổ chức quốc tế liên quan xây dựng như đã trình
bày ở trên.
Các Thành viên WTO tiến hành việc đánh giá rủi ro là để xem xét và quyết
định các biện pháp SPS cần áp dụng cho một mặt hàng nhập khẩu với mục đích
nhằm đạt được mức độ bảo vệ phù hợp. Tuy nhiên, những biện pháp SPS mà một

nước Thành viên WTO áp dụng không được hạn chế thương mại nhiều hơn so với
yêu cầu nhằm đạt được mức độ bảo hộ phù hợp riêng và phải xem xét tính khả thi
cả về mặt kỹ thuật lẫn về mặt kinh tế (khoản 3 Điều 5 của Hiệp định SPS).
Thực chất, việc đánh giá rủi ro là quá trình thu thập các chứng cứ khoa học
hiện có và các yếu tố kinh tế liên quan về những rủi ro xảy ra với việc cho phép
nhập khẩu một mặt hàng nào đó được quy định cụ thể tại khoản 2 và khoản 3 Điều 5
của Hiệp định SPS. Nước Thành viên nhập khẩu có thể tìm kiếm thông tin về các
vấn đề như sâu hại hay dịch bệnh hại có liên quan đến hàng hóa được phép nhập
khẩu, nếu như chúng xuất hiện tại nước xuất khẩu.
Các nước Thành viên WTO có thể áp dụng tạm thời các biện pháp SPS trong
điều kiện chưa có đầy đủ chứng cứ khoa học để hoàn tất việc đánh giá rủi ro trên cơ
sở chuyên môn thông tin sẵn có bao gồm thông tin từ các tổ chức quốc tế liên quan
cũng như các biện pháp SPS mà Thành viên khác áp dụng (khoản 7 Điều 5 Hiệp
định SPS). Tuy nhiên, trong những trường hợp như vậy thì các Thành viên WTO
buộc phải tìm cách thu thập, bổ sung những thông tin cần thiết cho mục tiêu đánh
giá rủi ro trong khoảng thời gian thích hợp.


12
Ví dụ: vụ tranh chấp giữa Hoa Kỳ và EC liên quan đến việc nhập khẩu thịt
bò (DS026) (WTO, 2010)
Khiếu nại phát sinh từ ngày 26 tháng 1 năm 1996 khi Hoa Kỳ yêu cầu tham
vấn với Cộng đồng châu Âu (EC) về các biện pháp hạn chế hoặc cấm nhập khẩu thịt
và các sản phẩm từ thịt có xuất xứ từ Hoa Kỳ của EC theo Chị thị về Cấm sử dụng
một số chất có tác dụng hoóc môn trong chăn nuôi. Hoa Kỳ cho rằng các biện pháp
này không phù hợp với Điều III và XI của Hiệp định chung về Thuế quan và Mậu
dịch GATT; Điều 2, 3 và 5 của Hiệp định SPS; Điều 2 của Hiệp định TBT và Điều 4
của Hiệp định Nông nghiệp. Cơ quan Phúc thẩm kết luận rằng EC đã không tiến
hành đánh giá rủi ro theo Điều 5.1 và 5.2 của Hiệp định SPS. Ngoài ra, EC đã ủy
quyền cho một hội đồng khoa học độc lập đại diện tiến hành công tác đánh giá và

