Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng mua bán thủy hải sản tại Cà Mau - Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.92 KB, 66 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

HUỲNH ÚT MƯỜI

PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HỢP ĐỒNG
MUA BÁN THỦY HẢI SẢN TẠI CÀ MAU –
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

HUỲNH ÚT MƯỜI

PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HỢP ĐỒNG
MUA BÁN THỦY HẢI SẢN TẠI CÀ MAU –
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. DƯƠNG ANH SƠN


TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên Huỳnh Út Mười mã số học viên: 7701250696A là học viên lớp
LOP_K25_MBL_CaMau; Khóa K25-2 chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật,
Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn thạc sĩ luật học
với đề tài “Pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng mua bán thủy hải sản tại Cà
Mau - Thực trạng và giải pháp” (Sau đây gọi tắt là “Luận văn”).
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này là
kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn
khoa học. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học
của một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và
có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn
khách quan và trung thực.
Học viên thực hiện

Huỳnh Út Mười


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
Chương 1: Khái quát về hợp đồng và chế tài do vi phạm hợp đồng trong
thương mại .................................................................................................................5
1.1. Khái quát về hợp đồng và hợp đồng thương mại .............................................5
1.1.1. Khái quát về hợp đồng ...............................................................................5
1.1.1.1. Khái niệm về hợp đồng .......................................................................5

1.1.1.2. Chủ thể của hợp đồng .........................................................................7
1.1.1.3. Các loại hợp đồng chủ yếu ..................................................................8
1.1.2. Khái quát về hợp đồng thương mại .........................................................10
1.1.3. Các hình thức hợp đồng thương mại .......................................................14
1.2. Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại ..................................................15
1.2.1. Khái niệm.................................................................................................15
1.2.2. Đặc điểm của chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại .........................18
1.2.3. Căn cứ áp dụng chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại ................21
1.2.4. Các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại .........................24
1.2.4.1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng .........................................................24
1.2.4.2. Phạt vi phạm hợp đồng .....................................................................27
1.2.4.3. Bồi thường thiệt hại vi phạm hợp đồng ............................................30
1.2.4.4. Tạm ngừng, đình chỉ và hủy bỏ do vi phạm hợp đồng .....................32
1.2.4.5. Các biện pháp khác ...........................................................................36
1.2.5. Một số vấn đề miễn trách nhiệm và không phải chịu trách nhiệm
hợp đồng. ..........................................................................................................36
1.2.6. Sự kiện bất khả kháng ...........................................................................38
Chương 2: Thực trạng và giải pháp xử lý vi phạm hợp đồng mua bán thủy hải
sản tại Cà Mau, nhìn từ một số vụ tranh chấp .....................................................39
2.1. Thực trạng vi phạm hợp đồng mua bán thủy hải sản tại Cà Mau - đánh
giá việc vi phạm hợp đồng qua một số vụ tranh chấp .....................................39
2.2. Đề xuất giải pháp xử lý vi phạm hợp đồng mua bán thủy hải sản. ................48
2.2.1. Hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật liên quan đến vi phạm hợp đồng
thương mại. ........................................................................................................48
2.2.2. Nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp của tòa án ...............................53


2.2.3. Giải pháp đối với các cá nhân, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Cà
Mau trong giao dịch, mua bán thủy hải sản..................................................54
KẾT LUẬN .......................................................................................................59

DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Pháp luật về hợp đồng ở nước ta có quá trình phát triển qua từng giai đoạn,
phù hợp với hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội. Nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung
quan liêu bao cấp tồn tại và phát triển trong một thời gian dài ở nước ta. Mọi hoạt
động của các đơn vị kinh tế ở giai đoạn đó nhất nhất phải tuân theo kế hoạch, chỉ
tiêu mà Nhà nước đã ấn định. Mốc lịch sử quan trọng là Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI của Đảng năm 1986, Đại hội đã thành công và thổi một làn gió mới vào
tư duy kinh tế của chúng ta bằng việc đề ra công cuộc đổi mới nền kinh tế. Đảng
chủ trương xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp cũ, xây dựng nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường với sự quản lý của
nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó hàng loạt các văn bản pháp luật mới
được ra đời điều chỉnh lĩnh vực hợp đồng.
Hiện nay, khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là sau
khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), các quan hệ kinh tế ngày càng
pháp triển mạnh mẽ. Do được thiết lập trên nền tảng pháp lý của quyền tự do kinh
doanh, quan hệ thương mại và đầu tư có phương thức hình thành chủ yếu là thông
qua quan hệ hợp đồng. Sự thoả thuận, thống nhất ý chí một cách tự nguyện, bình
đẳng giúp cho các bên cùng có cơ hội tìm kiếm lợi nhuận và thực hiện các mục tiêu
nghề nghiệp của mình. Pháp luật hợp đồng với sứ mệnh là nền tảng pháp lý của mọi
sự thoả thuận tự nguyện luôn đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập các quan
hệ hợp đồng bình đẳng, an toàn cùng có lợi cho tổ chức, cá nhân. Từ năm 2005, khi
Luật Thương mại (2005) và Bộ luật Dân sự (2005) được ban hành, Pháp lệnh Hợp
đồng kinh tế năm 1989 bị huỷ bỏ, sự điều chỉnh đối với các quan hệ hợp đồng nói

