Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

phát triển mô hình kinh tế chia sẻ ở việt nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4 0 và kiến nghị giải pháp quản lý nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.51 KB, 28 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế chia sẻ (KTCS) là một mô hình kinh tế mới phát triển trong bối cảnh của
cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông
tin, việc cung cấp sản phẩm dịch vụ tới tay người tiêu dùng đã vượt qua giới hạn
về cả khoảng cách thời gian cũng như không gian địa lý, đồng thời nó ngày càng
đáp ứng tốt yêu cầu của khách hàng cũng như tối thiểu hóa chi phí trong quá trình
vận hành. Tuy nhiên, việc vận dụng hiệu quả mô hình kinh tế mới này không thật
sự đơn giản mà còn gây ra nhiều tranh cãi ở nhiều quốc gia trên thế giới trong đó
có Việt Nam.
Thuật ngữ kinh tế chia sẻ hiện nay đang là một trong những chủ đề thu hút được
nhiều sự quan tâm của các bên. Theo điều tra của một dự án nghiên cứu do
PricewaterhouseCoopers thực hiện, số liệu đã thể hiện chỉ với 5 lĩnh vực chính bao
gồm: du lịch, vận tải, tài chính, nhân lực, dịch vụ video trực tuyến và ca nhạc ứng
dụng mô hình kinh tế chia sẻ trong kinh doanh có tiềm năng làm tăng doanh thu
toàn cầu từ 15 tỷ đô-la trong năm 2014 lên tới khoảng 335 tỷ đô-la trong năm
2025. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, mô hình kinh tế chia sẻ tại Việt Nam mới
chỉ hiện cụ thể ở một vài lĩnh vực, chưa thực sự phát triển mạnh. Bên cạnh đó, hạ
tầng chính sách cho mô hình này còn chưa hoàn thiện cả ở góc độ chung cho đến
từng lĩnh vực cụ thể, đặt ra nhiều thách thức phát triển đối với loại hình này tại Việt
Nam. Vì vậy, nhóm chúng em quyết định chọn đề tài : “Phát Triển Mô Hình Kinh
Tế Chia Sẻ Ở Việt Nam Trong Bối Cảnh Cách Mạng Công Nghiệp 4.0 Và Kiến
Nghị Giải Pháp Quản Lý Nhà Nước” để nêu lên thực trạng tình hình kinh tế chia
sẻ tại Việt Nam những năm gần đây, từ đó đưa ra các kiến nghị giải pháp cho quản
lý nhà nước trong thời gian tới để phát triển mô hình này trong bối cảnh cách mạng
công nghiệp 4.0.
Nội dung bài tiểu luận sẽ tập trung làm rõ một số nội dung chính sau:
(1) Thực trạng về mô hình kinh tế chia sẻ ở Việt Nam;
(2) Thành tựu và hạn chế của mô hình kinh tế chia sẻ;
(3) Kiến nghị giải pháp quản lý nhà nước trong thời gian tới

1




NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

1.1.1.
Khái niệm Cách mạng Công nghiệp 4.0
Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên trên thế giới diễn ra vào thế kỷ 18, khi
những người công nhân sử dụng hơi nước và máy móc trong sản xuất để thay cho
sức người. Sau đó là điện ra đời, được sử dụng trong dây chuyên sản xuất và các
mô hình sản xuất quy mô lớn, là khởi nguồn của cuộc cách mạng thứ 2. Vào những
năm 1970 là khi máy tính ra đời, điều này tạo ra một loạt sự thay đổi trong cách
con người xử lý thông tin, tự động hoá bằng robot, đây chính là cuộc cách mạng
thứ 3.
Hiện tại, chúng ta đang tham gia vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, hay
còn gọi là Cách mạng Công nghiệp 4.0 (Industry 4.0). Cuộc cách mạng này tạo ra
môi trường mà máy tính, tự động hoá và con người sẽ làm việc cùng nhau theo
những cách thức hoàn toàn mới. Tại đây, robot và các loại máy móc sẽ được kết
nối vào những hệ thống máy tính, những hệ thống này sẽ sử dụng các thuật toán để
điều khiển mà không cần sự can thiệp của con người.
1.1.2.
Cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 sẽ diễn ra như thế nào?
CMCN 4.0 sẽ diễn ra trên 3 lĩnh vực chính gồm Công nghệ sinh học, Kỹ thuật số
và Vật lý. Trong đó, những yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số sẽ là: Trí tuệ nhân tạo
(AI), Vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data).

Trong lĩnh vực công nghệ sinh học, CMCN 4.0 tập trung nghiên cứu để tạo ra
những đột phá trong nông nghiệp, thuỷ sản, y dược, chế biến thực phẩm, bảo vệ
môi trường, năng lượng hoá tái tạo, hoá học và vật liệu, cùng lĩnh vực vật lý với
robot thế hệ mới, máy in 3D, xe tự lái, các vật liệu mới và công nghệ nano.
Hiện tại, CMCN 4.0 đang diễn ra tại các nước phát triển như Mỹ, châu Âu, một
phần châu Á. Bên cạnh những cơ hội mới, trong quá trình thực hiện CMCN 4.0,
các quốc gia cũng phải đối mặt với không ít những rào cản.

2


1.1.3.
Cơ hội và thách thức khi thực hiện CMCN 4.0
Áp dụng những đổi mới về công nghệ sẽ giúp quá trình sản xuất nhanh hơn, tốn ít
sức người và dữ liệu được thu thập đầy đủ hơn. Chất lượng sản phẩm được đảm
bảo do kiểm soát được từ khâu nguyên vật liệu cho đến khi thành hình và chuyển
đến tay người tiêu dùng. Hơn nữa, con người sẽ không phải trực tiếp làm việc ở
những môi trường làm việc nguy hiểm, giảm tỷ lệ tử vong, bệnh tật trong quá trình
lao động.
Tuy nhiên, nhiều lao động sẽ mất việc làm do bị máy móc thay thế. Các doanh
nghiệp cũng gặp khó khăn trong việc tuyển dụng nguồn nhân lực đáp ứng được
yêu cầu của công việc. Điều này có thể dẫn tới sự bất bình đẳng, thậm chí là phá
vỡ thị trường lao động. Ngoài ra, CMCN 4.0 đòi hỏi các doanh nghiệp phải thay
đổi. Muốn tồn tại và phát triển, họ phải đầu tư và nâng cấp công nghệ, cùng lúc
nâng cao chất lượng nhân sự.
Những bất ổn về kinh tế sẽ dẫn đến những bất ổn về đời sống, thậm chí là chính trị.
Công nghệ mới sẽ gây ra sự thay đổi về quyền lực, mối lo ngại về an ninh, làm
tăng khoảng cách giàu nghèo.
Bên cạnh đó, những thay đổi về cách thức giao tiếp trên Internet cũng đặt ra thách
thức về bảo mật thông tin cho cả các hệ thống và cá nhân con người. Chúng ta phải

làm gì để bảo mật khi dữ liệu có ở khắp mọi nơi và được trao đổi thường xuyên
giữa các hệ thống.
Nói tóm lại, CMCN 4.0 sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến nền kinh tế của một quốc gia,
mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội nhưng cũng vô vàn thách thức và khó khăn.

3


1.2.