kết quả chỉ ra rằng các hoóc môn này có gây nguy hiểm cho người tiêu dùng. Kết
quả này trái ngược với một số nghiên cứu trước đó đã kết luận việc sử dụng thịt
động vật được nuôi bằng hoóc môn kích thích tăng trưởng không gây ra rủi ro sức
khỏe cho người tiêu dùng. Do đó, biện pháp mà EC áp dụng đối với thực phẩm từ
thịt xuất xứ Hoa Kỳ là thiếu một cơ sở khoa học, cũng như không tuân thủ đúng
nguyên tắc đánh giá rủi ro theo các điều khoản của Hiệp định SPS.
1.1.3.5. Điều kiện khu vực (Điều 6, Hiệp định SPS)
Các đặc điểm SPS của một vùng địa lý – là toàn bộ lãnh thổ một nước, một
vùng đất của một nước hay nhiều phần của nhiều nước - được gọi là điều kiện khu
vực trong Hiệp định SPS. Điều kiện khu vực có thể ẩn chứa các rủi ro cho đời sống
hay sức khỏe con người và động thực vật.
Do vậy, Hiệp định SPS yêu cầu các biện pháp SPS của các nước Thành viên
WTO phải được áp dụng thích ứng với các đặc tính vệ sinh động thực vật của khu
vực, nơi xuất xứ của các sản phẩm (Nước xuất khẩu) và với điều kiện khu vực nơi
các sản phẩm được chuyển đến (Nước nhập khẩu). Đặc biệt, các Thành viên WTO
phải thừa nhận khái niệm về vùng phi dịch hại hoặc bệnh hại cũng như vùng ít dịch
hại hoặc bệnh hại. Khi tiến hành xác định những khu vực không có sâu bệnh hoặc ít
sâu bệnh, các Thành viên phải dựa trên các yếu tố địa lý, hệ sinh thái, giám sát kiểm
dịch và tính đến hiệu quả của việc kiểm tra vệ sinh động thực vật.


13
Các nước Thành viên WTO xuất khẩu công bố các vùng không có dịch hại
hay ít dịch hại cần phải chứng minh cho các nước Thành viên WTO nhập khẩu biết
là những vùng đó duy trì được tình trạng của vùng không có dịch hại hay ít nhiễm
dịch hại và các Thành viên nước nhập khẩu sẽ được tiếp cận hợp lý để thanh tra, thử
nghiệm và tiến hành các thủ túc khác có liên quan.
1 1.3.6. Tính minh bạch (Điều 7, Hiệp định SPS)
Nguyên tắc về tính minh bạch trong Hiệp định SPS là yêu cầu các nước
Thành viên WTO phải cung cấp thông tin cho các Thành viên khác về các biện pháp

SPS mà nước mình đã áp dụng và thông báo những thay đổi liên quan đến các biện
pháp SPS của mình thông qua văn phòng Thông báo và Hỏi đáp Quốc gia theo quy
trình, thủ tục và thời gian quy định của phụ lục B của Hiệp định (Điều 7 của Hiệp
định SPS). Mỗi nước thành viên WTO cũng cần chỉ định một đầu mối quốc gia
cung cấp các thông tin liên quan nhằm giải đáp những thắc mắc về SPS của các
nước thành viên WTO khác. Một cơ quan có thể thực hiện cả hai chức năng là thông
báo và hỏi đáp.
1.2. Nội dung chủ yếu của Hiêp định SPS
Nội dung chủ yếu của Hiệp định SPS là đưa các quy định theo đó yêu cầu
các Thành viên phải áp dụng các biện pháp SPS theo hướng bảo vệ sức khỏe con
người, kiểm dịch động thực vật nhưng không cản trở tự do hóa thương mại quốc tế.
Các biện pháp SPS phải dựa trên bằng chứng khoa học. Trong thực tế, Hiệp định
SPS có sự liên quan đến các biện pháp mang tính rào cản kỹ thuật vốn là nội dung
của Hiệp định TBT. Vì vậy, nhiều người cho rằng giữa hai Hiệp định này có những
sự giao thoa về nội dung. Để hiểu rõ hơn về nội dung của Hiệp định SPS, phần dưới
đây sẽ phân tích sự khác nhau giữa hai Hiệp định này.
1.2.1. Sự khác nhau giữa Hiệp định SPS và Hiệp định TBT
Trong 12 Hiệp định đa biên của GATT 1994, có 2 hiệp định liên quan đến
tiêu chuẩn kỹ thuật, đó là Hiệp định TBT và Hiệp định SPS, song do tính chất của
từng Hiệp định, chúng được tồn tại độc lập và riêng rẽ.
Hiệp định TBT quy định các quy tắc về xây dựng, chấp nhận và áp dụng các
quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn và quy trình đánh giá sự phù hợp. Hiệp định quy định
nghĩa vụ của các thành viên nhằm đảm bảo rằng các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn,