chung và hợp đồng trong lĩnh vực thương mại nói riêng đã có sự thay đổi căn bản.
Đến nay, Bộ luật Dân sự (2015) tiếp tục được ban hành, đã quy định rõ nghĩa vụ
của các bên trong việc thực hiện các điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng. Nếu
một bên có hành vi vi phạm gây thiệt hại cho bên kia thì phải gánh chịu những hậu
quả pháp lý bất lợi. Việc quy định các hình thức chế tài trong thương mại có ý nghĩa
quan trọng nhằm đảm bảo ổn định các quan hệ hợp đồng, trật tự pháp luật, khôi
phục lợi ích của bên bị vi phạm, giáo dục ý thức pháp luật về hợp đồng. Tiếp nhận
sự đổi mới của hệ thống pháp luật về hợp đồng trong những năm gần đây, nhu cầu
tìm hiểu về vấn đề chế tài trong thương mại ngày càng trở nên bức thiết nhằm ổn


2

định các quan hệ hợp đồng, nhất là khi Việt Nam đã tham ra vào “sân chơi” quốc tế
về các vấn đề thương mại (Việt Nam tham gia vào tố chức Thương mại thế giới
WTO). Nhận thức rõ được điều đó, tác giả đã chọn đề tài: “Pháp luật về xử lý vi
phạm hợp đồng mua bán thủy hải sản tại Cà Mau - Thực trạng và giải pháp”
làm đề tài tốt nghiệp luận văn thạc sĩ của mình.
2. Câu hỏi nghiên cứu
- Hợp đồng và hợp đồng thương mại là gì? Cơ sở lý luận của chúng?
- Các chế tài do vi phạm hợp đồng như thế nào?
- Thực trạng vi phạm hợp đồng mua bán thủy hải sản ở tỉnh Cà Mau ra sao?
- Những giải pháp nào để khắc phục, đảm bảo việc thực hiện hợp đồng,
bảo vệ quyền lợi các bên?
3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu về chế định hợp đồng nói chung và về miễn trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng nói riêng đã được nhiều nhà nghiên cứu
tập trung tìm hiểu ở các khía cạnh khác nhau. Có thể kể đến các công trình nghiên
cứu sau: Tác giả Ngô Huy Cương với cuốn sách “Giáo trình luật hợp đồng Việt
Nam - Phần chung” Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2013; Tác giả Nguyễn Như

Phát, Lê Thị Thu Thủy với cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp
luật hợp đồng ở Việt Nam hiện nay”, Nxb. Công an nhân dân, năm 2003; Tác giả
Khúc Thị Trang Nhung, năm 2014 với luận văn thạc sỹ luật học “Những vấn đề về
miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo pháp luật Việt
Nam”; Tác giả Nguyễn Thị Hoàng Yến, năm 2015 với khóa luận tốt nghiệp cử nhân
luật “Pháp luật về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại
– thực tiễn áp dụng”; Tác giả Nguyễn Trung Chánh, 2008 với Luận văn thạc sĩ
“Phân tích ngành hàng tôm sú sinh thái ở Cà Mau”.
Những công trình nghiên cứu trên đây chủ yếu tập trung nghiên cứu về vấn
đề hợp đồng nói chung, các công trình trên mới chỉ dừng lại ở khía cạnh nghiên
cứu tổng thể, chỉ ra được những vấn đề chung nhất. Các bài viết nêu trên cũng đã
nghiên cứu một góc độ nào đó về vấn đề miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào ở cấp độ luận văn
thạc sĩ luật học về vấn đề xử lý vi phạm hợp đồng mua bán thủy hải sản tại Cà Mau.
Do đó, việc nghiên cứu đề tài càng có ý nghĩa thực tiễn.


