Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

tiểu luận tài chính công ngưỡng nợ công tối ưu của việt nam và khuyến nghị chính sách về trần nợ công tối ưu cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.6 KB, 49 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU.........................................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG..................................................................................................5
I. Tổng quan nghiên cứu về nợ công và tăng trưởng kinh tế................................5
1. Lí thuyết về nợ công....................................................................................5
2. Mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế........................................8
II. Nghiên cứu mức nợ công tối ưu cho Việt Nam.............................................18
1. Thực trạng nợ công Việt Nam....................................................................18
2. Tỷ lệ nợ công tối ưu cho Việt Nam............................................................31
III. Kiến nghị và giải pháp nhằm duy trì mức nợ công tối ưu cho Việt Nam.....40
1. Phát triển nội lực của nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng..........40
2. Về nâng cao năng lực quản lý nợ công......................................................42
3. Về nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công và đầu tư công.............................44
4. Tăng cường minh bạch hóa thông tin và tuân thủ chặt chẽ kế hoạch quản lý
ngân sách.......................................................................................................46
KẾT LUẬN...........................................................................................................48
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................49


LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh phát triển kinh tế và xã hội hiện nay, nhà nước có lúc cần huy
động nhiều hơn nguồn lực từ trong và ngoài nước vào một giai đoạn nhất định. Nói
cách khác, khi các khoản thu truyền thống như thuế, phí, lệ phí không đáp ứng
được nhu cầu chi tiêu, nhà nước phải quyết định vay nợ để thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của mình và chịu trách nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó thường được gọi là nợ công.
Tại Việt Nam, nợ công có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của đất
nước. Đây là nguồn tài trợ hàng đầu cho đầu tư phát triển kinh tế của đất nước
thông qua ngân sách nhà nước và là nguồn cung cấp vốn đứng thứ 2 của nền kinh
tế với tỷ trọng vốn 16 - 17% vốn đầu tư toàn xã hội. Tuy nhiên, trong những năm
gần đây, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nợ công khu vực đồng tiền chung


châu Âu và những khó khăn nội tại của nền kinh tế trong nước đã có ảnh hưởng
nhất định đến tình hình nợ công của Việt Nam cả về quy mô, cơ cấu, nghĩa vụ trả
nợ và các chỉ số an toàn nợ công. Chính vì lẽ đó, nợ công và quản lý nợ công sao
cho luôn duy trì ở mức hiệu quả và an toàn là vấn đề bức thiết hàng đầu luôn được
các nhà lãnh đạo quan tâm.
Được sự giảng dạy, hướng dẫn tận tình của GS.TS. Nguyễn Thị Lan, nhóm 36
lớp học phần Tài chính công chúng em xin được lựa chọn đề tài “Ngưỡng nợ công
tối ưu của Việt Nam và khuyến nghị chính sách về trần nợ công tối ưu cho Việt
Nam” để nghiên cứu.
Trong phạm vi nghiên cứu hẹp của một đề tài tiểu luận, cũng như do những hạn
chế về kiến thức, phương pháp nghiên cứu nên không tránh khỏi những sai sót,
khiếm khuyết về nội dung, nhóm rất mong nhận được những góp ý quý báu của cô
và các bạn để hoàn thiện bài tiểu luận.
Nhóm xin chân thành cảm ơn!

2


PHẦN NỘI DUNG
I. Tổng quan nghiên cứu về nợ công và tăng trưởng kinh tế

1. Lí thuyết về nợ công
1.1. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của nợ công
Khái niệm: Theo Luật quản lí nợ công số 29/2009/QH12, nợ công bao gồm: nợ
Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương.
 Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước
ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ
hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát
hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ
do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách

tiền tệ trong từng thời kỳ.
 Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài
chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
 Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh)
ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
Đặc trưng cơ bản của nợ công: Vay nợ là một cách huy động vốn cho phát
triển. Bản chất nợ không phải là xấu. Nợ đem lại rất nhiều tác động tích cực cho
nền kinh tế của các nước đi vay. Thực tế, các nước muốn phát triển nahnh đều phải
đi vay. Những nền kinh tế lớn nhất thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản… lại
cũng chính là những con nợ lớn. Nợ công có nhiều tác động tích cực, nhưng cũng
có không ít tác động tiêu cực.
Tác động tích cực chủ yếu của nợ công bao gồm:
 Thứ nhất, nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước.
Trách nhiệm trả nợ này được thể hiện dưới hai góc độ trả nợ trực tiếp và trả
nợ gián tiếp. Trả nợ trực tiếp được hiểu là cơ quan nhà nước có thẩm quyền
3


sẽ là người vay và do đó, cơ quan nhà nước sẽ chịu trách nhiệm trả nợ
khoản vay. Trả nợ gián tiếp là trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đứng ra bảo lãnh để một chủ thể trong nước vay nợ, trong trường hợp bên
vay không trả được nợ thì trách nhiệm trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra
bảo lãnh.
 Thứ hai, nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình
chặt chẽ nhằm đảm bảo hai mục đích: Một là, đảm bảo khả năng trả nợ của
đơn vị sử dụng vốn vay và cao hơn nữa là đảm bảo cán cân thanh toán vĩ
mô và an ninh tài chính quốc gia; Hai là, đề đạt được những mục tiêu của
quá trình sử dụng vốn. Bên cạnh đó, việc quản lý nợ công một cách chặt chẽ

còn có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị xã hội.
 Thứ ba, mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát
triển kinh tế – xã hội vì lợi ích cộng đồng chứ không phải để thỏa mãn
những lợi ích riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào.
Bên cạnh những tác động tích cực, nợ công cũng gây ra những tác động tiêu
cực: Nợ công gia tăng sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt là từ các khoản
tài trợ ngoài nước. Nếu kỷ luật tài chính của Nhà nước lỏng lẻo và thiếu cơ chế
giám sát chặt chẽ việc sử dụng và quản lý nợ công sẽ dẫn đến tình trạng tham
nhũng, lãng phí tràn lan. Tình trạng này làm thất thoát các nguồn lực, giảm hiệu
quả đầu tư và điều quan trọng hơn là giảm thu cho ngân sách. Nhận biết những tác
động tích cực và tiêu cực nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực là điều
hết sức cần thiết trong xây dựng và thực hiện pháp luật về quản lý nợ công.
1.2. Phân loại
Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa khác nhau
trong việc quản lý và sử dụng nợ công.
 Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay: Nợ công gồm có hai loại: Nợ
trong nước và nợ nước ngoài. Nợ trong nước là nợ công mà bên cho vay là
cá nhân, tổ chức trong nước. Nợ nước ngoài là nợ công mà bên cho vay là
4