14
thủ tục đánh giá sự phù hợp mà không tạo ra những cản trở không cần thiết đối với
thương mại. Bên cạnh đó, các quy định kỹ thuật phải dựa trên các tiêu chuẩn quốc
tế. Khi tiêu chuẩn quốc tế được xem là không thích hơp hay không tồn tại, các quy
định kỹ thuật được áp dụng sao cho chúng không hạn chế hơn mức độ cần thiết để

thực hiện các mục tiêu chính đáng và tính tới những rủi ro mà việc không thực hiện
được có thể đem lại (Điều 2, Hiệp định TBT).
Hiệp định SPS đưa ra các quy tắc cơ bản về tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và
sức khỏe động, thực vật. Hiệp định cho phép các quốc gia tự thiết lập tiêu chuẩn
riêng của mình (Điều 3, Hiệp định SPS). Nhưng Hiệp định cũng yêu cầu rằng các
quy định phải có căn cứ khoa học. Các quy định này nên chỉ được áp dụng ở mức
độ cần thiết để bảo vệ sức khoẻ hoặc tính mạng của con người, động vật hoặc thực
vật. Các quy định này cũng không được phân biệt đối xử một các tuỳ tiện hoặc vô lý
giữa quốc gia có điều kiện giống nhau hoặc tương tự nhau (Điều 2, Hiệp định SPS).
* Sự khác nhau giữa Hiệp định SPS và Hiệp định TBT
Các quy định kỹ thuật là những tiêu chuẩn áp dụng lâu dài vì nhiều mục đích
khác nhau. Mục đích của Hiệp định TBT nhằm: Thúc đẩy thương mại, khuyến
khích các nước thành viên tham gia xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn quốc tế, tiêu
chuẩn của các nước Thành viên hài hòa càng nhiều càng tốt với tiêu chuẩn quốc tế;
thúc đẩy nhanh quá trình chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển sang các
nước đang phát triển thông qua hoạt động tiêu chuẩn hóa. Đảm bảo các biện pháp
quản lý kỹ thuật các nước đề ra nhưng không cản trở thương mại quá mức cần thiết.
Không ngăn cản các nước Thành viên áp dụng các biện pháp cần thiết để đảm bảo
chất lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của mình để bảo vệ sức khỏe, an toàn cuộc
sống của con người, động thực vật, bảo vệ môi trường, chống gian lận thương mại,
bảo đảm an ninh quốc gia.
Tuy nhiên, mục đích của Hiệp định SPS có phạm vi hẹp hơn đó là nhằm đảm
bảo an toàn thực phẩm và ngăn ngừa sự lan truyền dịch bệnh. Các biện pháp ngăn
ngừa sự lan truyền dịch bệnh chỉ áp dụng tạm thời trong thời gian ngắn.
Do sự khác nhau về mục đích, nội dung điều chỉnh của hai hiệp định khác
nhau về 3 mặt cơ bản khác như phân tích ở Bảng 1.3 dưới đây:


15
Bảng 1.3: So sánh sự khác nhau giữa Hiệp định SPS và Hiệp định TBT

Hiệp định SPS
Nội dung

Hiệp định TBT

Hiệp định SPS quy định rằng các Hiệp định TBT công nhận rằng việc sử
biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dụng các bằng chứng khoa học tuỳ thuộc
dịch động thực vật phải đáp ứng đủ vào các mục đích mà vì đó các quy định
các yêu cầu về bằng chứng khoa được áp dụng. Các quy định được áp
học, không được phép tồn tại dụng vì mục đích bảo vệ sức khoẻ và sự
'‘không có đầy đủ các bằng chứng an toàn phải có căn cứ khoa học; căn cứ
khoa học”.

khoa học có thể không liên quan nếu
mục tiêu của quy định nhằm chống lại
các hành vi man trá hay do nguyên nhân
quốc gia.