Kinh tế chia sẻ

1.2.1.
Khái niệm nền Kinh tế chia sẻ
Trên thực tế có rất nhiều định nghĩa khác nhau về kinh tế chia sẻ, hay nói một cách
khác là không có một định nghĩa chung cho tất cả mọi trường hợp hay mọi quốc
gia. Mức độ rộng hẹp của các định nghĩa cũng khác nhau, cũng như các định nghĩa
có thể xuất phát từ các góc nhìn khác nhau. Kinh tế chia sẻ (sharing economy) còn
được gọi theo nhiều tên khác nhau như kinh tế cộng tác (collaborative economy),
kinh tế theo cầu (on-demand economy), kinh tế nền tảng (platform economy), kinh
tế truy cập (access economy), kinh tế dựa trên các ứng dụng di động (app
economy), v.v… (Cristiano Codagnone and Bertin Martens, 2016). Ranh giới giữa
các khái niệm có sự đồng nhất ở một số khía cạnh, tuy nhiên nhìn chung, tất cả các
tên gọi khác của mô hình kinh tế chia sẻ đều có bản chất là một mô hình kinh
doanh mới của kinh doanh ngang hàng, tận dụng lợi thế của phát triển công nghệ
số giúp tiết kiệm chi phí giao dịch và tiếp cận một số lượng lớn khách hàng thông
qua các nền tảng số.
Đây là hệ thống kinh tế đề cao chia sẻ và hợp tác hơn tư hữu. Con người thay vì sở
hữu để thỏa mãn nhu cầu của mình thì sẽ tìm những nguồn lực trong cộng đồng.
4



Nền kinh tế chia sẻ đang phát triển vì nó tái phân phối tài nguyên đang không được
sử dụng hiệu quả (sản phẩm mua rồi nhưng không dùng, máy móc không được
khai thác tối đa thời gian sử dụng) sang chỗ mà nó được dùng hiệu quả hơn. Trong
xã hội mà ô tô chỉ được dùng trung bình 1 tiếng 1 ngày (dưới 5% thời gian), 99%
đồ gia dụng không được sử dụng lại trong 6 tháng… thì việc tái phân phối này là
cần thiết để tiết kiệm tiền của người dùng và tài nguyên của xã hội.
1.2.2.
Lịch sử ra đời của nền kinh tế chia sẻ
Nền kinh tế chia sẻ được bắt đầu manh nha khái niệm năm 1995, khởi điểm tại Mỹ
với mô hình ban đầu có tính chất “chia sẻ ngang hàng” nhưng không rõ rệt. Nó
khởi đầu bằng dịch vụ website thông tin cho thuê quảng cáo, người tìm việc, việc
tìm người… và giúp cho những cá nhân có thể kiếm được việc làm, kiếm được tiền
quảng cáo.
Mô hình kinh doanh này thực sự phát triển mạnh mẽ khi nền kinh tế Mỹ rơi vào
khủng hoảng năm 2008, người dân buộc phải thay đổi cách tiêu dùng để thích ứng
với bối cảnh khó khăn.
Việc “chia sẻ” những tài nguyên sẵn có bằng các ứng dụng công nghệ cùng những
khoản lợi nhuận khổng lồ đem lại cho nhà cung ứng dịch vụ lẫn người cho thuê và
sử dụng tài nguyên, đã khiến mô hình kinh doanh này nhanh chóng phát triển vượt
ra khỏi biên giới Mỹ, lan rộng khắp châu Âu và toàn thế giới.
Trên thực tế, mô hình chia sẻ đã có từ rất lâu: thư viện, thuê xe, CLB, phòng luyện
tập, xe ôm, chia sẻ trong làng xã, thị trấn. Tuy nhiên từ giữa thế kỉ 20, việc chia sẻ
trở nên đắt đỏ và rắc rối hơn việc sở hữu, do sự bùng nổ của sản xuất hàng loạt
(cách mạng công nghiệp). Từ đó xuất hiện chủ nghĩa tiêu dùng: xây dựng trên ý
tưởng tin rằng việc tiêu dùng sẽ giúp người dân thấy hạnh phúc, việc tiêu dùng
giúp nền kinh tế phát triển mạnh hơn. Giờ thì xu hướng lại đảo ngược trở lại do
việc chia sẻ dần trở nên rẻ hơn.
Nền kinh tế chia sẻ thuộc một xu hướng lớn hơn bắt đầu từ thời Internet: xu hướng

đảo ngược chủ nghĩa tiêu dùng. Khi Internet được lan rộng, các trang như eBay và
Craigslist giúp kết nối những người có và những người cần một cách hiệu quả hơn.
Chia sẻ và tái phân phối tài nguyên bắt đầu rẻ đi so với mua đồ mới và vứt đồ cũ
đi. Mọi người không chỉ là người mua mà còn có thể bán thông qua thương mại
5


ngang hàng. Việc này giúp những thứ được lãng phí do không dùng đến được tận
dụng thông qua nền tảng công nghệ. Thông qua nền tảng này con người bắt đầu
thay đổi quan hệ với những thứ mình tư hữu, họ nhận ra những thứ có thể được
truy cập mà không cần sở hữu, thứ đắt đỏ trong việc duy trì, thứ không thực sự cần
thiết, thứ không được dùng thường xuyên… đều nên thuê chứ không nên mua.
Điều này thay đổi tâm lý “tư hữu”.

Những công ty Product Service bắt đầu phát triển mô hình tính phí theo sử dụng,
thay vì theo sở hữu (ZipCar) từ 10 năm về trước. Bây giờ có hàng trăm công ty
chia sẻ tài sản: Airbnb, RelayRides, DogVacay, LiquidSpace… Các công ty này sử
dụng công nghệ điện thoại, GPS, 3G, thanh toán Online khiến cho mô hình nền
kinh tế chia sẻ hoạt động với hiệu suất cao, tiết kiệm chi phí, tăng lợi ích cho người
cung ứng, người có nhu cầu và người trung gian. Đồng thời việc tiết kiệm vốn của
công ty (không phải mua ô tô, xây khách sạn) mà sử dụng vốn cộng đồng (xe ô tô
của người tham gia, nhà ở của người tham gia) giúp các công ty có thể lan nhanh ra
toàn thế giới.
Tóm lại: nền kinh tế chia sẻ là một biểu hiện của việc áp dụng công nghệ nhằm
giảm sự lãng phí trong tiêu dùng, hướng tới cộng đồng, thành phố thông minh – tài
nguyên được dùng một cách hiệu quả.
6


1.2.3.

Các loại hình kinh tế chia sẻ
Theo phương pháp phân loại dựa theo hình thức người sở hữu tài sản và người
quyết định giá của Judith Wallenstein và Urvesh Shelat, mô hình kinh tế chia sẻ
được chia ra làm ba loại chính: Mô hình nền tảng tập trung (đơn vị cung cấp nền
tảng vừa sở hữu tài sản, vừa quyết định giá thành dịch vụ), mô hình nền tảng phi
tập trung (đơn vị cung cấp nền tảng chỉ tạo ra môi trường kết nối, người cung cấp
dịch vụ là người sở hữu tài sản và cũng là người quyết định giá thành dịch vụ), mô
hình nền tảng hỗn hợp (chủ tài sản cung cấp dịch vụ với giá do nền tảng đưa ra và
nền tảng cũng đóng một phần vai trò trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm
được cung ứng ra ngoài thị trường) (Judith Wallenstein & Urvesh Shelat, 2017).

1.3.

Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế

Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tác dộng có tổ chức, bằng pháp quyền và thông
qua một hệ thống một hệ thống các chính sách với các công cụ quản lý kinh tế lên
nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tê đất nước đã đặt ra trên cơ sở
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước trong điều kiện mở
của và hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhà nước sử dụng hệ thống các công cụ cần thiết để thực hiện chức năng quản lý
của mình như công cụ định hướng : kế hoạch, quy hoạch, chiến lược phát triển
kinh tế,…; công cụ kinh tế, tài chính tiền tệ: chính sách đầu tư, thuế khóa, chi tiêu
ngân sách, hệ thống ngân hàng, lãi suất, điều kiện tín dụng,…; công cụ pháp lý: hệ
thống pháp luật, các văn bản pháp quy,…; công cụ tổ chức, giáo dục…
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ CHIA SẺ Ở VIỆT
NAM

2.1. Các loại hình kinh tế chia sẻ chính ở Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước đầu tiên trong ASEAN cho phép thí điểm mô

hình kinh doanh ứng dụng dịch công nghệ kết nối vận tải (ví dụ như Uber, Grab)
bắt đầu từ năm 2014. Tuy nhiên sau 4 năm hoạt động, đến tháng 4/2018, Uber đã
rút khỏi thị trường Đông Nam Á và đổi lấy 27,5% cổ phần của Grab. Ngay sau khi
Uber rút khỏi thị trường, Việt Nam đã chứng kiến một sự phát triển mạnh mẽ, thể
hiện mô hình kinh tế chia sẻ là một mảng thị trường tiềm năng, đến tháng 5/2018,
ứng dụng VATO xuất hiện trên thị trường hay là nhiều các hãng taxi công nghệ
7


khác như Gonow của Viettel hay là ứng dụng mới phát minh hiện nay T.Net của
FPT và ngoài ra còn tạo động lực mạnh mẽ cho các doanh nghiệp truyền thống
thay đổi phương thức hoạt động kinh doanh từ thủ công sang ứng dụng công nghệ.

Hình 1: Grab là thương hiệu dịch vụ taxi mới được biến đến rộng rãi nhất ở Việt
Nam

8


Hình 2: Grabtaxi là phương tiện được sử dụng nhiều nhất trong các loại phương
tiện di chuyển.
Airbnb là một mô hình kết nối người cần thuê nhà với những gia đình có phòng
trống cần cho thuê thông qua ứng dụng di động tương tự như Uber, Grab. Đây là
loại hình dịch vụ tương đối mới, hoạt động theo mô hình nền tảng phi tập trung, tất
cả việc thanh toán chỉ sử dụng thẻ tín dụng và thông qua Airbnb. Từ đây nhà trung
gian này sẽ thu một khoản phí đối với cả người cần đặt phòng và chủ nhà. Khoản
phí đối với chủ nhà ở mức 3% tổng giá trị đặt phòng, phí thu khách đặt phòng ở
mức 6 - 12% và mức phí này sẽ hiển thị luôn trong quá trình khách sử dụng dịch
vụ. Mức phí này vẫn đảm bảo người trả thấp hơn đặt phòng khách sạn qua các
kênh truyền thống.

Ngoài ra còn nhiều dịch vụ cung cấp nền tảng (platform) được ứng dụng rộng rãi,
cụ thể là Triip.me sử dụng mô hình kinh doanh như Airbnb, trong đó sử dụng
nguồn lực của cộng đồng để thiết kế nên các tour du lịch trên toàn thế giới; thay
đổi phong cách hướng dẫn du lịch, phân tích giúp đỡ khách du lịch tìm hiểu sâu
hơn về địa điểm và con người nơi họ muốn đến, đồng thời giúp họ kết nối với
9


người dân địa phương trên toàn thế giới, hay là các dịch vụ ăn uống (foody), lao
động, hàng hóa tiêu dùng;

Dịch vụ tài chính ứng dụng công nghệ (peer-to-peer lending) điển hình như cung
cấp nền tảng kết nối giữa bên cho vay và người đi vay như lendbiz.vn, tima.vn…;
Đón nhận xu hướng cung ứng dịch vụ trên thị trường, ngày 05/6/2018, Công ty Cổ
phần Đổi mới Công nghệ Tài chính Fiin đã chính thức ra mắt dịch vụ cho vay
ngang hàng tại Hà Nội. Đây là doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong
lĩnh vực P2P Lending sử dụng nền tảng công nghệ tiên tiến tại Việt Nam.

Sự phát triển mỗi ngày của công nghệ kéo theo sự sáng tạo trong mở rộng quy mô
loại hình dịch vụ như tại Grab, dịch vụ vận tải không còn chỉ giữa người với người
nữa mà mở rộng hơn sang dịch vụ vận chuyển hàng hóa, vận chuyển thức ăn đáp
ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội. Hay là sự kết nối người dùng với các nhà cung
cấp dịch vụ khác của Rada với nhiều lĩnh vực cụ thể về sửa chữa thiết bị gia đình,
xây dựng điện nước, sân bay, vận chuyển đường dài, sửa chữa thiết bị ô tô, xe
máy… Sau một năm từ tháng 4/2016 đến 4/2017, hơn 20.000 giao dịch thành với
56.000 khách hàng, hơn 1.000 nhà cung cấp và 3.500 thợ/đơn vị cung cấp và Rada
bắt đầu thu tiền từ các giao dịch thành công; hay các ứng dụng giúp việc theo giờ,
dọn dẹp vệ sinh nhà cửa của Okiaf,…
Một khảo sát mới công bố của công ty Nielsen cho thấy kinh tế chia sẻ có tiềm
năng lớn để phát triển tại Việt Nam. Theo khảo sát, cứ bốn người Việt được hỏi

thì có 3 người cho biết thích ý tưởng kinh doanh về mô hình này (chiếm 75%).
Mức độ sẵn sàng về ứng dụng thương mại điện tử (TMĐT) của doanh nghiệp và
người dân cũng như quy mô thị trường TMĐT ở mức trung bình khá của khu vực.
Bên cạnh đó, báo cáo TMĐT Việt Nam năm 2016 cho hay, giá trị mua hàng trực
tuyến của một người trong năm ước tính đạt khoảng 170 USD. Doanh số thu từ
TMĐT B2C (doanh nghiệp đến khách hàng) đạt trên 5 tỷ USD, chiếm 3% tổng
mức bán lẻ hàng hóa cả nước, ước tính tăng 20% so với năm 2015.
Bà Lại Việt Anh - Phó Cục trưởng - Cục thương mại điện tử và Công nghệ thông
tin - cũng cho hay, mô hình kinh tế chia sẻ hiện đã xuất hiện tại Việt Nam với các
tên tuổi từ nước ngoài như Uber, Grab, Airbnb cũng như nhiều start-up trong nước
như Ahamove, jupviec.vn, Cơm mẹ nấu... Phó Cục trưởng - Cục thương mại điện
10


tử và Công nghệ thông tin nhận định "Kinh tế chia sẻ" đang và sẽ mang lại nhiều
hiệu quả tiềm năng tại Việt Nam như mang đến trải nghiệm mới đồng thời đóng
góp vào tăng trưởng kinh tế; tận dụng tài nguyên nhàn rỗi một cách hiệu quả; đẩy
mạnh kinh tế vùng địa phương. Đồng thời "Kinh tế chia sẻ" giúp đẩy mạnh ứng
dụng khoa học công nghệ tiên tiến, hướng tới xây dựng đất nước theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hòa nhập với xu hướng phát triển CMCN 4.0 của thế
giới.
Dù vậy, theo bà Lại Việt Anh, "kinh tế chia sẻ" cũng đặt ra nhiều thách thức đối với
các nhà quản lý chính sách tại Việt Nam, bao gồm môi trường kinh doanh thuận
lợi, đảm bảo hài hòa lợi ích đối với các mô hình kinh doanh dịch vụ truyền thống;
kiểm soát việc minh bạch về thông tin; quản lý giao dịch điện tử, thanh toán quốc
tế về thương mại bằng thẻ; quản lý chất lượng dịch vụ, sản phẩm; chống thất thoát
thuế và một số vấn đề xã hội khác nảy sinh như lao động, việc làm và an sinh xã
hội.

2.1.