3

4. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về vấn đề xử lý
vi phạm hợp đồng, các quy định của pháp luật về xử lý trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng, cũng như thực tiễn thực hiện trong những năm vừa qua. Luận văn nghiên cứu
tập trung chủ yếu trong phạm vi những quy định của Luật Thương mại (2005) và
Bộ luật dân sự Việt Nam (2015). Đặc biệt, luận văn tập trung chủ yếu ở việc nghiên
cứu những quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề hợp đồng nói chung và xử
lý trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong mua bán thủy hải sản tại Cà Mau nói
riêng về những vấn đề liên quan đến hợp đồng thương mại. Việc nghiên cứu có sự
so sánh giữa quy định của pháp luật Việt Nam với quy định của các nước khác trên
thế giới, qua đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật Việt

Nam về vấn đề xử lý thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
biện chứng, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới, xây dựng nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa; các chính sách pháp
luật, chính sách kinh tế của Nhà nước ta trong những năm qua. Trong quá trình
nghiên cứu luận văn, tác giả cũng kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu: so
sánh, tác giả đã tiến hành so sánh những quy định về căn cứ trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo pháp luật các nước trên thế giới với quy định
của pháp luật Việt Nam, so sánh những quy định trong Luật Thương mại (2005), Bộ
luật dân sự (2005) và Bộ luật dân sự (2015).
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Với phương pháp luận là Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
các quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới, xây dựng nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các chính sách pháp luật, chính
sách kinh tế giúp cho tư duy và góc độ nghiên cứu luôn đi đúng hướng và có hiệu
quả.
Đề tài được nghiên cứu dựa trên các cơ sở các ngành khoa học chuyên ngành
luật đặc biệt là chuyên ngành luật thương mại và những học thuyết về hợp đồng nói
chung và xử lý vi phạm hợp đồng nói riêng. Từ đó, sử dụng những phương pháp
phân tích, so sánh, đánh giá những quy định của pháp luật một cách khách quan và
chính xác nhất.


4

Đề tài nghiên cứu về vấn đề xử lý tranh chấp do vi phạm hợp đồng và có hệ
thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật kinh
doanh, hợp đồng kinh doanh và thương mại, miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng trong giai đoạn vừa qua.

Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về
hợp đồng.


5

Chương 1: Khái quát về hợp đồng và chế tài do vi phạm hợp
đồng trong thương mại
1.1. Khái quát về hợp đồng và hợp đồng thương mại
1.1.1. Khái quát về hợp đồng
1.1.1.1. Khái niệm về hợp đồng
Khi xã hội loài người có sự phân công lao động và xuất hiện hình thức trao
đổi hàng hóa thì hợp đồng đã hình thành và giữ một vị trí quan trọng trong việc điều
tiết các quan hệ tài sản. Hợp đồng là hình thức pháp lý thích hợp và có hiệu quả
trong việc đảm bảo sự vận động của hàng hoá - tiền tệ. Ngày nay, phần lớn các
quan hệ xã hội đều được điều chỉnh bằng hợp đồng. Vai trò và vị trí của chế định
hợp đồng ngày càng được khẳng định trong mọi hệ thống pháp luật. Trong hệ thống
pháp luật của một quốc gia, pháp luật về hợp đồng giữ vị trí vô cùng quan trọng.
Vai trò trung tâm của hợp đồng trong hệ thống kinh tế và pháp luật không phải là
ngẫu nhiên, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường, nơi mà mọi hàng hoá, dịch vụ...
phải được tự do lưu thông trên thị trường thì vai trò của hợp đồng ngày càng được
thể hiện rõ hơn, bởi lẽ trong các quan hệ hợp đồng thì ý chí của các bên mang tính
quyết định, về mặt nguyên tắc, pháp luật tôn trọng ý chí của các bên và chỉ can
thiệp trong các trường hợp mà ở đó có sự giới hạn của pháp luật.
Theo Bộ Luật Dân sự (2015), khái niệm hợp đồng như sau1: “Hợp đồng là
sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự”.
Hợp đồng có bản chất là sự tự nguyện thoả thuận và thống nhất ý chí nhằm
xác lập, thay đổi, hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể
trong xã hội. Hợp đồng là căn cứ pháp lý phổ biến làm phát sinh quyền và nghĩa vụ

giữa các bên. Giao kết và thực hiện các hợp đồng chính là cách thức cơ bản để thực
hiện hiệu quả các hoạt động kinh tế.
Khi nghiên cứu hợp đồng và pháp luật về hợp đồng, chúng ta cần tập trung
một số nội dung sau đây:
Thứ nhất, hợp đồng phải thể hiện được sự tự do ý chí của các bên tham gia
giao kết
Hợp đồng đóng vai trò quan trọng trong vận hành của nền kinh tế thị trường.
1

Điều 385, Bộ Luật Dân sự (2015).