Việcáp

Đối với Hiệp định SPS, các biện Hiệp định TBT quy định các quy định kỹ

dụng

pháp có mục đích ngăn ngừa việc thuật áp dụng cho sản phẩm phải được

nguyên tắc xâm nhập của các loại dịch và sâu áp dụng trên cơ sở MFN đối với hàng
MFN

bệnh gây ra bởi động thực vật vào hóa nhập khẩu từ tất cả các nguồn.

các nước Thành viên sẽ được phép
không áp dụng nguyên tắc MFN.
Các biện pháp SPS nhằm đảm bảo
an toàn thực phẩm phải được áp
dụng trên cơ sở MFN.

Biện pháp Hiệp định SPS cho phép các nước Hiệp định TBT không có một điều
tạm thời

áp dụng các biện pháp SPS trên cơ khoản nào cho phép các nước thành viên
sở tạm thời như một biện pháp đề áp dụng các biện pháp TBT trên cơ sở
phòng khi có lan truyền dịch bệnh tạm thời.
nhưng không có đủ bằng chứng
khoa học (Điều 5.7, Hiệp định
SPS).


16
* Ví dụ minh họa sự khác nhau giữa Hiệp định SPS và Hiệp định TBT
- Nước uống đóng chai.

Thuộc Hiệp định SPS nếu biện pháp đó liên quan đến thành phần của nước
trong chai và mục đích để đảm bảo cho sức khỏe con người.
Thuộc Hiệp định TBT nếu biện pháp đó có liên quan đến Tiêu chuẩn về kích
thước, hình dáng chai để đóng nước.
- Các quy định về nhãn hàng:
Thuộc Hiệp định SPS nếu biện pháp liên quan đến hoá chất đối với thực phẩm.

Thuộc Hiệp định TBT nếu biện pháp liên quan đến an toàn thực phẩm.
1.2.2. Cam kết của các nước thành viên về thực hiện Hiệp định SPS

1.2.2.1. Các nước đều có quyền áp dụng các biện pháp SPS nhưng phải dựa trên
căn cứ khoa học (Điều 2, hiệp định SPS)
Hiệp định SPS quy định các nước đều có quyền áp dụng các biện pháp SPS
nhưng phải dựa trên căn cứ khoa học trừ một số ngoại lệ, ví dụ như dịch bệnh khẩn
cấp. Căn cứ khoa học là các bằng chứng khoa học được thu thập thông qua các
phương pháp khoa học và thực nghiệm thực tế. Để xem xét một biện pháp SPS có
2

dựa trên căn cứ khoa học hay không người ta sẽ tiến hành phân tích rủi ro và kiểm
3

soát rủi ro (Ban Pháp chế - Phòng Thương mại và Công Nghiệp Việt Nam, 2013,
tr.10). Nếu một biện pháp SPS có một lý thuyết khoa học đáng tin cậy thì xem như
có căn cứ khoa học. Tuy nhiên, nếu biện pháp đó được áp dụng để bảo vệ sức khoẻ,
cuộc sống của con người, động thực vật khỏi các nguy cơ, mối nguy hiểm càng cao
thì càng có nhiều khả năng được thừa nhận là có đủ bằng chứng khoa học cho dù
giả thiết khoa học thực tế không chắc chắn đúng.
Trên thực tế có những trường hợp khẩn cấp về vệ sinh dịch tễ mà một nước
không thể chờ cho đến khi có những căn cứ khoa học đầy đủ hay các kết quả phân tích
rủi ro rõ ràng để có thể tiến hành các biện pháp ngăn chặn cần thiết, bởi nếu chậm có
thể sẽ là quá muộn. Ví dụ để ngăn chặn bệnh dịch SARS hay cúm H5N1, người ta
2

Nghĩa là người ta sẽ dùng phương pháp khoa học để xác định sự tồn tại rủi ro cho người, động thực vật của
hàng hoá và khả năng xảy ra rủi ro.