Tác động của nền kinh tế chia sẻ ở Việt Nam

2.2.1 Tác động đến người tiêu dùng
* Tác động tích cực
Tại Việt Nam, trong vài năm trở lại đây, mô hình kinh tế chia sẻ bắt đầu được đề
cập nhiều hơn. Đối với các quốc gia như Việt Nam, kinh tế chia sẻ đang và sẽ
mang lại nhiều hiệu quả tiềm năng như:
Với ngành hàng không, người tiêu dùng được hưởng lợi từ các đợt khuyến mãi liên
tiếp với mức giá vé 0 đồng hoặc mức giá rẻ hơn rất nhiều so với giá công bố. Thực
tế đây không hoàn toàn là các chiêu khuyến mại của các hãng hàng không mà đó là
cách tận dụng số chỗ không bán hết trên chuyến bay để bán với giá rẻ, tài sản nhàn
rỗi được dùng để khuyến mại. Như vậy trên cùng một chuyến bay, cùng hưởng
chung
một dịch vụ nhưng có khách hàng vẫn trả chi phí bình thường và có khách hàng chỉ
phải trả chi phí rẻ hơn rất nhiều.

11


Hình 3: Giá cả là lí do quan tâm chủ yếu cho việc sử dụng dịch vụ kinh tế chia sẻ
Trong ngành khách sạn, tài sản nhàn rỗi cũng đang là một vấn đề với các chủ đầu
tư. Với công suất khai thác trung bình các khách sạn khoảng từ 50- 65% thì vẫn
còn từ 35- 50% công suất phòng nhàn rỗi, đó là còn chưa kể tới việc để đạt được
công suất khai thác trên 50% là điều không dễ dàng với các chủ đầu tư. Vì thế,
ngành công nghiệp timeshare đã ra đời, mang lại cơ hội cho cả chủ đầu tư khách
sạn và du khách.
Ngoài ra., mô hình kinh tế chia sẻ còn mang đến trải nghiệm mới cho người tiêu
dùng về các sản phẩm dịch vụ mới, tận dụng tài nguyên nhàn rỗi một cách hiệu
quả. Tạo điều kiện cho người trong cộng đồng giao dịch với nhau. Các giao dịch

thành công giúp tạo ra quan hệ giữa người với người, tạo nên sự tin tưởng vào dịch
vụ do người không chuyên cung cấp.
* Tác động tiêu cực
Mức dân sống tập trung tại các thành phố tăng, dẫn đến nhiều vấn đề về rác thải,
tắc đường, parking space… nhưng cũng tạo cơ hội cho mọi người hợp tác với
nhau. Chủ nghĩa tiêu dùng lan rộng với những hệ lụy tới môi trường, chất lượng
sống, chất lượng đô thị, phân biệt giàu nghèo.
2.2.2 Tác động đến doanh nghiệp kinh doanh truyền thống
12


Doanh nghiệp truyền thống như Taxi, khách sạn cho rằng các doanh nghiệp theo
nền kinh tế chia sẻ không đảm bảo rằng dịch vụ của họ đạt tiêu chuẩn. Ví dụ phòng
trọ, tài xế không phải đi qua những kiểm duyệt. Họ cho rằng điều này khiến cho
giá sản phẩm rẻ đi. Đây là cạnh tranh không lành mạnh. Ví dụ: Các tài xế Taxi cho
rằng Uber có thể khiến mình mất việc và đi biểu tình tại London, Paris…; Bạo
động tấn công taxi Uber tại Seattle.
Ngoài ra sự ra đời của loại hình kinh tế chia sẻ còn dẫn đến việc giảm thị phần và
doanh thu của doanh nghiệp truyền thống.

Hình 4: So sánh tăng trưởng của mô hình kinh tế chia sẻ và truyền thống năm
2013 và 2025
Ngoài ra, khi mô hình kinh tế chia sẻ ra đời thì doanh nghiệp truyền thống đã mất
đi một lượng không ít khách hàng dẫn đến họ phải đầu tư nhiều chi phí lớn hơn để
không ngừng tìm kiếm nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ của mình cho việc
thu hút khách hàng.
13


2.2.

Chính sách quản lí của nhà nước đối với nền kinh tế chia
sẻ của Việt Nam hiện nay
Vận tải là một trong những lĩnh vực phát triển mạnh và là lĩnh vực tiên phong áp
dụng kinh tế chia sẻ ở Việt Nam. Với sự ủng hộ, khuyến khích sử dụng các thành
tựu khoa học công nghệ và mô hình kinh doanh sáng tạo, hiệu quả trong kinh
doanh tại Việt Nam của Chính phủ, tại Công văn số 1850/TTg-KTN ngày
19/10/2015, được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải đã
thực hiện Đề án thí điểm “Triển khai ứng dụng khoa học công nghệ hỗ trợ quản lý
và kết nối hoạt động vận tải hành khách theo hợp đồng”. Và ngay sau đó, Bộ Giao
thông vận tải đã ban hành “Kế hoạch thí điểm triển khai ứng dụng khoa học công
nghệ hỗ trợ quản lý và kết nối hoạt động vận tải hành khách theo hợp đồng” theo
quyết định số 24/QĐ-BGTVT ngày 07/1/2016 cho loại xe ô tô dưới 9 chỗ ngồi có
lắp đặt thiết bị giám sát hành trình, được cấp phù hiệu xe hợp đồng theo đúng quy
định tại Nghị định 86/2014/NĐ-CP và Thông tư số 63/2014/TT-BGTVT với thời
gian thí điểm là 2 năm (từ tháng 1/2016 đến tháng 1/2018) tại 5 tỉnh, thành phố lớn
bao gồm: Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Quảng Ninh. Hiện nay, sau
2 năm thực hiện thí điểm Đề án và Hội nghị Tổng kết 02 năm triển khai thực hiện
thí điểm ngày 19/12/2017, Bộ Giao thông vận tải đã có văn bản đề nghị Thủ tướng
Chính phủ cho phép các đơn vị cung cấp phần mềm và đơn vị vận tải đang tham
gia thí điểm tiếp tục kéo dài thời gian hoạt động. Theo Quyết định số 24/QĐBGTVT ngày 07/01/2016, việc đăng ký loại hình kinh doanh trên được coi là loại
hình vận tải đặt xe bằng hợp đồng điện tử. Cho đến nay, theo dự thảo Nghị định
sửa đổi Nghị định 86/2014/NĐ-CP, khi đơn vị kinh doanh quyết định giá cước và
điều hành lái xe thì được coi là đơn vị kinh doanh vận tải và có thể được coi là
hình thức kinh doanh vận tải hành khách theo hợp đồng trong trường hợp của các
nền tảng ứng dụng công nghệ như Uber hay Grab với hình thức hợp đồng điện tử.
Đối với các đơn vị này, cần thực hiện các qui định đối với đơn vị cung cấp ứng
dụng kết nối hợp đồng vận tải điện tử như trong Điều 20 của Dự thảo Nghị định
86. Bên cạnh đó, các điều kiện kinh doanh vận tải hành khách theo hợp đồng, vận
tải khách du lịch bằng xe ô tô được qui định chi tiết tại Điều 17 của Dự thảo Nghị
định sửa đổi Nghị định 86/2014/NĐ-CP. Đối với vấn đề bảo hiểm, theo điểm b

khoản 2 Điều 69 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 quy định: Người kinh doanh
vận tải hành khách phải có nghĩa vụ mua bảo hiểm cho hành khách; phí bảo hiểm
14


sẽ được tính vào giá vé hành khách và Điều 533 Bộ luật Dân sự quy định về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của bên vận chuyển. Bộ Tài chính cũng thừa nhận, cơ
chế thu thuế đối với các mô hình kinh doanh theo loại hình mới này trong lĩnh vực
vận tải như là một đơn vị vận tải cụ thể là Grab hiện nay phải nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp 20% và thuế GTGT 10%. Đối với tài xế cung ứng dịch vụ trên thị
trường, Grab thu hộ thuế và nộp thuế GTGT 3% và thuế thu nhập cá nhân 1,5%
trên doanh thu cho các tài xế tham gia lái xe.