6

Chức năng cơ bản của hợp đồng quyết định bản chất và giá trị xã hội của nó trong
điều kiện kinh tế xã hội của một quốc gia. Hiểu rằng hợp đồng là một loại giao ước
mà đặc điểm chung của chúng là sự thống nhất ý chí 2. Tự do ý chí trong giao kết
hợp đồng được hình thành và phát triển mạnh mẽ ở Pháp vào thế kỷ XVIII. Lúc đầu
nó đuợc coi là nguyên tắc độc tôn ý chí. Nguyên tắc này cho phép các cá nhân tự do
quyết định trong việc giao kết hợp đồng và khẳng định quyền của mỗi cá nhân tham
gia vào giao dịch chỉ phụ thuộc vào chính họ mà không phụ thuộc vào pháp luật.
Quan niệm này xuất phát từ việc cho rằng, nếu các cá nhân tự do giao kết thì sẽ đảm
bảo được sự công bằng trong quan hệ hợp đồng. Nguyên tắc tự do ký kết hợp đồng
đưa đến một hệ quả là hợp đồng khi đã đuợc ký kết thì có giá trị bắt buộc thực hiện.
Việc thay đổi hợp đồng cũng chỉ có thể được thực hiện bởi sự thoả thuận của các
chủ thể trong hợp đồng và không ai có quyền can thiệp vào quan hệ của họ cũng
như không có quyền làm thay đổi ý chí của họ. Khi nói đến hợp đồng ta hiểu các
chủ thể trong đó bình đẳng cả về quyền và nghĩa vụ. Nhưng trên thực tế các bên
tham gia ký kết hợp đồng thường không ngang bằng nhau mà có một bên mạnh hơn
và một bên yếu hơn về kinh tế. Do đó không có sự tự do ký kết hợp đồng mà

thường là một bên phụ thuộc vào ý chí của bên kia, bằng việc thông qua hợp đồng
do bên mạnh hơn định sẵn. Chính vì vậy, hợp đồng không còn kết quả của sự thể
hiện ý chí chung của các bên nữa mà nó trở thành hình thức biểu hiện của sự bất
bình đẳng giữa các bên với nhau. Do đó, đòi hỏi Nhà nuớc phải can thiệp đến các
quan hệ này thông qua pháp luật và chế định hợp đồng ra đời giữ một vị trí rất quan
trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ hợp đồng. Sự thay đổi từ quan điểm đề cao
lợi ích cá nhân sang đề cao lợi ích xã hội đã làm thay đổi các nguyên tắc này.
Thứ hai, hợp đồng là tập hợp những cam kết được pháp luật thừa nhận và
bảo vệ
Chế định hợp đồng luôn tôn trọng sự tự do của các bên giao kết, song sự tự
do đó phải giới hạn trong khuôn khổ pháp luật. Nói cách khác, pháp luật chỉ bảo vệ
những cam kết không xâm hại đến trật tự pháp luật, trật tự công cộng. Xuất phát từ
nguyên tắc cơ bản trong quan hệ dân sự là tôn trọng quyền tự do ý chí của mọi cá
nhân và các chủ thể khác trong việc xác lập quyền và nghĩa vụ của mình, pháp luật
các nước đều cho phép các chủ thể được hoàn toàn tự do giao kết hợp đồng, miễn là
sự tự do ý chí của các bên chủ thể khi giao kế hợp đồng “không được trái pháp
Ts. Ngô Huy Cương, 2009. Tự do ý chí và sự tiếp nhận ý chí trong pháp luật Việt Nam hiện nay. Đại học
Quốc gia Hà Nội. < [Ngày truy cập: 20/06/2017].
2