Chính phủ nước ngoài, vùng lãnh thổ, tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức và
cá nhân nước ngoài. Việc phân loại nợ trong nước và nợ nước ngoài có ý
nghĩa quan trọng trong quản lý nợ. Việc phân loại này sẽ giúp xác định
chính xác hơn tình hình cán cân thanh toán quốc tế. Việc quản lý nợ nước
ngoài còn nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ, vì các khoản vay nước ngoài chủ
yếu bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc các phương tiện thanh toán quốc tế
khác.
 Theo phương thức huy động vốn: Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp và Nợ
công từ công cụ nợ. Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất

phát từ những thỏa thuận vay trực tiếp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
với cá nhân, tổ chức cho vay. Phương thức huy động vốn này xuất phát từ
những hợp đồng vay, hoặc ở tầm quốc gia là các hiệp định, thỏa thuận giữa
các nhà nước. Nợ công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phát hành các công cụ nợ để vay vốn. Các
công cụ nợ này có thời hạn ngắn hoặc dài, thường có tính vô danh và khả
năng chuyển nhượng trên thị trường tài chính.
 Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công: Nợ công từ
vốn vay ODA, Nợ công từ vốn vay ưu đãi và Nợ thương mại thông thường.
 Theo trách nhiệm đối với chủ nợ: Nợ công phải trả và Nợ công bảo lãnh.
Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ, chính quyền địa phương
có nghĩa vụ trả nợ. Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà Chính phủ có trách
nhiệm bảo lãnh cho người vay nợ, nếu bên vay không trả được nợ thì Chính
phủ sẽ có nghĩa vụ trả nợ.
 Theo cấp quản lý nợ: Nợ công của trung ương và Nợ công của chính quyền
địa phương. Nợ công của trung ương là các khoản nợ của Chính phủ, nợ do
Chính phủ bảo lãnh. Nợ công của địa phương là khoản nợ công mà chính
quyền địa phương là bên vay nợ và có nghĩa vụ trực tiếp trả nợ. Theo quy
định của Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 thì những khoản vay nợ của
chính quyền địa phương được coi là nguồn thu ngân sách và được đưa vào

5


cân đối, nên về bản chất nợ công của địa phương được Chính phủ đảm bảo
chi trả thông qua khả năng bổ sung từ ngân sách trung ương.
Việc phân loại nợ công có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quản lý và sử dụng
nợ công. Tương ứng với mỗi loại nợ sẽ có giải pháp quản lý bảo đảm quy mô nợ
phù hợp, qua đó sẽ chủ động tăng hay giảm nợ để tạo nguồn thúc đẩy phát triển
kinh tế – xã hội.

1.3. Những vấn đề gặp phải khi tính toán nợ công
Lạm phát: Chỉ tiêu thâm hụt ngân sách khi tính toán thường không điều chỉnh
ảnh hưởng của lạm phát vì trong tính toán chi tiêu của Chính phủ, người ta tính
toán các khoản trả lãi vay theo lãi suất danh nghĩa trong khi đáng lẽ chỉ tiêu này
chỉ nên tính theo lãi suất thực tế. Do lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng
với tỷ lệ lạm phát, nên thâm hụt ngân sách đã bị phóng đại. Trong những thời kỳ
lạm phát ở mức cao và nợ chính phủ lớn thì ảnh hưởng của yếu tố này rất lớn.
Tài sản đầu tư: Nhiều nhà kinh tế cho rằng tính toán nợ chính phủ cần phải trừ
đi tổng giá trị của tài sản chính phủ. Điều này cũng đơn giản như khi xử lý tài sản
của cá nhân: khi một cá nhân vay tiền để mua nhà thì không thể tính anh ta đã
thâm hụt ngân sách bằng số tiền đã vay mà phải trừ đi giá trị của căn nhà. Tuy
nhiên khi tính toán theo phương pháp này lại gặp phải vấn đề những gì nên coi là
tài sản của chính phủ và tính toán giá trị của chúng như thế nào, ví dụ: đường quốc
lộ, kho vũ khí hay chi tiêu cho giáo dục…
Các khoản nợ tiềm tàng: Nhiều nhà kinh tế lập luận rằng tính toán nợ chính
phủ đã bỏ qua các khoản nợ tiềm tàng như tiền trợ cấp hưu trí, các khoản bảo hiểm
xã hội mà chính phủ sẽ phải chi trả cho người lao động hay các khoản mà chính
phủ sẽ phải chi trả khi đứng ra bảo đảm cho các khoản vay của người có thu nhập
thấp mà trong tương lai họ không có khả năng thanh toán…

2. Mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế
2.1. Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế

6


Lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế là một đề tài thu
hút được nhiều tranh luận của các học giả thuộc các trường phái kinh tế khác nhau,
cả tân cổ điển và Keynes. Tuy nhiên, các nghiên cứu của các học giả này không
đưa ra một câu trả lời đồng nhất mà tồn tại 3 luồng quan điểm:

 Thứ nhất, quan điểm tăng trưởng nợ công tỷ lệ nghịch với tăng trưởng kinh
tế quốc gia với đại diện là Friedman (1988).
 Thứ hai, quan điểm nợ công ở mức hợp lý có tác động tích cực đến tăng
trưởng kinh tế do tác động đến tổng cầu thuộc về các nhà kinh tế học theo
trường phái Keynes.
 Thứ ba, quan điểm nợ công có tác động rất nhỏ tới tăng trưởng kinh tế
thuộc về các nhà kinh tế theo trường phái Ricardo với đại diện tiêu biểu là
Barro.
Cụ thể như sau:
Quan điểm 1: Nợ công làm giảm tăng trưởng kinh tế


Trường phái kinh tế cổ điển cho rằng khi Chính phủ dùng nợ để trang trải
các khoản thâm hụt ngân sách thì sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế do gánh
nặng nợ cho thế hệ tương lai cũng như do việc giảm đầu tư tư nhân từ áp
lực tăng lãi suất.
Modigliani (1961) lập luận rằng khi Chính phủ vay tiền thì Chính
phủ sẽ phải tăng thuế để bù đắp lại các khoản lãi phải trả cho các khoản vay
đó. Việc tăng thuế trong tương lai làm giảm thu nh của dân chúng nên thực
chất tổng nguồn vốn đầu tư trong nền kinh tế không đổi, chỉ chuyển từ “túi
người này sang túi người kia”. Thêm nữa, thu nhập kỳ vọng giảm do việc
tăng thuế cũng không kích thích đầu tư để tăng trưởng kinh tế. Ông phát
biểu rằng: “nếu chính phủ đánh thuế, thì nguời dân còn ít tiền trong túi hơn,
cho nên mỗi dồng chính phủ chi tiêu sẽ được cân đối bằng một đồng không
được chi ở chỗ khác”.
Friedman (1988) lại cho rằng sự gia tăng của nợ công do thâm hụt
ngân sách sẽ gây áp lực làm tăng lãi suất. Lãi suất tăng đương nhiên sẽ làm
7



giảm đầu tư tư nhân. Nói một cách khác, Friedman (1988) cho rằng tăng nợ
công giống như việc “chi tiêu công chèn ép đầu tư tư nhân” (crowd out
effect). Một khi đầu tư tư nhân giảm thì tăng trưởng kinh tế cũng giảm.
Quan điểm 2: Nợ công ở mức hợp lý có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế.