Đối với dịch vụ chia sẻ phòng ở tại Việt Nam: Mô hình này hiện nay đều phải tuân
thủ theo một số quy định về pháp luật về đăng ký kinh doanh như Luật Doanh
nghiệp (2014), và các quy định pháp luật chuyên ngành khác như Luật Du lịch
(2017), Luật Nhà ở (2014). Ngoài ra, do đây là một loại hình kinh doanh có điều
kiện nên dịch vụ chia sẻ/đặt phòng ở cũng tuân thủ theo các quy định cụ thể như
sau: Dịch vụ chia sẻ phòng ở là một trong những loại hình kinh doanh lưu trú du
lịch, các loại cơ sở lưu trú được cho phép quy định tại Điều 48 của Luật Du lịch
(2017) bao gồm: Khách sạn, biệt thự du lịch, căn hộ du lịch, tàu thủy lưu trú dịch
vụ, nhà nghỉ du lịch, nhà ở có phòng cho khách thuê du lịch, bãi cắm trại du lịch,
và các cơ sở khác,... Điều kiện kinh doanh đối với các dịch vụ lưu trú được quy
định chi tiết tại Điều 49 trong Luật Du lịch (2017). Cụ thể trình tự thủ tục đăng ký
đối với các đơn vị cho thuê là khách sạn, được quy định rất rõ tại Điều 27 trong
Luật Doanh nghiệp (2014) và các văn bản pháp qui hướng dẫn thi hành Luật
Doanh nghiệp như: Nghị định 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính phủ về
đăng ký doanh nghiệp; Thông tư 20/2015/TT-BKH ngày 1/12/2015 của Bộ Kế
hoạch Đầu tư hướng dẫn một số nội dung về trình tư, thủ tục đăng ký doanh
nghiệp theo quy định tại Nghị định 78/2015/NĐ-CP. Tuy nhiên, nếu đối tượng là cá

nhân cung cấp nhà ở cho thuê thì không cần đăng ký kinh doanh nhưng vẫn cần
tuân thủ các quy định về chất lượng, an toàn cho bên thuê nhà ở, có đầy đủ hệ
thống điện, cấp, thoát nước, bảo đảm vệ sinh môi trường tại Điều 118 trong Luật
Nhà ở (2014). Điều kiện an ninh, trật tự; an toàn về phòng cháy và chữa cháy, bảo
vệ môi trường; an toàn thực phẩm theo quy định của pháp luật thì cá nhân hay tổ
chức phải thỏa mãn các điều kiện quy định tại Luật phòng cháy và chữa cháy
(2001), Luật sửa đổi bổ sung phòng cháy và chữa cháy (2013), Luật an toàn thực
phẩm (2010), Nghị định số 96/2016/NĐ-CP, ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy
định điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành nghề kinh doanh có điều
15


kiện và các văn bản pháp qui hướng dẫn thi hành.Về điều kiện cơ sở vật chất kỹ
thuật,tại Điều 27 trong Nghị định 168/2017/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành Luật Du
lịch có quy định chi tiết về điều kiện tối thiểu về cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ
đối với nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê phải có. Đối với dịch vụ lưu trú nói
chung, Bộ Tài chính đã có quy định rất rõ ràng cụ thể liên quan đến quy định nộp
thuế đối với loại hình này. Cụ thể chi tiết theo quy định tại Thông tư số
92/2015/TT-BTC ngày 15/6/2015. Tuy nhiên, mặc dù đã có quy định rất rõ ràng
cụ thể về mức thuế suất nhưng cho đến hiện nay, chưa có một thông tin nào phản
ánh được Nhà nước đã thu thuế được của loại hình dịch vụ này do chưa thể quản lý
được Airbnb về số lượng và doanh thu. Trong khi đó, đối với các hoạt động kinh
doanh dịch vụ đặt phòng trực tuyến của Agoda, Traveloka, Expedia, Bộ Tài chính
đã có Công văn số 848/BTC-TCT ngày 18 tháng 1 năm 2017 về hướng dẫn chính
sách thuế và quản lý thuế rất rõ ràng. Nhìn chung, khuôn khổ pháp luật cho loại
hình dịch vụ chia sẻ phòng ở đã rất chi tiết tại Việt Nam từ rất lâu, cho dù là dịch
vụ lưu trú qua trực tuyến hay qua ứng dụng công nghệ cao cũng cần phải tuân theo
các quy định bắt buộc của pháp luật. Tuy nhiên, để có sự tuân thủ pháp luật chặt
chẽ đúng quy trình đối với các đơn vị cung cấp dịch vụ lưu trú theo mô hình kinh
tế chia sẻ thì cần có sự phối hợp tích cực của các bên tham gia trong việc kê khai,

cung cấp thông tin. Trên thực tế, để đăng ký dịch vụ chia sẻ phòng qua mạng,
những người cung cấp dịch vụ cũng được Airbnb thông báo phải tự có trách nhiệm
tuân thủ và thực hiện nghĩa vụ thuế hay các nghĩa vụ khác theo quy định pháp luật
của địa phương.

CHƯƠNG 3. THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA MÔ HÌNH KINH TẾ
CHIA SẺ Ở VIỆT NAM

3.1.

Thành tựu

Có thể thấy mô hình kinh tế chia sẻ mang lại sự tiếp cận mở rộng hơn cho tất cả
mọi người đối với tài sản và các nguồn lực nhàn rỗi khác mà họ không sở hữu. Các
cá nhân/tổ chức có thể tham gia kinh tế chia sẻ với nhiều tư cách khác nhau, từ
người sử dụng đến người cung cấp, từ người cho thuê, môi giới cho thuê đến người
đi thuê.
Mặt khác, kinh tế chia sẻ cho phép các cá nhân/tổ chức thu lời từ các tài sản và các
nguồn lực nhàn rỗi khác. Họ có thể là người trực tiếp cho thuê tài sản thuộc sở hữu
16


của bản thân; hoặc là trung gian kết nối giữa người có nhu cầu cho thuê và người
đi thuê. Theo cách này, tài sản hoặc các nguồn lực nhàn rỗi khác được chia sẻ như
những dịch vụ.
Như vậy, nền kinh tế chia sẻ giúp tái phân phối các nguồn lực trong xã hội một
cách hiệu quả hơn. Điều này làm tăng giá trị sử dụng của các tài sản và các nguồn
lực nhàn rỗi đó.
Đối với các quốc gia như Việt Nam, kinh tế chia sẻ đang và sẽ mang lại nhiều hiệu
quả tiềm năng như: Mang đến trải nghiệm mới cho người tiêu dùng về các sản

phẩm dịch vụ mới, tận dụng tài nguyên nhàn rỗi một cách hiệu quả... Bên cạnh đó,
phát triển kinh tế chia sẻ có thể góp phần giúp Việt Nam có thể thích ứng với
những đổi thay lớn đang diễn ra trong nền kinh tế toàn cầu, phát huy mạnh mẽ sức
sáng tạo cùng mọi nguồn lực để đất nước tiến lên phía trước nhưng “không ai bị bỏ
lại phía sau” và mọi người đều được hưởng thành quả từ tăng trưởng.
Kinh tế chia sẻ giúp đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, hướng tới
xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hòa nhập với xu
hướng phát triển Cách mạng công nghiệp 4.0. Đồng thời, góp phần đẩy mạnh kinh
tế vùng địa phương và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế đất nước.
Quy mô thị trường tăng trưởng một cách nhanh chóng: Đối với dịch vụ vận tải trực
tuyến. Theo số liệu thống kê của của Sở Giao thông Vận tải TP.HCM, đến năm
2017, có tới tận 25.000 xe hợp đồng điện tử dưới 9 chỗ ngồi đã được cấp phù hiệu
và có đến 24.000 chiếc đang tham gia mạng lưới của Uber và Grab; trong khi đó,
số xe taxi truyền thống chỉ bằng 46% so với số xe tham gia mạng lưới của Uber và
Grab. Tại Hà Nội, theo một báo cáo chỉ ra rằng, tính đến 20/12/2017, GrabTaxi có
11.474 xe tham gia thí điểm trên địa bàn, chiếm 90,67% số lượng xe được cấp
phép hoạt động trên địa bàn toàn thành phố. Đối với dịch vụ cho thuê phòng ở, cho
đến nay vẫn chưa có một cơ quan cụ thể nào ở Việt Nam có một thống kê chính
xác về số lượng đơn vị tham gia loại mô hình này. Tuy nhiên, theo ông Kenneth
Atkinson - Chủ tịch Grant Thornton, tính đến tháng 6/2017, ước tính có khoảng
6.500 cơ sở tham gia Airbnb ở Việt Nam và có khoảng 80% số lượng khách đặt
phòng là người nước ngoài tại Việt Nam. Sau 2 năm thí điểm thì Uber, Grab đã vận
chuyển được hàng chục triệu lượt hành khách trong khi Nhà nước không hề mất
tiền để tài trợ phát triển loại hình này, mà hoàn toàn do xã hội hoá.
17