7

luật, đạo đức xã hội”3. Việc hình thành các hạn chế của nguyên tắc tự do trong ký
kết hợp đồng xuất phát từ quan điểm bảo vệ trật tự công và lợi ích chung của xã hội.
Vì vậy, pháp luật sẽ bảo vệ lợi ích và quyền của các bên, song lợi ích này phải
không được xâm hại đến trật tự và lợi ích công.
Tuy nhiên, chế định hợp đồng mang tính bắt buộc song cũng hết sức linh
hoạt, mềm dẻo. Điều này không dễ dàng đạt được nếu như quy định pháp luật
không được xây dựng theo hướng đề cao tự do ý chí của các bên, pháp luật chỉ can

thiệp ở giới hạn cần thiết.
1.1.1.2. Chủ thể của hợp đồng
Hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là
thương nhân. Luật thương mại (2005) quy định thương nhân bao gồm tổ chức kinh
tế được thành lập hợp pháp; cá nhân hoạt động thương mai một cách độc lập,
thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.
Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở
thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo Luật thương mại (2005), hoạt
động của bên chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm mục đích lợi
nhuận trong quan hệ mua bán hàng hóa phải tuân theo Luật thương mại khi chủ thể
này lựa chọn áp dụng Luật thương mại4.
Bộ luật dân sự quy định chủ thể hợp đồng là cá nhân, pháp nhân và các chủ
thể này có năng lực hành vi dân sự. Bộ luật Dân sự (2015) quy định5:“năng lực
pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ
dân sự”. Theo đó, chủ thể của hợp đồng là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, pháp
nhân và nhà nước là chủ thể đặc biệt.
Đối với chủ thể của hợp đồng thương mại thì thêm một điều kiện là ít nhất
một trong các bên giao kết phải là thương nhân, tức là hoạt động có mục đích lợi
nhuận. Chủ thể giao kết hợp đồng chính là chủ thể của hợp đồng hoặc người đại
diện hợp pháp của họ. Cần thấy rằng, người có thẩm quyền giao kết hợp đồng của
công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo
pháp luật được quy định trong điều lệ; người có thẩm quyền giao kết hợp đồng
doanh nghiệp tư nhân là cá nhân chủ sở hữu.

Văn phòng luật sư Tô Đình Huy, 2012. Nguyên tắc giao kết hợp đồng. < [Ngày truy cập: 28/06/2017].
4
Khoản 3, Điều 1, Luật Thương mại (2005).
5
Khoản 1, Điều 16, Bộ Luật Dân sự (2015).
3



8

Hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là
thương nhân. Luật Thương mại (2005) quy định thương nhân bao gồm tổ chức kinh
tế được thành lập hợp pháp; cá nhân hoạt động thương mai một cách độc lập,
thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.
Đối với chủ thể của hợp đồng thương mại thì thêm một điều kiện là ít nhất
một trong các bên giao kết phải là thương nhân, tức là hoạt động có mục đích lợi
nhuận. Chủ thể giao kết hợp đồng chính là chủ thể của hợp đồng hoặc người đại
diện hợp pháp của họ. Cần thấy rằng, người có thẩm quyền giao kết hợp đồng của
công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo
pháp luật được quy định trong điều lệ; người có thẩm quyền giao kết hợp đồng
doanh nghiệp tư nhân là cá nhân chủ sở hữu.
1.1.1.3. Các loại hợp đồng chủ yếu
Theo Bộ Luật Dân sự (2015), hợp đồng gồm các loại chủ yếu sau đây6:
“1. Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với
nhau.
2. Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ một bên có nghĩa vụ.
3. Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng
phụ.
4. Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính.
5. Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba là hợp đồng mà các bên giao kết
hợp đồng đều phải thực hiện nghĩa vụ và người thứ ba được hưởng lợi ích từ việc
thực hiện nghĩa vụ đó.
6. Hợp đồng có điều kiện là hợp đồng mà việc thực hiện phụ thuộc vào việc
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một sự kiện nhất định”.
Theo các quy định về phân loại hợp đồng dân sự như trên, ta có thể thấy:
Thứ nhất, phân loại hợp đồng dựa vào mối liên quan giữa chúng. Nếu dựa

vào mối liên quan về hiệu lực và chức năng giữa hai hợp đồng với nhau thì các hợp
đồng này được xác định thành: (1) Hợp đồng chính: là hợp đồng mà hiệu lực không
phụ thuộc vào hợp đồng kia; (2) Hợp đồng phụ: là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc
vào hợp đồng chính.
Theo đó, hợp đồng phụ có chức năng hỗ trợ, bảo đảm cho việc thực hiện hợp
đồng chính, hợp đồng phụ được thực hiện khi hợp đồng chính không được thực
6

Điều 402, Bộ Luật Dân sự (2015).