Quan điểm của trường phái Keynes được đưa ra dựa trên hai giả thuyết cơ
bản là tổng cung chịu ảnh hưởng của tổng cầu và giả thiết nền kinh tế
không trong trạng thái toàn dụng.
Keynes đề xuất khi nền kinh tế suy thoái, thất nghiệp tăng thì Chính
phủ có thể đưa ra các gói kích cầu để tác động vào nền kinh tế. Các gói kích
cầu này có thể thực hiện bằng cách Chính phủ đi vay để tăng chi tiêu công.
Việc tăng tổng cầu sẽ có tác động thúc đẩy tổng cung và từ đó thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
Robert Eisner (1984) cho rằng nếu nợ công ở mức hợp lý sẽ có tác
động làm gia tăng việc tổng cầu, tăng tỷ suất lợi nhuận đầu tư từ đó thúc
đẩy đầu tư cho dù lãi suất có tăng lên. Chính vì thế, ông đã áp dụng lý
thuyết này trong các phân tích thực chứng và chỉ ra rằng thâm hụt ngân sách
(hay nợ công) có quan hệ tỷ lệ thuận với tốc độ tăng trưởng của thu nhập.
Những phát hiện của Eisner tuy nhiên lại không nhận được nhiều sự đồng
tình chẳng hạn, Gramlich (1989) cho rằng việc sử dụng nợ công để tài trợ
cho thâm hụt ngân sách không quan trọng trong việc quyết định tính hiệu
quả của chính sách tài khóa. Quan điểm của phái Keynes cũng vấp phải sự
phản đối của những người theo trường phái kinh tế Ricardo khi họ cho rằng
rằng chi tiêu tăng thêm của chính phủ sẽ không có tác động lên mức thu
nhập vì người dân sẽ lập tức tiết kiệm nhiều hơn để trả thuế tăng lên trong
tương lai hoặc bù lại lạm phát cao hơn do chính phủ tăng chi tiêu trong hiện
tại. Tác động ròng lên tổng cầu sẽ là bằng không.

Quan điểm 3: Nợ công có tác động rất nhỏ tới tăng trưởng kinh tế



Quan điểm của trường phái Ricardo trong đó Robert Barro (1989) là một
đại diện tiêu biểu. Quan điểm này cho rằng, thâm hụt ngân sách (nợ công)
8


có tác động rất nhỏ tới nền kinh tế vì nợ công không có tác động gì đến tổng
cầu. Việc gia tăng chi tiêu công ngày hôm nay sẽ làm tăng thuế cả ở hiện tại
và tương lai trong khi người tiêu dùng sẽ định hướng hành vi tiêu dùng của
họ dựa trên giá trị hiện tại của thu nhập của họ trong tương lai. Dù cho việc
gia tăng thuế diễn ra ở hiện tại hay tương lai thì việc tiêu dùng cũng sẽ giảm
tương ứng với việc chi tiêu của chính phủ.
Robert Barro (1989) cho rằng khi chính phủ vay nợ thì nhóm người
già nhận thấy rằng con cháu họ sẽ bị thiệt hại hơn (giả sử là người già quan
tâm tới phúc lợi của con cháu họ, do đó họ không muốn mức tiêu dùng của
con cháu họ giảm sút). Vậy thì nhóm người già phản ứng như thế nào? Đơn
giản là họ gia tăng thu nhập dưới dạng di sản để lại cho con cháu với mức
bằng khoản tiền đủ để trả phần thuế tăng thêm mà thế hệ tương lai phải
chịu. Bằng cách làm này, kết quả không có gì thay đổi thực sự. Các thế hệ
sẽ có cùng mức tiêu dùng chính xác một số tiền giống nhau như trước khi
chính phủ vay nợ. Mỗi thế hệ tiêu dùng chính xác một số tiền giống nhau
như trước khi chính phủ vay nợ.
Quan điểm của trường phái Ricardo đã bị phê phán cả về mặt lý luận
và thực tiễn. Bernheim (1989) cho rằng quan điểm của trường phái này dựa
quá nhiều vào các giả thuyết, trong đó có giả thiết rằng các hộ gia đình là
các thực thể độc lập và và không có mối liên hệ với nhau. Giả thiết này chỉ
có ở các thị trường hoàn hảo trong đó người tiêu dùng có các quyết định của
mình chỉ dựa vào lý trí (duy lý) mà thôi.
Giả thuyết kỳ vọng duy lý được dựa trên ý tuởng cho rằng mọi người

- người tiêu dùng, doanh nghiệp, chủ lao động và người lao động - sử dụng
hiệu quả thông tin mà họ có được về quá khứ, hiện tại và tương lai. Họ nhìn
vào những sự kiện trong quá khứ để tiên đoán điều gì sẽ xảy ra trong tương
lai, nhưng không có nghĩa là ai cũng đoán đúng về tương lai, mà thật ra
những sai lầm của chúng ta không tương quan với nhau. Chúng ta điều
chỉnh những kỳ vọng về tương lai một cách liên tục và theo sát những thay
đổi trong điều kiện kinh tế. Hàm ý chính sách quan trọng của lý thuyết kỳ
9


vọng duy lý là sự can thiệp của chính phủ sẽ lợi bất cập hại. Giả sử chính
phủ tăng chi tiêu trong giai đoạn thất nghiệp cao. Theo Keynes thì điều này
sẽ làm tăng cầu hiệu dụng và thuyết phục được doanh nghiệp và hộ gia đình
rằng điều kiện là an toàn cho đầu tư và tiêu dùng.
Ngược lại, phe kỳ vọng duy lý cho rằng chi tiêu tăng thêm của chính
phủ sẽ không có tác động lên mức thu nhập vì người dân sẽ lập tức bắt đầu
tiết kiệm nhiều hơn để trả thuế tăng lên trong tương lai hoặc bù lại lạm phát
cao hơn do chính phủ tăng chi tiêu trong hiện tại. Tác động ròng lên tổng
cầu sẽ là bằng không.
Barro cũng thừa nhận rằng các giả thiết này là quá mạnh tuy nhiên cũng
cho rằng dù cho lý thuyết của trường phái Ricardo không hoàn hảo thì vẫn
có thể sử dụng được như là một tiêu chuẩn để đo lường tính hiệu quả của
chính sách tài khóa của một quốc gia.
Vì vậy, để đưa ra nhận định quan điểm nào phù hợp với từng thời điểm của
quốc gia còn phải phụ thuộc vào nhân tố quan trọng đó là hành vi của người tiêu
dùng cũng như tính hiệu quả trong việc chi tiêu ngân sách nhà nước.
Theo Lê Thị Minh Ngọc (2011), xét về mặt tích cực, Chính phủ các quốc gia có
thể sử dụng nợ công như là một công cụ để tài trợ vốn, đáp ứng nhu cầu đầu tư cho
các dự án, công trình trọng điểm quốc gia, khuyến khích phát triển sản xuất, kích
thích tăng truởng kinh tế. Giải pháp tăng nợ công để bù đắp thâm hụt ngân sách do

cắt giảm thuế có thể sẽ góp phần kích thích tiêu dùng, tăng sản lượng, việc làm,
tăng tổng sản phẩm quốc dân trong ngắn hạn.
Về mặt tiêu cực, nợ công lớn có thể ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế
như sau:
(i) Nợ công lớn làm giảm tích lũy vốn tư nhân (private savings), dẫn đến hiện
tượng thoái lui đầu tư tư nhân.
(ii) Nợ công làm giảm tiết kiệm quốc gia (national savings)
(iii) Nợ công tạo áp lực gây ra lạm phát
(iv) Nợ công làm méo mó các hoạt động kinh tế, gây tổn thất phúc lợi xã hội.
10