Kinh tế chia sẻ cung cấp các nguồn lực trong nước đến người có nhu cầu một cách
nhanh chóng thông qua công nghệ. Hay nói cách khác là tận dụng một cách có hiệu
quả các nguồn lực nhàn rỗi trong xã hội; tận dụng hiệu quả về cả thời gian và tiết

kiệm chi phí.
Kinh tế chia sẻ thuận tiện cho người sử dụng và ngày càng được đón nhận rộng rãi:
Theo một cuộc khảo sát của một công ty nghiên cứu thị trường và quảng bá toàn
cầu Nielsen vào năm 2014 đối với người tiêu dùng khu vực Đông Nam Á, cụ thể
tại Việt Nam chỉ có 18% người được hỏi từ chối chia sẻ tài sản cá nhân của mình,
thấp hơn 14 điểm phần trăm so với tỉ lệ trung bình trên toàn thế giới. Trong khi đó,
số người được hỏi sẵn sàng tận dụng các sản phẩm và dịch vụ chia sẻ tại Việt Nam
lên tới 76%, cao hơn mức bình quân 66% của toàn cầu. Bên cạnh đó, đối với dịch
vụ vận tải trực tuyến, theo báo cáo 5 năm kể từ khi thành lập, Grab công bố đã
thành công giúp khách hàng tiết kiệm rất nhiều thời gian dành cho việc di chuyển,
tại Việt Nam trung bình các hành khách của Grab đến nơi với thời gian ít hơn một
nửa khoảng 51%. Ngoài tiết kiệm thời gian, Grab còn giúp khách hàng giảm 20 –
30% chi phí đi lại, giảm 40% những lỗi giấy tờ khi quyết toán chi phí đi lại, minh
bạch thông tin cho người dùng.
Thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế,
đẩy mạnh sáng tạo trong kinh doanh: Cho đến nay, không chỉ có Grab và Uber mà
đã có khoảng 10 hãng taxi khác đã tham gia cung cấp ứng dụng đặt xe qua mạng,
trong đó có cả các hãng taxi lớn như Vinasun, Mai Linh tham gia. Không chỉ có
thế, hiện nay theo ông Hùng, Hiệp hội taxi Hà Nội đã có đề xuất xây dựng một
trung tâm điều hành đặt xe qua mạng và đang đặt công ty phần mềm thiết kế. Đây
là một môi trường nền tảng dùng chung cho tất cả hãng taxi, giúp mọi người khi
đến Hà Nội có thể tải, truy cập phần mềm, có thể lựa chọn hãng tuỳ thuộc vào tên
tuổi hay giá cả đã hiển thị sẵn để cạnh tranh với Grab đang ngày càng mở rộng thị
phần. Mô hình taxi công nghệ ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, khai
thác, vận hành hệ thống, đây là điều tất yếu, phù hợp với chỉ đạo của Chính phủ
trong quá trình thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

3.2.

Hạn chế


Theo một nghiên cứu mới đây của Vụ Kinh tế - Tổng hợp (Ban Kinh tế Trung
ương), Kinh tế chia sẻ đang là xu hướng mới song hành cùng cuộc cách mạng về
18


công nghệ thông tin trở thành một trong những trụ cột quan trọng của nền kinh tế
số, là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nhân và DN khởi nghiệp tại nhiều
quốc gia.
Được ví như “con gà đẻ trứng vàng” mới cho nhiều nền kinh tế, mô hình này hiện
vẫn còn nhiều không gian rộng lớn để phát triển và sẽ lấp đầy những khoảng trống
của các thị trường kinh doanh truyền thống hiện tại. Tuy nhiên, theo nhận định của
các chuyên gia kinh tế, hiện nay, kinh tế chia sẻ tại Việt Nam chưa thực sự phát
triển và cũng sẽ đối mặt với không ít thách thức, rào cản.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhìn chung sự phát triển của các dịch vụ theo mô
hình kinh tế chia sẻ tại nước ta trong thời gian qua còn mang tính tự phát, trong khi
các cơ quan quản lý còn khá lúng túng trong việc xác định bản chất và cách thức
quản lý mô hình này. Chẳng hạn, mô hình này đang gây khó cho cơ quan quản lý
kiểm soát nghĩa vụ tài chính, nghĩa vụ với xã hội, nghĩa vụ với các đối tượng tham
gia. Đặc biệt, vấn đề an toàn cho người tiêu dùng rất khó quản lý.
Nhìn chung, hầu hết văn bản pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể liên quan
đến kinh tế chia sẻ như trong Luật Đầu tư năm 2014, Luật doanh nghiệp 2014, và
các qui định pháp luật khác như Luật thuế, Luật thương mại điện tử (Luật giao dịch
điện tử 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành), các chính sách qui định về nghĩa
vụ tài chính và các chính sách khác. Một vài trường hợp cụ thể như là việc cấp
giấy phép kinh doanh còn gặp vướng mắc do hoạt động này vẫn chưa có trong
danh mục ngành nghề kinh doanh gây ra nhiều vấn đề tranh cãi như theo ông
Nguyễn Anh Tuấn (CEO của Grab) cho rằng các doanh nghiệp hoạt động như Grab
hay Uber chỉ là công ty công nghệ, dùng ứng dụng công nghệ để giải quyết, cải
thiện các vấn đề vận tải của xã hội. Tuy nhiên, trong cuộc họp ngày 8/3 bàn dự

thảo Nghị định thay thế Nghị định 86 về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận
tải bằng xe và theo Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 86, Bộ Giao thông Vận
tải đề xuất xếp vận tải Uber, Grab như taxi truyền thống. Bên cạnh đó là sự lúng
túng trong việc quản lý hoạt động kinh doanh theo loại hình mới này bởi vì các
hoạt động này hoạt động đan xen và giao thoa với các hoạt động kinh doanh truyền
thống; giữa chức năng quản lý của các Bộ/ngành với nhau. Ngoài ra, mô hình kinh
tế chia sẻ còn tồn tại một số hạn chế khác như nguy cơ cạnh tranh không lành
mạnh với các DN truyền thống do DN tham gia nền kinh tế chia sẻ không đảm bảo
dịch vụ của họ đạt chuẩn theo quy định của pháp luật.
19


Cụ thể, như sự bất bình đẳng trong đăng kí kinh doanh, trong kiểm soát số lượng
xe, trong việc xác định giá thành dịch vụ giữa Grab và các doanh nghiệp taxi
truyền thống. Có thể thấy rằng, các hãng taxi truyền thống đang bị kiểm soát chặt
chẽ và khắt khe hơn so với các taxi công nghệ, dẫn đến nhiều trường hợp như gia
tăng áp lực cho cơ sở hạ tầng giao thông vận tải vì số lượng xe Grab gia tăng ngày
một nhiều hay việc được đi vào những tuyến đường mà taxi truyền thống bị cấm