3

Nghĩa là người ta sẽ lựa chọn chính sách bảo vệ con người, động thực vật khỏi rủi ro và biện pháp SPS tương
ứng trên cơ sở kết quả phân tích rủi ro và hoàn cảnh xã hội cụ thể, ví dụ thói quen hay khả năng tự bảo vệ của

người tiêu dùng.


17
có thể tiến hành các biện pháp ngăn chặn tại biên giới ngay từ lúc chưa xác định
được đầy đủ và chính xác các thể của các virus liên quan, cách thức lây nhiễm cũng
như hệ quả trực tiếp đến sức khoẻ v.v… (Ban Pháp chế - Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam, 2013, tr.11). Hiệp định SPS thừa nhận các trường hợp này
và cho phép các nước Thành viên được phòng tránh sớm bằng những biện pháp SPS
tạm thời (xem Bảng 1.4), không phải đáp ứng các điều kiện về căn cứ khoa học như
bình thường (Điều 5.7, Hiệp định SPS).
Bảng 1.4: Yêu cầu đối với một biện pháp SPS tạm thời
Một biện pháp SPS tạm thời phải đáp ứng những yêu cầu:
1. Được áp dụng trong các trường hợp mà “các thông tin khoa học liên quan

chưa đầy đủ”;
2. Phải được xây dựng “trên cơ sở các thông tin đáng tin cậy sẵn có”;
3. Nước áp dụng phải nỗ lực “tìm kiếm các thông tin bổ sung cần thiết

để có đánh giá rủi ro khách quan hơn”; và
4. Phải được xem xét lại “sau một khoảng thời gian hợp lý”

(Ban Pháp chế - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, 2013, tr.11)
Các biện pháp SPS không được phân biệt đối xử khác nhau hoặc không công
bằng giữa các Thành viên có cùng điều kiện. Các biện pháp SPS không được áp
dụng theo cách thức có thể tạo ra sự cạnh tranh hạn chế trá hình đối với thương mại
quốc tế (Điều 2.3 của Hiệp định SPS).
1.2.2.2. Hài hoà hoá tiêu chuẩn quốc tế và công nhận tính tương đương của các
biện pháp SPS của các nước khác (Điều 3 & 4, hiệp định SPS)
Hiệp định SPS khuyến khích các Thành viên đưa ra các biện pháp SPS căn

cứ vào các tiêu chuẩn, hướng dẫn hoặc khuyến nghị quốc tế đã có. Nếu một nước
Thành viên muốn đề ra tiêu chuẩn cao hơn tiêu chuẩn quốc tế, nước đó phải đưa ra
được các luận chứng khoa học thuyết phục hoặc có thể đề ra các tiêu chuẩn cao dựa
trên đánh giá phù hợp các rủi ro trong trường hợp có phương thức tiếp cận nhất
quán, không tùy tiện. Tiêu chuẩn thấp hơn hoặc không có tiêu chuẩn trên thị trường
nội địa được coi là không mâu thuẫn với quy định của WTO.
Hiệp định SPS còn khuyến khích các Thành viên tích cực tham gia vào các tổ
chức quốc tế có liên quan như Ủy ban Codex, Văn phòng kiểm dịch động vật quốc tế


18
(OIE) và các tổ chức quốc tế hoạt động trong khuôn khổ Công ước quốc tế bảo vệ
thực vật (IPPC) nhằm thúc đẩy việc xây dựng và rà soát định kỳ các tiêu chuẩn,
hướng dẫn và khuyên nghị về mọi khía cạnh của các biện pháp SPS.
Ở Việt Nam, đối với các vấn đề không thuộc phạm vi của các tổ chức nêu trên thì Ủy

