Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Bánh trôi nước của hồ xuân hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.86 KB, 3 trang )

Đề: Có ý kiến cho rằng "Nổi bật trong sáng tác thơ Nôm của Hồ Xuân Hương là tiếng nói
thương cảm của người phụ nữ, là sự khẳng định đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ" Qua
hai bài thơ Bánh trôi nước và Tự tình II của Hồ Xuân Hương em hãy làm sáng tỏ ý kiến
trên.
Người phụ nữ xưa luôn bị phân biệt đối xử bất công. Có lẽ chính bởi vậy mà có rất
nhiều các áng văn thơ và cả trong văn học dân gian đều có những câu thơ than thân trách
phận của người phụ nữ. Và ta có thể kể tên một số các bài thơ điển hình khi nói về thân
phận của người phụ nữ như " Bánh trôi nước" và "Tự tình II" của Hồ Xuân Hương. Hồ
Xuân là một trong những thi sĩ đã có rất nhiều sáng tác nổi tiếng về đề tài phụ nữ."Nổi
bật trong sáng tác thơ của bà là tiếng nói thương cảm của người phụ nữ, là sự khẳng định
đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ họ". Thơ bà là tiếng nói đòi quyền sống tự do thể hiện
khát khao hạnh phúc.
Thân phận của những người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương thường nhỏ bé,
cuộc đời họ luôn long đong, lận đận. Họ phải sống trong chế độ phong kiến lạc hậu, trọng
nằm khinh nữ, người phụ nữ không có chỗ đứng và địa vị trong xã hội. Vì vậy, những
người phụ nữ có tài như Hồ Xuân Hương thường không được coi trọng, đồng thời những
việc làm của người phụ nữ không được thông cảm. Họ là những người phụ nữ có tài, có
sắc nhưng cuộc đời lận đận, số phận bi đát, nhỏ bé trong xã hội. Mượn hình ảnh chiếc
bánh trôi nước quen thuộc trong dân gian, Hồ Xuân Hương gửi gắm những suy nghĩ sâu
sắc của mình về thân phận nhỏ bé và phụ thuộc của người phụ nữ xưa :
"Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặt dầu tay kẻ nặng
Mà em vẫn giữ tấm lòng son."
Một chiếc bánh trôi nước làm bằng bột nếp trắng tinh, mịn màng, tròn trịa và xinh
xắn khiến con người ta liên tưởng đến vẻ đẹp hồn nhiên, tươi tấn và đầy đặn của những
cô con gái đương xuân. Bánh trôi được luộc trong nồi nước sôi, mấy lần chìm xuống nổi
lên mới chín được. Bột bánh trắng trong nồi rõ màu nâu đó nhân làm bằng đường phèn.
Với cặp mắt đa sầu đa cảm và trái tim đượm tình, Hồ Xuân Hương đã nhận ra đằng sau
những chi tiết rất thực ấy là cả một niềm thương thân trách phận của người phụ nữ. Tạo
hoá sinh ra họ là để duy trì và phát triển sự sống của nhân loại, đồng thời làm đẹp cho


đời. Vai trò của họ là vô cùng quan trọng, nhưng quan niệm thiên vị đến mức lệch lạc
trong xã hội phong kiến đã cố tình phủ nhận điều đó. Nào là: Nhất nam viết hữu, thập
niên viết vô. Rồi cả những luật Tam tòng hà khắc như đã buộc chặt người phụ nữ vào
thân phận bị phụ thuộc vĩnh viễn: Tề gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử.
Dường như những quan niệm khắc khe, cổ hủ ấy như đã tướt đoạt điều quý giá nhất là
được tự do, sống đúng với con người mình và đáng sợ hơn cả là chính điều đó đã khiến
người phụ nữ trở thành cái bóng mờ nhạt trong suốt cuộc đời. Họ tồn tại chứ không phải
sống theo đúng nghĩa tích cực của từ đó. Thân phận người phụ nữ lúc này chẳng khác gì
những chiếc bánh trôi nước, rắn, nát, tròn, méo hoàn toàn do tay kẻ nặn.
Ở bài thơ "Tự tình II", Hồ Xuân Hương đã bộc lộ tâm trạng chung của biết bao
nhiêu người phụ nữ cùng cảnh ngộ trong xã hội phong kiến:


"Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa đẩy lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!"
Nói đến phụ nữ là nói đến cái đẹp, tình yêu thương và đức hi sinh. Họ đã hi sinh
và cống hiến hết mình cho cuộc đời mà không đòi hỏi quyền lợi hay bất kỳ thứ vật chất
nào ngoài sự trân trọng, cảm thông và chia sẻ. Những cái đó hầu như không được giá
đình và xã hội quan tâm vì họ cho rằng thiên chức của phụ nữ là phục tùng vô điều kiện.
Dường như đã hiểu rõ được điều bất công đó nên Hồ Xuân Hương đã viết nên những câu
thơ đó. Những câu thơ thấm đẫm nỗi xót xa, chua chát như trên. Hồng nhan là cách gọi
những người phụ nữ đẹp, rộng hơn là để chỉ chừng phụ nữ. Nhưng tại sao lại gọi là "cái
hồng nhan", phải hiểu "hồng nhan" có Nghĩa là đã hạ nó xuống ngang hàng với những
vật vô tri vô giác khác. Nỗi hờn tủi, bẽ bàng chất chứa trong câu thơ " Trơ cái hồng nhan

với nước non" in đậm dấu ấn phong cách diễn tả độc đáo của Hồ Xuân Hương. Những
điều tâm sự trĩu nặng, nỗi buồn thân phận và duyên phận của nữ sĩ không biết ngỏ cùng
ai nên nó càng cuộn xoáy hơn, đây dứt trong lòng giữa đêm khuya thanh vắng. Nhưng dù
bị phũ phàng hay quên lãng thì nhân vật trữ tình trong bài thơ vẫn không tuyệt vọng, vẫn
khát khao sống mạnh mẽ, vẫn ước ao đến cháy bỏng lòng mình về một hạnh phúc tràn
đầy, vẫn mong muốn được sản sẻ và bù đắp những tình cảm chân thành nhất giữa người
với người.
Đọc "Tự tình II", ta thấu hiểu tâm sự ẩn chứa bi kịch của Hồ Xuân Hương. Là
một nhân cách luôn khát khao hạnh phúc, là một tâm hồn tràn đầy sức sống, yêu đời lại
bắt gặp toàn những dan dở, bất hạnh, điều đó tạo nên nét thơ riêng biertj của bà, có khi là
một tiếng thở dài. Một tiếng thở đáng quý của một người có hoài bão nhưng không thể
thực hiện được, trách nhiệm là ở xã hội xưa một xã hội đầy rẫy những bất công với người
phụ nữ.
Hai bài thơ cùng một chủ đề và cùng toát lên thân phận nhỏ bé, bất hạnh của người
phụ nữ. Nhà thơ Hồ Xuân Hương đã góp tiếng nói riêng đáng kể vào tiếng nói chung để
bảo vệ quyền lơi chính đáng của một nửa nhân loại. Thơ của bà đề cao vẻ đẹp của người
phụ nữ, khẳng định vai trò của người phụ nữ, những lời thơ của Hồ Xuân Hương cũng là
những lời tâm tình, tiếng nói chung trước những số phận bất hạnh. Cũng đồng thời lên án
cái xã hội phong kiến đầy bất công. Người phụ nữ phải đấu tranh, vươn lên để giành lấy
công bằng cho riêng bản thân mình.
Ngày nay, cuộc sống đã thay đổi nhiều, xã hội đã công bằng hơn với người phụ
nữ. Nhưng có những nỗi đau khổ đã trở thành vết hằng muôn đời của người phụ nữ và
đâu đó xung quanh ta vẫn còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Vì vậy mà thơ của Hồ Xuân
Hương vẫn còn vẹn nguyên giá trị và sức sống. Đọc thơ bà ta không chỉ là để đồng cảm,
để sẻ chia mà còn là chiêm nghiệm, suy ngẫm. Tiếng thơ táo bạo chân thành thể hiện khát
vọng mưu cầu hạnh phúc lứa đôi của biết bao hồng nhan trong xã hội phong kiến lúc bấy


giờ, qua đó đã dẫn dắt người đọc đi vào thế giới tâm hồn đa dạng của họ và cũng như có
thể cảm thông với bao nỗi buồn mà họ phải gánh chịu. Ngôn ngữ thơ mang đậm chất dân

gian được sử dụng khéo léo giàu sức biểu cảm tình tế.



×