2.2. Lý thuyết về ngưỡng nợ công (debt overhang) và đường cong Laffer
Theo Tokunbo và cộng sự (2007), các nghiên cứu ban đầu của các nhà kinh tế
trong những thập niên 50 và 60 đã tìm thấy một lý thuyết chung về nợ nước ngoài
và tăng trưởng kinh tế. Tất cả họ đều chia sẻ quan điểm chung rằng việc chuyển
giao các nguồn lực nước ngoài (thông qua các khoản vay, viện trợ và tài trợ) tại
các nước kém phát triển là cần thiết, nó bổ sung nguồn vốn thiếu hụt trong nước.
Với nguồn vốn được bổ sung sẽ giúp các nước chuyển đổi nền kinh tế của họ để
tạo ra mức tăng trưởng cao hơn. Qua quá trình này có thể thấy mối liên hệ giữa nợ
nước ngoài và tăng trưởng kinh tế là với một quốc gia đang phát triển mức vay nợ
hợp lý có khả năng tăng cường tăng trưởng kinh tế.
Các quốc gia ở giai đoạn phát triển đầu với dung lượng vốn nhỏ hơn sẽ có
những cơ hội đầu tư với tỷ suất hoàn vốn cao hơn so với các nền kinh tế phát triển.
Do vậy chỉ cần các quốc gia này sử dụng vốn vay để đầu tư sản xuất, tăng trưởng
sẽ tăng và cho phép họ thanh toán các khoản nợ vay kịp thời. Điều này cũng hàm ý
rằng trong ngắn hạn mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng có
thể giúp các nước này vượt qua chu kỳ nợ trong thời hạn hợp lý. Theo Soludo
(2001) chu kỳ nợ có ba giai đoạn: trong giai đoạn đầu tiên nợ phát triển để bổ sung
vào nguồn lực thiếu hụt trong nước, trong giai đoạn thứ hai, quá trình sử dụng nợ

tạo ra thặng dư nhưng có thể không đủ để bù đắp các khoản thanh toán lãi suất,
trong khi trong giai đoạn ba quá trình sử dụng nợ phải tạo ra thặng dư đủ để trang
trải trả lãi và nợ gốc.
Hạn chế của các nghiên cứu nêu trên là chưa giải thích cặn kẽ ảnh hưởng lâu
dài của nợ nước ngoài đối với tăng trưởng mà các nhà nghiên cứu sau này gọi là
“debt overhang”. Sự hạn chế này đã thúc đẩy các nhà kinh tế xây dựng một lý
thuyết giải thích toàn diện mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế.
Lý thuyết “debt overhang” được xem là lý thuyết quan trọng trong giải thích
mối quan hệ giữa nợ và tăng trưởng kinh tế về sau này. Lý thuyết này khi được
giải thích qua đồ thị được biết đến qua tên gọi đường cong Laffer nợ. Để đưa ra
một giải pháp cho vấn đề “debt overhang” các nhà kinh tế tập trung vào việc tìm

11


kiếm mức vay nợ tối ưu cho từng quốc gia cụ thể. Đây là mức độ nợ mà các quốc
gia có thể duy trì mà không cần phải lo ngại vấn đề “debt overhang”.
Lý thuyết “Debt Overhang” Trong các nghiên cứu liên quan đến tác động tiêu
cực tiềm năng của gánh nặng nợ nước ngoài đối với tăng trưởng mô hình phổ biến
được sử dụng là lý thuyết “debt overhang”. Krugman (1988) định nghĩa “debt
overhang” là tình trạng trong đó số tiền dự kiến chi trả nợ nước ngoài sẽ giảm dần
khi dung lượng nợ tăng lên. Lý thuyết “debt overhang” cho rằng nếu như nợ trong
tương lai vượt quá khả năng trả nợ của một nước thì các chi phí dự tính chi trả cho
các khoản nợ (dịch vụ nợ) sẽ kìm hãm đầu tư trong nước từ đó ảnh hưởng xấu đến
tăng trưởng. Đường cong Laffer nợ Lập luận của lý thuyết “debt overhang” có thể
được xem xét qua đường cong Laffer nợ (Hình 1). Đường cong Laffer nợ cho thấy
rằng tổng nợ càng lớn sẽ đi kèm với khả năng trả nợ càng giảm. Trên phần dốc lên
của đường cong, giá trị hiện tại của nợ càng tăng sẽ đi cùng với khả năng trả nợ
cũng tăng lên. Trên phần dốc xuống của đường cong, giá trị hiện tại của nợ càng
tăng lại đi kèm với khả năng trả nợ càng giảm.

Mặc dù mô hình “debt overhang” không trực tiếp phân tích ảnh hưởng của nợ
nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế nhưng lại gợi ý rằng tổng nợ lớn sẽ kìm hãm
tăng trưởng do góp phần giảm đầu tư. Do vậy, ở mức nợ hợp lý, vay nợ tăng lên sẽ
có tác động tích cực đến tăng trưởng nhưng tổng nợ tích lũy lớn sẽ có thể cản trở
tăng trưởng. Từ đó, có thể kết luận rằng nợ và tăng trưởng có mối liên hệ phi
tuyến.