Mô hình này cũng đặt ra nhiều thách thức đối với các nhà quản lý chính sách tại
Việt Nam, bao gồm môi trường kinh doanh thuận lợi, đảm bảo hài hòa lợi ích đối
với các mô hình kinh doanh dịch vụ truyền thống; Kiểm soát việc minh bạch về
thông tin; Quản lý giao dịch điện tử, thanh toán quốc tế về thương mại bằng thẻ;
Quản lý chất lượng dịch vụ, sản phẩm; Chống thất thoát thuế và một số vấn đề xã
hội khác nảy sinh như lao động, việc làm và an sinh xã hội...
Một quan ngại khác đối với các cơ quan quản lý Nhà nước ở Việt Nam là người lao
động làm việc cho các công ty kinh doanh theo mô hình kinh tế chia sẻ thường bị
thiệt thòi khi không được hưởng các phúc lợi xã hội như bảo hiểm y tế, bảo hiểm
thất nghiệp, các chương trình hưu trí, các chương trình đào tạo nâng cao kỹ năng…
như các công ty kinh doanh truyền thống.

Bên cạnh đó, việc kiểm soát tính minh bạch thông tin của các tổ chức/cá nhân tham
gia mô hình kinh tế chia sẻ cũng như việc quản lý các giao dịch và thanh toán điện
tử bằng thẻ, vốn được sử dụng phổ biến trong mô hình kinh tế chia sẻ. Đây là một
vấn đề đang khiến các cơ quan quản lý Nhà nước phải đau đầu.
Trên thực tế, hiện nay cũng xuất hiện mối lo về nguy cơ mô hình kinh tế chia sẻ
đang bị biến dạng, không giống mục đích ban đầu. Giờ đây, Uber, Grap được coi là
mô hình đầu tư mới, dựa trên nền tảng công nghệ Internet chứ không phải đây là
mô hình kinh tế chia sẻ.
Các mô hình này đang có xu hướng phá vỡ, xung đột lợi ích với các ngành nghề
kinh doanh truyền thống và bị tố cáo sử dụng nguồn vốn khổng lồ huy động được,
trợ giá, tạo ra lợi thế cạnh tranh không công bằng, gây bất bình đẳng đối với các
loại hình kinh doanh truyền thống.
Một trong những ví dụ điển hình cho sự bất đồng lợi ích giữa mô hình này và loại
hình kinh doanh truyền thống đó là vụ việc Công ty cổ phần Ánh Dương Việt Nam
20


(Vinasun) kiện đòi bồi thường Công ty TNHH GrabTaxi Việt Nam 14 tỷ đồng với
nội dung “Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”.
Theo đơn khởi kiện (có bổ sung, thay đổi) ngày 15/11/2017 của Vinasun, Grab Việt
Nam đã lợi dụng Quyết định số 24 của Bộ GTVT về “Kế hoạch thí điểm triển khai
ứng dụng khoa học công nghệ hỗ trợ quản lý và kết nối hoạt động vận tải hành
khách theo hợp đồng” (gọi tắt là “Đề án 24”), thực hiện nhiều hành vi vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh vận tải taxi, gây náo loạn thị trường vận tải
hành khách bằng taxi.
Lập luận của Vinasun, dù tự nhận là “Công ty công nghệ không cung cấp dịch vụ
vận tải”, Grab lại là doanh nghiệp kinh doanh vận tải taxi - một lĩnh vực cùng
ngành nghề với Vinasun. Do Grab thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật đã gây
thiệt hại nghiêm trọng về doanh thu, lợi nhuận cho Vinasun và doanh nghiệp (DN)
này khởi kiện, yêu cầu bồi thường thiệt hại hơn 41,2 tỷ đồng. Hình thức là yêu cầu

GrabTaxi bồi thường một lần. Theo ông Trương Đình Quý, Phó tổng giám đốc
Vinasun, trước khi có sự xuất hiện của Grab, Uber, tăng trưởng của doanh nghiệp
này luôn ở mức 2 con số. Từ khi có sự xuất hiện của Grab, cụ thể là từ thời điểm
Grab được thực hiện thí điểm Quyết định 24, lợi nhuận của hãng này liên tục lao
dốc. Đến hết quý II/2017, hơn 8.000 lao động của Vinasun phải nghỉ việc, hàng
trăm đầu xe phải nằm bãi. Vinasun dẫn chứng thêm: "Báo cáo dự án nghiên cứu
những thiệt hại của Vinasun từ chương trình khuyến mãi của Uber Việt Nam và
GrabTaxi" do Công ty Nghiên cứu thị trường - Quảng cáo NBQ thực hiện xác định
tỷ lệ thiệt hại mà GrabTaxi gây ra cho Vinasun từ tháng 1/2016 đến tháng 6/2017 là
52,52%. Thiệt hại này tương ứng số tiền là 39,9 tỷ đồng. Vinasun cũng nói dựa trên
văn bản của Sở GTVT TP.HCM, Grab có rất nhiều ưu thế hơn nếu tính từ thời
điểm áp dụng thí điểm gọi xe hợp đồng. Tại thời điểm đó, Grab có gần 13.000 xe
hoạt động, Vinasun chỉ có xấp xỉ 6.000 xe nhưng số thuế nộp ngân sách Nhà nước
năm 2017 của Vinasun rất lớn, trong khi Grab chỉ nộp khoảng 10 tỷ đồng. Điều
này là không công bằng và vi phạm các vi phạm các quy định về kinh doanh theo
pháp luật Việt Nam. Trong khi đó, trong văn bản gửi báo chí chiều 6/2, ngay sau
phiên xử đầu tiên, Grab Việt Nam cho rằng việc một doanh nghiệp kinh doanh hiệu
quả hay thua lỗ phụ thuộc vào chiến lược, chất lượng dịch vụ kinh doanh và quy
định quản lý riêng của doanh nghiệp. "Các doanh nghiệp nói chung, đặc biệt là các
công ty đại chúng có vốn hoá thị trường lớn như Vinasun, giả sử có giảm sút về
21


doanh thu hoặc lợi nhuận, thì nên tập trung nghiên cứu, đổi mới cách thức kinh
doanh và nâng cao chất lượng dịch vụ, quản lý doanh nghiệp.... Việc đổ lỗi cho
khách quan, có các thông tin sai lệch, bôi xấu các đơn vị khác và về bản chất là
không hợp lý trong cơ chế thị trường và sự phát triển của nền kinh tế hiện đại,
hướng đến công nghiệp 4.0", thông cáo này nhấn mạnh. Vinasun cũng đưa ra
những bằng chứng về việc Grab thực hiện nhiều chương trình khuyến mãi, trong
đó có cả cuốc xe 0 đồng. Theo báo cáo năm 2017 của Bộ Tài chính, từ năm 20142017, Grab kinh doanh lỗ hơn 1.700 tỷ đồng trong khi vốn điều lệ chỉ có 20 tỷ. Từ

đây, VKS cho rằng có đủ cơ sở xác định Grab là doanh nghiệp kinh doanh vận tải
taxi, kinh doanh không đúng đề án 24, vi phạm luật Doanh nghiệp 2014 về kê khai
không trung thực.
Hiện tại vụ kiện vẫn chưa đưa đến kết luận cuối cùng và còn gây nhiều tranh cãi.
Vụ kiện này được dư luận hết sức quan tâm vì không chỉ là sự tranh chấp đòi bồi
thường thiệt hại giữa hai doanh nghiệp mà còn là sự “đối đầu” của hai xu hướng
kinh doanh truyền thống và công nghệ. Theo đó, nhiều chuyên gia kinh tế quan
ngại vụ kiện này sẽ tạo ra “án lệ” có tác động đến môi trường kinh doanh tại Việt
Nam. Nếu như Grab bị thua kiện thì đây sẽ là một đòn giáng mạnh vào nên kinh tế
chia sẻ đang là xu thế chung.