ban SPS sẽ chịu trách nhiệm xác định các tổ chức quốc tế khác mà Việt Nam gia
nhập để công bố các tiêu chuẩn, hướng dẫn và khuyến nghị phù hợp.
1.2.2.3. Đánh giá rủi ro và xác định mức độ bảo vệ động thực vật phù hợp (Điều 5,
Hiệp định SPS)
Hiệp định quy định các biện pháp SPS phải dựa trên việc đánh giá các rủi ro
đối với cuộc sống hoặc sức khoẻ con người, động vật, hoặc thực vật, có tính đến các
kỹ thuật đánh giá rủi ro do các tổ chức quốc tế liên quan xây dựng nên.
Trong trường hợp chứng cứ khoa học liên quan chưa đủ, Hiệp định quy định
Thành viên có thể tạm thời áp dụng các biện pháp SPS trên cơ sở thông tin chuyên
môn sẵn có, kể cả thông tin từ các tổ chức quốc tế liên quan cũng như từ các biện
pháp SPS do các Thành viên khác áp dụng. Trong trường hợp đó, các Thành viên sẽ
phải thu thập thông tin bổ sung cần thiết để có sự đánh giá rủi ro khách quan hơn và
rà soát các biện pháp SPS một cách tương ứng trong khoảng thời gian hợp lý (Phạm
Thị Hồng Yến, 2011, tr.34).

Theo quy định tại Điều 5.2 và Điều 5.3 của Hiệp định SPS, khi đánh giá
những rủi ro cần xem xét những yếu tố kỹ thuật sau:
- Các bằng chứng khoa học sẵn có
-

Các phương pháp sản xuất, chế biến, bảo quản và quản lý liên quan sử dụng tại
nước xuất khẩu, từ đó xác định nguồn gốc các mối nguy cơ gây dịch bệnh cho
động vật và thực vật (tham khảo Phụ lục 1 ở phần cuối khóa luận)
- Các phương pháp thanh tra, lấy mẫu và thử nghiệm liên quan tại nước xuất

khẩu
-

Mức độ phổ biến của một số bệnh hay loài sâu nhất định và sự tồn tại các khu vực
không có sâu hay không có bệnh
- Các điều kiện sinh thái và môi trường liên quan (của cả nước xuất khẩu và

nước nhập khẩu áp dụng biện pháp SPS)


19
-

Các biện pháp kiểm dịch hoặc xử lý khác tại nước nhập khẩu áp dụng biện pháp
SPS
Trong trường hợp các biện pháp SPS nhằm để bảo vệ tính mạng và sức khoẻ
của động, thực vật, ngoài các yếu tố trên, việc đánh giá rủi ro còn phải dựa trên các
yếu tố kinh tế sau đây:

-


Khả năng thiệt hại tiềm tàng do giảm sản lượng hoặc doanh số trong sản xuất hay
tiêu thụ khi có sự xâm nhập, lan truyền của sâu bệnh

-

Các chi phí phát sinh trong việc kiểm soát và tiêu diệt sâu bọ hay bệnh tật trên lãnh
thổ của Thành viên nhập khẩu
- Tính hiệu quả về chi phí của các phương pháp hạn chế rủi ro.

Khi áp dụng các biện pháp SPS, các nước cần lưu ý phải đảm bảo các biện
pháp này không gây cản trở đối với thương mại hơn mức cần thiết để đạt được một
sự bảo vệ hợp lý (xét cả các yếu tố kinh tế và các yếu tố kỹ thuật).
1.2.2.4. Thích ứng với các điều kiện khu vực, kể cả các khu vực không có sâu bệnh
hoặc ít sâu bệnh (Điều 6, Hiệp định SPS)
Hiệp định quy định các Thành viên cần đảm bảo các biện pháp SPS thích
ứng được với các đặc tính kiểm dịch động thực vật của khu vực sản xuất ra sản
phẩm và khu vực sản phẩm được đưa đến. Đặc biệt, các đặc tính SPS đó có tính đến
mức độ phổ biển của loại sâu bệnh, các chương trình diệt trừ, kiểm soát sâu bệnh và
các tiêu chí do các tổ chức quốc tế xây dựng nên.
Khi các Thành viên xuất khẩu tuyên bố các khu vực trong lãnh thổ của mình
là khu vực không có sâu-bệnh hoặc khu vực ít sâu-bệnh cần phải cung cấp bằng
chứng cần thiết để chứng minh với Thành viên nhập khẩu rằng các khu vực này là,
hoặc sẽ duy trì, khu vực không có sâu bệnh hoặc khu vực ít sâu bệnh. Thành viên
nhập khẩu sẽ được tiếp cận để thanh tra, thử nghiệm và tiến hành các thủ tục liên
quan (Điều 6.3 của Hiệp định SPS). Vì vậy, khi tiến hành xem xét các sản phẩm
nhập khẩu cần phải tính đến khả năng nước xuất khẩu hoặc các khu vực của nước
xuất khẩu không có sâu bệnh hoặc ít sâu bệnh.
1.2.2.5. Đảm bảo việc thông tin đầy đủ, kịp thời về những thay đổi trong chính sách
SPS (Điều 7, Hiệp định SPS)