12


Hình 1: Đường cong Laffer nợ
Nguồn: Source: Patillo C. et. al (2002)
Đỉnh đường cong Laffer nợ đã gợi ý điểm mà tại đó sự tăng lên trong tổng nợ
bắt đầu tạo ra gánh nặng cho đầu tư, cải tổ kinh tế và các hoạt động khác. Đây là
điểm mà tại đó nợ bắt đầu ảnh hưởng ngược chiều đến tăng trưởng. Vì vậy đỉnh
của đường cong Laffer nợ là mức độ nợ tối ưu mà một quốc gia có thể duy trì mà
không phải lo ngại vấn đề “debt overhang”.
2.3. Các nghiên cứu có liên quan
Các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh
tế.
 Teles và Mussolini (2013) trong nghiên cứu có tên “Nợ công và những
giới hạn trong chính sách tài khóa để tăng trưởng kinh tế” đã phát triển
những lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế được
đưa ra bởi các nhà kinh tế Tân cổ điển như Barro (1989) bằng cách đề xuất
một mô hình có liên quan đến các thế hệ và tăng trưởng nội sinh. Dù cho
mô hình của Teles và Mussolini (2013) xuất phát từ mô hình của Barro
(1989) trong đó nói rằng nợ công có thể có tác động tích cực nhờ việc chi
tiêu công một cách hiệu quả bên cạnh những tác động tiêu cực như tăng
thuế và giảm đầu tư, thì mô hình được đề xuất trong nghiên cứu của họ lại
có hai đóng góp quan trọng, đó là việc giả định mỗi thế hệ sẽ tồn tại trong

hai thời kỳ (0,1) và xác định tầm quan trọng của tỷ lệ nợ công/GDP trong
việc phân tích tác động của nợ công tới tăng trưởng kinh tế. Sử dụng các
dữ liệu của 74 nước trong khoảng thời gian 1972 - 2004, Teles và
Mussolini (2013) đã đưa ra một phát hiện quan trọng là quy mô của nợ
công là một nhân tố có ảnh hưởng quan trọng tới mối quan hệ giữa nợ
công và tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn, với những nước có tỷ lệ nợ
công/GPD cao thì việc tăng đầu tư công sẽ làm tăng lãi suất và càng sụt
giảm đầu tư tư nhân. Nói một cách khác, các nước có tỷ lệ nợ công càng
cao thì hiện tượng “chèn ép đầu tư tư nhân” càng tăng. Như vậy, nghiên
cứu của Teles và Mussolini (2013) đã cho thấy tỷ lệ nợ công là một biến số
13


quan trọng trong phân tích. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ công thế nào gọi là cao hay
thấp và bao nhiêu là tốt nhất thì lại chưa được bàn tới trong nghiên cứu
này.
 Vanlaramsanga (2012) tiến hành một nghiên cứu thực nghiệm nhằm kiểm
định mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế tại Bang Mizoram,
Ấn Độ. Mô hình của Vanlaramsanga được thiết lập với biến phụ thuộc là
tốc độ tăng trưởng kinh tế đo lường bằng chỉ số tổng sản lượng của bang
(GSDP) và biến độc lập là tỷ lệ nợ công. Dữ liệu được thu thập là số liệu
về tăng trưởng kinh tế và nợ công trong khoảng thời gian 1987-2010 với
23 quan sát. Nghiên cứu này trước hết áp dụng phân tích hồi quy để kiểm
tra mối liên hệ phụ thuộc giữa các biến của mô hình. Để kiểm tra độ phân
bố chuẩn và ổn định của dữ liệu chuỗi thời gian, Augmented DickeyFuller (ADF) được áp dụng. Sau đó, tác giả sử dụng Pair-wise Granger
Causality để tìm ra mối quan hệ nhân quả giữa nợ công và tăng trưởng
kinh tế. Kết quả phân tích cho thấy nợ công có quan hệ tỷ lệ nghịch với
tăng trưởng kinh tế, nghĩa là, nợ công càng lớn thì tăng trưởng kinh tế
càng giảm. Tuy nhiên, kết quả phân tích sử dụng Pair-wise Granger
Causality lại cho thấy khi kinh tế tăng trưởng chậm thì nợ công sẽ tăng

trong khi nợ công cao lại không phải là nguyên nhân dẫn đến kinh tế suy
giảm. Nghiên cứu của Vanlaramsanga có đóng góp là áp dụng Pair-wise
Granger Causality để trả lời câu hỏi nợ công cao có phải là nguyên nhân
làm cho tăng trưởng kinh tế chậm lại hay không. Tuy nhiên, việc giới hạn
dữ liệu trong vòng 23 năm tại một bang ở Ấn Độ làm giảm khả năng áp
dụng của kết quả nghiên cứu ở các bối cảnh khác.
 Egert (2013) đã tiến hành một nghiên cứu thực nghiệm nhằm xác định một
mức trần nợ công mà trên mức đó thì nợ công sẽ có quan hệ tỷ lệ nghịch với
tăng trưởng nghĩa là càng tăng nợ công thì tăng trưởng càng giảm. Tác giả
sử dụng bộ dữ liệu Reinhart-Rogoff công bố bởi Herndon et al. (2013) trong
đó có dữ liệu về nợ công và tăng trưởng của các nước OECD trong thời
gian 200 năm từ 1790 đến 2009. Các mức trần nợ công 30%, 60%, 90% đã
14


được sử dụng sử dụng phương pháp thống kê mô tả để phân tích mối quan
hệ giữa nợ công và tăng trưởng trong các giai đoạn khác nhau. Các kết quả
nghiên cứu cho thấy khi tỷ lệ nợ công vượt quá 30% thì nền kinh tế sẽ trở
nên chậm phát triển, còn khi tỷ lệ nợ công lơn hơn 60% và 90% thì nợ công
có quan hệ tỷ lệ nghịch với tăng trưởng kinh tế.
 Mehmet Caner và cộng sự (2010) nghiên cứu ngưỡng nợ công tại các quốc
gia phát triển và đang phát triển trong giai đoạn 1980-2008. Mẫu nghiên
cứu của nhóm tác giả này bao gồm 26 quốc gia phát triển và 75 quốc gia
đang phát triển ở khắp các khu vực trên thế giới. Bằng kỹ thuật hồi quy
bình phương bé nhất của Hansen (2000) nghiên cứu thực hiện đo lường mối
quan hệ giữa tỷ lệ tăng trưởng GDP thực (GDP theo giá cố định năm 2000)
với các biến GDP thực bình quân đầu người, tỷ lệ nợ công so với GDP, tỷ lệ
lạm phát và độ mở nền kinh tế. Kết quả nghiên cứu tìm thấy ngưỡng nợ
công trên GDP đối với các quốc gia trong mẫu chung là 77,1% và với nhóm
các quốc gia đang phát triển là 64%. Nghiên cứu cũng đưa ra kết quả ước

lượng đối với nhóm các quốc gia trong mẫu chung với mỗi phần trăm tăng
lên của tỷ lệ nợ công so với GDP khi vượt quá ngưỡng nợ sẽ làm tỷ lệ tăng
trưởng GDP giảm 0,0174 điểm phần trăm, còn nếu dưới mức này mỗi phần
trăm tỷ lệ nợ tăng lên sẽ làm tỷ lệ tăng trưởng GDP tăng tương ứng 0,0653
điểm phần trăm. Đối với nhóm các quốc gia đang phát triển mỗi phần trăm
tăng lên của tỷ lệ nợ khi vượt quá ngưỡng nợ sẽ làm tỷ lệ tăng trưởng GDP
giảm 0,0203 điểm phần trăm và nếu dưới ngưỡng nợ mỗi phần trăm tăng
lên của tỷ lệ nợ sẽ làm tỷ lệ tăng trưởng GDP tăng lên tương ứng 0,0739
điểm phần trăm.
 Tokunbo và cộng sự (2007) nghiên cứu mối quan hệ thâm hụt ngân sách, nợ
nước ngoài và tăng trưởng kinh tế Nigeria. Ngoài giải thích mối liên hệ giữa
thâm hụt ngân sách với gia tăng nợ nước ngoài, nghiên cứu còn tập trung
vào phân tích mối quan hệ giữa các biến bằng mô hình định lượng trong
giai đoạn phát triển kinh tế của Nigeria từ năm 1970-2003. Các biến chính
trong mô hình định lượng là GDP theo giá cố định năm 1994, tỷ lệ nợ nước
15


ngoài trên GDP và độ mở nên kinh tế. Mô hình nghiên cứu được thể hiện
như sau:

Y = α1 + α2ψ + α3(ψ – ψ*) ∂ + α4OPEN + μ

Trong đó:
Y

: GDP giá cố định năm 1994 ψ: Tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP

Ψ*


: Ngưỡng nợ nước ngoài theo mô hình đường cong Laffer nợ



: Biến giả, ∂ = 1 nếu ψ > ψ*, ∂ = 0 nếu ψ < ψ*

OPEN : Độ mở nền kinh tế
μ

: Biến nhiễu trắng mô hình hồi quy.

Bằng kỹ thuật hồi quy theo phương pháp bình phương bé nhất và kỹ
thuật đồng liên kết, nghiên cứu đã khẳng định tồn tại đường cong Laffer nợ
tại Nigeria. Ngưỡng nợ được tìm thấy ở mức 60% GDP. Dưới mức này
quan hệ giữa GDP và tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP là cùng chiều, độ lớn
của hệ số tương quan được tìm thấy với phương pháp bình phương bé nhất
và đồng liên kết lần lượt là +390.1358; +64.60308 và nếu nợ nước ngoài
trên GDP vượt quá 60% sẽ tác động tiêu cực đến GDP, độ lớn của hệ số
tương quan được tìm thấy với phương pháp bình phương bé nhất và đồng
liên kết lần lượt là -779.9348; -374.2638.
Ngoài ra, Catherine Pattillo và cộng sự (2002) nghiên cứu nợ nước
ngoài và tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu cho 93 nước
đang phát triển trong giai đoạn 1969-1998. Qua nghiên cứu tác giả đã
chứng minh rằng ảnh hưởng của nợ nước ngoài tác động ngược chiều đến
tăng trưởng GDP bình quân đầu người bắt đầu xuất hiện tại khi hiện giá của
16


nợ trên xuất khẩu là 160-170% và tỷ lệ nợ trên GDP là 35-40%.
II. Nghiên cứu mức nợ công tối ưu cho Việt Nam


1. Thực trạng nợ công Việt Nam
1.1. Thực trạng nợ công Việt Nam hiện nay
Sau 30 năm mở cửa kinh tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử. Tiềm lực của đất nước đã lớn mạnh hơn nhiều, đời sống vật chất và
tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện, chính trị - xã hội ổn định. Trong
vòng 10 năm trở lại đây, GDP của Việt Nam đã có bước tăng trưởng tới hơn 4 lần,
nếu năm 2006 GDP cả nước chưa đạt 1.000 nghìn tỷ đồng và GDP/đầu người
khoảng 715 USD thì năm 2015 GDP đã đạt đến con số xấp xỉ 4.200 nghìn tỷ đồng
và GDP/đầu người là 2.019 USD. Nhưng năm 2016 nền kinh tế Việt Nam có mức
tăng trưởng GDP là 6,21%, thấp hơn năm 2015 và là năm đầu tiên có mức tăng
chậm lại kể từ 2012. Theo thông cáo của Tổng cục Thống kê Việt Nam, "mức tăng
trưởng năm 2016 tuy thấp hơn mức tăng 6,68% của năm 2015 và không đạt mục
tiêu tăng trưởng 6,7% đề ra, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới không thuận,
trong nước gặp nhiều khó khăn do thời tiết, môi trường biển diễn biến phức tạp thì
đạt được mức tăng trưởng trên là một thành công."
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước đang phát triển, quy mô nền
kinh tế của Việt Nam vẫn là nhỏ so với mặt bằng chung của thế giới; nền kinh tế
phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ là
chủ yếu. Do đó, hiện tại và trong tương lai gần, việc tăng vay nợ chính phủ nói
riêng và nợ công nói chung là một nhu cầu tất yếu vì Việt Nam vẫn rất cần sự hỗ
trợ về mặt tài chính (tức là vay nợ và viện trợ phát triển chính thức) từ các tổ chức
đơn phương, đa phương trên thế giới để phát triển nền kinh tế hơn nữa.
 Về quy mô nợ công:
Tính đến thời điểm đầu năm 2017, nợ công Việt Nam đang là 94,85 tỷ
USD, tương đương 45,6% GDP, chia bình quân đầu người là 1.039 USD,
mức gia tăng nợ là 9,3% /năm.
17



Còn theo báo cáo của Bộ Tài chính cho biết đến cuối năm 2016 dư nợ
công khoảng 64,73% GDP, dư nợ Chính Phủ khoảng 53,62%. Hai con số
này đều đã tiến đến sát ngưỡng nợ không quá 65% GDP, nợ Chính phủ
không quá 54% GDP trong Nghị quyết về kế hoạch tài chính quốc gia 5
năm giai đoạn 2016 – 2020.
Mặc dù Bộ Tài chính khẳng định nợ công được quản lý, kiểm soát chặt
chẽ đảm bảo trong giới hạn cho phép nhưng Thủ tướng trong phiên họp mới
đây với cơ quan này đã nhắc lại việc tỷ lệ nợ công tăng rất nhanh, mức tăng
trung bình 5 năm qua là 18,4%, gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế và việc
“nếu tính đủ thì nợ đã vượt quá trần cho phép”.
Năm

2011

2012

2013

2014

2015

2016

Dư nợ công 1.093

1.279

1.528


1.826

2.608

2.851

50,8

54,5

58

62,2

64,7

(1.000

tỷ

đồng)
Nợ

công/ 54,9

GDP (%)
Bảng 1: Bảng thống kê dư nợ công và tỷ lệ nợ công/GDP giai đoạn 2011 2016
(Nguồn: Bản tin nợ công, Bộ tài chính)
Theo nhiều chuyên gia, quy mô nợ công thực tế có thể cao hơn so với
mức công bố do cách thức xác định nợ công của Việt Nam và một số tổ

chức quốc tế có sự khác biệt. Cụ thể, nợ công theo tiêu chuẩn Việt Nam dựa
trên nguyên tắc: Trách nhiệm thanh toán thuộc về chủ thể đi vay; còn nợ
công theo tiêu chuẩn quốc tế được xác định trên cơ sở: Chủ sở hữu thực sự
hay pháp nhân đứng sau chủ thể đi vay phải có trách nhiệm thanh toán.
Theo đó, nợ công theo tiêu chuẩn quốc tế sẽ bằng nợ công theo tiêu chuẩn
Việt Nam cộng với nợ của: Ngân hàng Nhà nước, các doanh nghiệp nhà
nước, tổ chức bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội và một số địa phương.