CHƯƠNG 4. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG
THỜI GIAN TỚI
Để phát triển bền vững kinh tế chia sẻ và tận dụng các lợi thế có hội của nó, Nhà
nước cần phải quan tâm đến các quan điểm định hướng và giải pháp tương ứng
như sau:
Thứ nhất: Công nhận sự phát triển của kinh tế chia sẻ là tất yếu, phù hợp với xu
thế phát triển của công nghệ thông tin. Kinh tế chia sẻ không phải là một bộ phận
tách rời hoặc một thành phần kinh tế riêng trong nền kinh tế. Để làm được điều đó
thì cần phải tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế chia sẻ phát triển đi kèm với
những chính sách khuyến khích phù hợp để thúc đẩy phát triển đặc biệt với những
mô hình kinh tế chia sẻ vì mục đích xã hội và không nên cấm các hoạt động kinh tế
22


này. Hoàn thiện khuôn khổ hệ thống pháp luật và chính sách hiện hành để các hoạt
động của kinh tế chia sẻ được quy định và kiểm soát chặt chẽ tại Việt Nam (về
đăng ký kinh doanh, thực hiện nghĩa vụ thuế, nghĩa vụ tài chính, nghĩa vụ khai báo
thông tin, nghĩa vụ đáp ứng các điều kiện kinh doanh chuyên ngành, nghĩa vụ về
thực hiện chính sách bảo hiểm v.v..), đặc biệt cần qui định rõ trách nhiệm giữa các

bên trong kinh tế chia sẻ, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý
đối với mô hình kinh doanh này. Đồng thời, cần có những đánh giá tác động của
từng loại hình kinh tế chia sẻ tới nền kinh tế để cơ chế quản lý phù hợp, cần quản
lý những lĩnh vực có thể ứng dụng được mô hình này, có lĩnh vực không cho phép
để đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng và tính ổn định về mặt kinh tế - xã hội.
Thứ hai: Xây dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các hoạt động kinh tế
chia sẻ và truyền thống. Cần phải khẳng định tận dụng tối đa tài nguyên nhưng
phải đảm bảo các tiêu chuẩn phù hợp với từng lĩnh vực ngành nghề kinh doanh cụ
thể và người cung cấp dịch vụ phải có trách nhiệm đảm bảo tiêu chuẩn được đề ra.
Do đó, để phát huy được lợi ích của mô hình kinh tế chia sẻ, Nhà nước cần có các
chính sách thúc đẩy mô hình này theo hướng nới lỏng các điều kiện kinh doanh
truyền thống (áp dụng chung cho cả khu vực truyền thống và khu vực kinh tế chia
sẻ) đồng thời nâng cao kiểm soát quản lý đối với mô hình kinh tế chia sẻ trong việc
cung ứng dịch vụ để tịnh tiến dần sự công bằng giữa truyền thống và công nghệ,
gia tăng tính cạnh tranh.
Thứ ba: Nâng cao năng lực quản lý của bộ máy nhà nước trong bối cảnh cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 để khuyến khích và quản lý sự phát triển các hoạt động kinh
tế chia sẻ hiện còn đang ở mức thấp. Tốc độ nâng cao năng lực cần nhanh chóng
hơn để đáp ứng nhu cầu về quản lý nhà nước. Cụ thể: Đổi mới quản lý nhà nước
theo hướng các Bộ/ngành tăng cường phối hợp với nhau trong công tác điều hành
quản lý nhà nước và chia sẻ thông tin; cần có quy chuẩn chung về thu thập xử lý
dữ liệu để có thể kết nối, lưu trữ phân tích thông tin làm cơ sở đề ra các chính sách
phù hợp trong bối cảnh công nghệ xóa mờ ranh giới giữa các lĩnh vực, ngành nghề.
Thúc đẩy xây dựng Chính phủ điện tử giai đoạn 2020- 2025. Đẩy nhanh và mở
rộng việc thực hiện Đề án hóa đơn điện tử cho các doanh nghiệp. Thực hiện sửa
đổi, bổ sung Nghị định số 52/NĐ-CP theo hướng quy định các tổ chức, cá nhân
nước ngoài (không có đại diện ở Việt Nam) phải có trách nhiệm cung cấp thông tin
23



khi có cơ quan quản lý nhà nước yêu cầu.Thực hiện xây dựng thí điểm mô hình
thành phố chia sẻ (như mô hình thành phố Seoul, Hàn Quốc).
Thứ tư: Đảm bảo công tác thanh tra, kiểm tra và đảm bảo an toàn thông tin trên
môi trường mạng được thực hiện tốt trong bối cảnh các hoạt động kinh tế chia sẻ
tăng lên nhanh chóng, cụ thể: Cần có những chính sách hướng dẫn các cá nhân, tổ
chức trong và ngoài nước có trách nhiệm bảo mật thông tin (không cung cấp thông
tin cho bên thứ ba ngoại trừ có yêu cầu của các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm
quyền và người có thông tin cho phép) và tuyên truyền nghĩa vụ và trách nhiệm
trong việc bảo mật thông tin cá nhân của người khác. Thúc đẩy giao dịch thanh
toán xuyên biên giới đều phải thông qua cổng thanh toán quốc gia do một đơn vị
làm chủ (đơn vị này do NHNN cấp phép hoạt động). Xây dựng cơ chế để các bên
trong hoạt động kinh tế chia sẻ có thể kiểm soát được việc sử dụng thông tin của
các nền tảng, các doanh nghiệp sử dụng dữ liệu cá nhân, tổ chức của mình theo
đúng thỏa thuận giữa các bên.
Thứ năm: Tăng cường nhận thức của các bên trong nền kinh tế chia sẻ, bao gồm
Nhà nước, doanh nghiệp, người dân. Mô hình kinh tế chia sẻ là mọi người xây
dựng niềm tin thông qua một mô hình cho phép các giao dịch trên môi trường
mạng để thu được những lợi ích của việc chia sẻ và việc việc xếp hạng đánh giá
ngang hàng, xác thực và trách nhiệm của bên thứ ba, bảo hiểm là cách phổ biến
nhất để thiết lập sự tin tưởng như vậy giữa người dùng và nền tảng cũng như trong
số những người dùng. Cụ thể qui định rõ trách nhiệm của các cá nhân và doanh
nghiệp về khai báo thông tin về các hoạt động của kinh tế chia sẻ cho các cơ quan
quản lý Nhà nước, bao gồm các thông tin hoạt động, nghĩa vụ thuế, và các quy
định quản lý chuyên ngành. Xây dựng cơ chế chia sẻ thông tin và dữ liệu giữa
chính quyền các cấp và các doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề và các hộ kinh
doanh. Xây dựng cơ chế, chính sách giảm thiểu rủi ro cho các bên trong hoạt động
kinh tế chia sẻ bao gồm cảnh báo sớm cho người cung cấp dịch vụ, bảo vệ người
tiêu dùng.
Thứ sáu: Nhà nước cần tập trung đầu tư phát triển mạng lưới internet, nâng cấp
đảm bảo tính bảo mật tài khoản thanh toán trực tuyến, cả về số lượng và chất

lượng, bởi, đặc thù cơ bản của kinh doanh chia sẻ chính là các giao dịch thông qua
mạng lưới trực tuyến. Khi chưa có sự phát triển mạnh mẽ của internet tại Việt Nam
24


thì sẽ không thể có một nền tảng tốt cho sự phát triển và thành công của kinh
doanh chia sẻ.

25


×