20
Hiệp định yêu cầu các Thành viên phải đảm bảo tất cả các thông tin và các
quy định thay đổi trong biện pháp SPS đã ban hành đều được công bố ngay để các
Thành viên quan tâm có thể biết về các quy định đó (Điều 7, Hiệp định SPS). Ngoài
ra, trừ những trường hợp khẩn cấp, các Thành viên ban hành biện pháp SPS sẽ cho
phép một khoảng thời gian hợp lý giữa việc công bố một quy định SPS và thời điểm
quy định đó có hiệu lực để các nước Thành viên khác nhận xét, đánh giá và làm
quen với quy định SPS mới hoặc đã được sửa đổi. Từ đó, các Thành viên là nước
đang phát triển có thể điều chỉnh sản phẩm và phương pháp sản xuất của nước mình
phù hợp với yêu cầu của nước Thành viên nhập khẩu khác.
Hiệp định quy định mỗi Thành viên có một điểm hỏi-đáp chịu trách nhiệm
trả lời mọi câu hỏi hợp lý cũng như cung cấp tài liệu liên quan đến các quy định
SPS được ban hành trong lãnh thổ Thành viên đó; các thủ tục kiểm tra và thanh tra
với các thủ tục đánh giá rủi ro đang có hiệu lực trong lãnh thổ Thành viên đó.
Dựa vào việc quy định sự minh bạch chính sách theo Điều 7 Hiệp định SPS,
các Thành viên có thể theo dõi sự tuân thủ Hiệp định SPS của các Thành viên khác
từ đó nêu lên sự lo ngại ngay tại những bước đầu để thay đổi các biện pháp SPS cho
phù hợp. Sự minh bạch chính sách cũng rất quan trọng đối với các doanh nghiệp
xuất khẩu, tạo ra môi trường thương mại có thể dự đoán được.
1.2.2.6. Quy định về kiểm tra, thanh tra và thủ tục chấp thuận (Điều 8, Hiệp định SPS)
Các Thành viên WTO có trách nhiệm phải thực hiện các quy định về kiểm tra,

thanh tra và thủ tục chấp thuận được quy định tại các điều khoản của Phụ lục C của
Hiệp định SPS (tham khảo Phụ lục 2 ở phần cuối khóa luận). Hiệp định quy định
các thủ tục kiểm tra theo các biện pháp SPS phải đảm bảo nhanh chóng, không phân
biệt giữa hàng nhập khẩu và hàng nội địa về mặt thời gian kiểm tra, thủ tục thực
hiện, phương thức thực hiện.
Khi gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết tuân thủ quy định theo các điều khoản

của Hiệp định SPS (tham khảo Phụ lục 3 ở phần cuối khóa luận) trong đó có cả quy
định về kiểm tra, thanh tra và thủ tục chấp nhận. Đó là: “Khi sử dụng bất cứ thủ tục nào
để kiểm tra và thực thi kiểm dịch động thực vật phải đảm bảo các thủ tục đó được thực
hiện nhanh chóng và thuận lợi không kém hơn đối với sản phẩm trong nước, mọi hồ sơ
và yêu cầu phải được xử lý chính xác và kịp thời, trong trường hợp


×