18


Theo thông lệ quốc tế, ngưỡng nợ công tối ưu (nhằm đảm bảo nợ công
là động lực giúp tăng trưởng kinh tế) thông thường cho các nước phát triển
là 90%, các nước đang phát triển có nền tảng tốt là 60% và có nền tảng kém
là 30 - 40%. Vì vậy, mức ngưỡng nợ công/GDP được Quốc hội đề ra 65% là
phù hợp với thông lệ quốc tế; và việc vượt ngưỡng tối ưu có thể tiềm ẩn rủi
ro.
Nếu chỉ số nợ công/GDP của một quốc gia thể hiện quy mô nợ công so
với quy mô của nền kinh tế thì chỉ số nợ công trên bình quân đầu người thể
hiện trung bình mỗi người dân của quốc gia này đang gánh bao nhiêu nợ.
Tính đến khoảng tháng 11/2015, nợ công bình quân đầu người ở Việt
Nam xấp xỉ 1.000 USD. Xét về chỉ tiêu nợ công bình quân đầu người thì
Việt Nam ở mức khá thấp so với một số quốc gia khác trong khu vực
ASEAN. Cũng số liệu năm 2015, nước có chỉ số nợ công bình quân đầu
người cao nhất là Singapore với 56.000 USD, tiếp theo là Malaysia 7.696,9
USD, Thái Lan 3.450,8 USD. Việt Nam, Indonesia, Philippines có chỉ số nợ
bình quân đầu người năm 2015 xấp xỉ khoảng 1.000 USD. Thật vậy, trong
khối ASEAN, tương tự như Việt Nam, các nước Malaysia, Philippines và
Thái Lan đều duy trì tỷ lệ nợ công/GDP ở mức 45%-60%. Cá biệt có trường
hợp của Singapore có tỷ lệ nợ công/GDP rất cao (gần 94% năm 2015) và

Indonesia với tỷ lệ nợ công/GDP rất thấp (khoảng 25%-26%). Theo đó, quy
mô nợ công ở Singapore rất cao với khối nợ trên 278 tỷ USD.

19


Hình 2: Nợ công bình quân đầu người của Việt Nam từ 2006 đến 2015
(Nguồn: Economist Intelligence Unit, Vietdata tổng hợp)

20


Hình 3: Nợ công bình quân đầu người một số nước Đông Nam Á
giai đoạn 2011 – 2015
(Nguồn: CafeBiz)
 Về cơ cấu và kỳ hạn nợ công:
Theo khoản 2, Điều 1 Luật Quản lý nợ công số 29/2009/QH12, nợ công
của Việt Nam bao gồm: nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ
chính quyền địa phương, trong đó, nợ chính phủ bao gồm nợ trong nước và
nợ nước ngoài.
Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) có nhận định
rằng, cơ cấu nợ công của Việt Nam hiện đang từng bước được điều chỉnh
theo hướng bền vững hơn. Cụ thể, trong cơ cấu nợ Chính phủ, tỷ trọng nợ
trong nước đang có xu hướng tăng từ 39% năm 2011 lên 57% năm 2015 và
tỷ trọng nợ nước ngoài giảm tương ứng từ 61% năm 2011 xuống còn 43%
năm 2015. Tỷ trọng này là phù hợp với Chiến lược nợ công và nợ nước
ngoài của quốc gia giai đoạn 2011-2020 tầm nhìn đến 2030.

21



Hình

4:
Cơ cấu Nợ công Việt Nam
(Nguồn: Bộ Tài chính)
Về kỳ hạn, với nợ trong nước, chủ yếu phát hành trái phiếu trong nước,
nếu trong giai đoạn 2011-2013 phần lớn ngắn hạn thì đến năm 2014 kỳ hạn
là 3 năm; năm 2015, kỳ hạn kéo dài lên 4,4 năm và 6 tháng đầu năm 2016
thì kỳ hạn kéo dài lên 5 năm.
Mức lãi suất phát hành trái phiếu Chính phủ trên thị trường vốn trong
nước bình quân giảm từ mức 12%/năm vào năm 2011 xuống còn khoảng
6,5% vào năm 2014 và khoảng 6% vào năm 2015.
Đối với nợ nước ngoài, vay ODA, vay ưu đãi vẫn chiếm tỷ trọng cao
(trên 94%) với kỳ hạn còn lại bình quân trên 10 năm, lãi suất bình quân tính
đến cuối năm 2015 khoảng 2%/năm.
Cơ cấu đồng tiền của danh mục nợ của Chính phủ tập trung vào một số
đồng tiền chính bao gồm: đồng Việt Nam với tỷ trọng 55%; USD chiếm tỷ
trọng 16%; JPY chiếm tỷ trọng 13% và EUR chiếm tỷ trọng khoảng 7%,
còn lại là các đồng tiền khác.
Trên lý thuyết, điều này được cho là hạn chế rủi ro do biến động tỷ giá,
giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ.

 Về tình hình sử dụng nợ công:
Các chương trình đầu tư công, nợ công của Việt Nam được chuyển tải
vào các dự án đầu tư nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng, tạo nền tảng cho sự phát
22


triển kinh tế bền vững. Tuy nhiên, tình hình sử dụng nợ công ở Việt Nam

chưa đạt được hiệu quả cao, thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, còn tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn: Còn tình trạng
chậm trễ trong giải ngân nguồn vốn đầu tư từ NSNN và nguồn vốn trái
phiếu Chính phủ. Dù đã qua nửa năm 2016, nhưng tỷ lệ giải ngân vốn đầu
tư công chưa đạt được kế hoạch được giao, nhất là giải ngân nguồn vốn trái
phiếu Chính phủ. Vốn đầu tư XDCB từ nguồn vốn nhà nước thấp là nguyên
nhân cơ bản gây khó khăn cho công tác thu NSNN. Nếu không có các giải
pháp thúc đẩy tiến độ giải ngân, tăng trưởng của nền kinh tế sẽ bị ảnh
hưởng, trong khi tỷ lệ và nghĩa vụ vay trả nợ công ngày càng có nguy cơ
tăng cao.
Thứ hai, hiệu quả đầu tư chưa cao, thể hiện qua chỉ số ICOR: Năm
2015, tăng trưởng kinh tế đã dần hồi phục, với tăng trưởng GDP đạt 6,68%
- mức cao nhất kể từ năm 2008 đến nay, hiệu quả đầu tư đã có bước cải
thiện, với ICOR giai đoạn 2011-2015 đạt 6,91, giảm so với giai đoạn 20062010 (là 6,96). Điều này có nghĩa là, nếu giai đoạn 2006-2010, Việt Nam
cần 6,96 đồng vốn để tạo ra được 1 đồng sản lượng, thì giai đoạn 20112015 chỉ cần đầu tư 6,91 đồng. Rất đáng ghi nhận khi trong bối cảnh tổng
vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP giảm mạnh (còn khoảng 32,6% GDP vào
năm 2015) thì tốc độ tăng trưởng vẫn duy trì ở mức hợp lý. Song cũng cần
thẳng thắn, ICOR của Việt Nam còn cao, hiệu quả đầu tư còn thấp so với
nhiều nền kinh tế trong khu vực. Nguyên nhân một phần là do nền kinh tế
đang trong giai đoạn tập trung đầu tư cho hạ tầng, bao gồm cả hạ tầng ở
vùng sâu, vùng xa và đầu tư cho xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã
hội cộng với tình trạng đầu tư còn có sự dàn trải, lãng phí.
Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới, với tổng nhu cầu vốn
đầu tư toàn xã hội cho cả giai đoạn 5 năm 2016 – 2020 lên tới gần
10.600.000 tỷ đồng, bằng khoảng 32 – 34% GDP. Phải huy động được
nguồn vốn này, Việt Nam mới có thể đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế 6,5
– 7% và thực hiện khâu đột phá về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng
23



bộ, hiện đại, trong đó tập trung vào hệ thống giao thông, hạ tầng đô thị lớn.
Huy động vốn đã khó, nhất là trong bối cảnh ngân sách thâm hụt, bội chi
lớn, không đủ để chi thường xuyên và trả nợ, còn nợ công đang tăng nhanh,
áp lực trả nợ lớn, càng đòi hỏi phải sử dụng hiệu quả từng đồng vốn đầu tư,
làm giảm ICOR, đồng thời gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Tóm lại, có thể nhận thấy mặc dù cơ cấu nợ công được điều chỉnh theo
hướng bền vững hơn, nhưng việc sử dụng và trả nợ vẫn còn bất cập với quy
mô tăng.
1.2. Nguyên nhân nợ công Việt Nam gia tăng thời gian qua
Có rất nhiều nguyên nhân làm gia tăng nợ công của Việt Nam thời gian qua,
song những nguyên nhân cơ bản phải kể đến là:
 Thứ nhất, áp lực huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội lớn
trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế Việt Nam chậm lại.
Giai đoạn 2001 – 2005, đầu tư toàn xã hội bình quân 39% GDP; 2006 –
2010, đầu tư 42,9% GDP; 2011 – 2015, đầu tư giảm nhưng vẫn ở mức 32 –
33% GDP. Đầu tư ở mức tương đối cao trong khi tỷ lệ tiết kiệm của nền
kinh tế cho đầu tư thì chưa cao, khoảng 25% GDP. Như vậy, thiếu hụt về
nguồn cho đầu tư xã hội dẫn đến đi vay.
Bối cảnh kinh tế 2011 – 2015 không thuận lợi, đặc biệt là mục tiêu tăng
trưởng kinh tế phải điều chỉnh lại từ mức bình quân 7 – 7,5%/năm xuống
6,5 – 7%/năm.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn giữ nguyên các chỉ tiêu chi NSNN để đạt mục
tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, giảm khoảng cách
phát triển giữa khu vực thành thị - nông thôn. Trên thực tế, tăng trưởng bình
quân chỉ đạt 5,91% trong giai đoạn 2011 – 2015, trong khi mục tiêu kế
hoạch đề ra theo Nghị quyết 10/2011/QH3 của Quốc hội cho giai đoạn 2011
– 2015 là 6,5 – 7%/năm, thấp hơn so với mức tăng trưởng trung bình giai
đoạn 2006 – 2010 là 6,3%/năm. Trong khi nhu cầu vay và các chỉ tiêu khác
thì không điều chỉnh giảm.
24



Những tháng đầu năm 2016, nền kinh tế nước ta phải gánh chịu nhiều
thiệt hại do rét hại và băng giá ở phía Bắc, sau đó hạn hán kéo dài ở các tỉnh
miền Nam Trung bộ, Tây Nguyên, hạn hán, xâm nhập mặn ở đồng bằng
sông Cửu Long, sự cố do Formosa, kinh tế thế giới phục hồi chậm... Do đó,
tăng trưởng của nền kinh tế năm 2016 khó đạt được mục tiêu đề ra 6,7%.
Cơ sở để tính toán các chỉ tiêu tài khóa, bội chi, vay nợ đều xuất phát từ
tăng trưởng kinh tế. Khi chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế giảm nhưng các chỉ
tiêu kia không giảm, dẫn đến tỷ lệ nợ công so với GDP tăng lên.
 Thứ hai, bội chi NSNN gia tăng trong thời gian dài khiến vay nợ trở thành
nguồn lực để bù đắp vào thâm hụt ngân sách.
Sau khi Chính phủ thực hiện gói kích cầu năm 2009, ngân sách Nhà
nước những năm gần đây có mức thâm hụt ngày càng tăng vì phải dành
nguồn kinh phí lớn cho việc thực hiện các chính sách kích thích kinh tế, cải
cách tiền lương, bảo đảm an sinh xã hội. Về giá trị tuyệt đối, bội chi tăng từ
mức 65,8 nghìn tỷ đồng năm 2011 lên mức 263,2 nghìn tỷ đồng năm 2015.
So với GDP, bội chi đã tăng từ mức 4,4% GDP năm 2011 lên mức 6,1%
GDP năm 2015, cao hơn giới hạn 5% theo quy định của Chiến lược nợ công
và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn đến
2030. Giai đoạn 5 – 10 năm vừa qua, tốc độ tăng chi tiêu công của Việt
Nam quá lớn trong khi nguồn thu ngân sách lại không tăng tương ứng,
thành ra phải vay bù đắp, nợ công tăng rất nhanh. Điều đáng lo ngại là quy
mô nợ của Việt Nam rất lớn so với năng lực trả nợ.
Thêm nữa, thâm hụt ngân sách trong những năm gần đây là do chúng ta
chi tiêu quá nhiều chứ không phải do hụt thu. Tổng thu NSNN và viện trợ
trung bình trong bốn năm gần đây đạt khoảng 24% GDP, với tốc độ tăng
khoảng 10,4% mỗi năm. Một điểm đáng lưu ý trong điều hành NSNN của
Chính phủ những năm gần đây là chi đầu tư ngày càng giảm, chi thường
xuyên và chi khác tăng lên. Trong giai đoạn 2007-2013, chi đầu tư chiếm tỷ

trọng trung bình trong tổng chi là 27,7%. Tuy nhiên, trong hai năm 20142015, chi đầu tư chỉ còn 16,3% và 15,6% tổng chi. Là một nền kinh tế ở
25


×