9

hiện hoặc chỉ được thực hiện một phần khi đến hạn. Cũng vì vậy, nếu hợp đồng
chính vô hiệu thì hợp đồng phụ cũng vô hiệu, trừ trường hợp hợp đồng chính vô
hiệu nhưng đã được thực hiện toàn bộ hoặc một phần.
Chẳng hạn, giữa hợp đồng vay tài sản với hợp đồng thế chấp tài sản để bảo
đảm thực hiện hợp đồng vay thì hợp đồng vay tài sản là hợp đồng chính, hợp đồng
thế chấp tài sản là hợp đồng phụ. Trong trường hợp hợp đồng vay vô hiệu và chưa
được thực hiện thì hợp đồng thế chấp cũng bị vô hiệu. Nếu hợp đồng vay vô hiệu
nhưng bên cho vay đã chuyển tài sản cho bên vay thì hợp đồng thế chấp vẫn có hiệu
lực pháp luật và bên thế chấp phải bảo đảm việc trả lại tài sản vay mà bên vay đã
nhận.
Thứ hai, phân loại hợp đồng dựa vào quyền và nghĩa vụ của các bên và ỷ
nghĩa của việc phân loại. Căn cứ vào quyền và nghĩa vụ của các bên, hợp đồng
được phân thành hai loại sau: Hợp đồng đơn vụ: là hợp đồng làm phát sinh quan hệ
nghĩa vụ giữa các bên tham gia hợp đồng mà trong quan hệ nghĩa vụ đó chỉ một bên
có nghĩa vụ; Hợp đồng song vụ: là hợp đồng làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ giữa
các bên tham gia hợp đồng mà trong quan hệ nghĩa vụ đó mỗi bên đều có nghĩa vụ
đối với nhau.

Như vậy, khi xác định một hợp đồng là đơn vụ hay song vụ phải dựa vào
quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm có hiệu lực của hợp đồng (chính là
thời điểm phát sinh quan hệ nghĩa vụ giữa các bên). Vì vậy, có thể cùng loại hợp
đồng nhưng ở trường hợp này là hợp đồng song vụ, ở trường hợp khác lại là hợp
đồng đơn vụ. Chẳng hạn, hợp đồng cho vay được thỏa thuận là có hiệu lực từ thời
điểm các bên cùng ký vào văn bản hợp đồng thì hợp đồng vay này là hợp đồng song
vụ vì từ thời điểm đó đã phát sinh một quan hệ nghĩa vụ và trong đó cả bên cho vay
và bên vay đều có nghĩa vụ (bên cho vay có nghĩa vụ giải ngân, bên vay có nghĩa vụ
trả nợ). Nếu hợp đồng cho vay được thỏa thuận là chỉ có hiệu lực khi bên cho vay
đã chuyển tài sản vay cho bên vay thì hợp đồng vay này là hợp đồng đơn vụ vì vào
thời điểm hợp đồng có hiệu lực, bên cho vay không còn nghĩa vụ.
Thứ ba, phân loại hợp đồng dựa vào sự trao đổi ngang giá và ỷ nghĩa của
việc phân loại. Hợp đồng có đền bù: là hợp đồng mà trong đó, một bên nhận được
lợi ích từ bên kia chuyển giao thì phải chuyển giao lại cho bên kia một lợi ích tương
ứng; Hợp đồng không có đền bù: là hợp đồng mà trong đó, một bên nhận được lợi
ích do bên kia chuyển giao nhưng không phải chuyển giao lại bất kỳ lợi ích nào.


10

Như vậy, căn cứ vào sự trao đổi ngang giá (có đi có lại về lợi ích giữa các
bên) để xác định hợp đồng nào là có đền bù, hợp đồng nào là không có đền bù.
Chẳng hạn, hợp đồng mua bán tài sản luôn luôn là hợp đồng có đền bù vì khi
bên mua nhận được tài sản do bên bán chuyển giao thì phải chuyển giao lại cho bên
bán một khoản tiền tương đương với giá trị tài sản đã nhận; hợp đồng cho vay có lãi
là hợp đồng có đền bù vì khi bên vay nhận được lợi ích là được sở hữu vốn vay
trong thời hạn nhất định thì phải chuyển giao cho bên cho vay một khoản lợi ích là
tiền lãi tương ứng với vốn vay và thời gian vay; hợp đồng cho vay không có lãi là
hợp đồng không có đền bù vì bên vay nhận được lợi ích là được sở hữu vốn vay
trong một thời hạn nhất định nhưng không phải chuyển giao cho bên cho vay một

lợi ích nào tương ứng với việc được sở hữu khoản vay trong thời hạn nhất định.
Thứ tư, phân loại hợp đồng theo thời điểm có hiệu lực. Hợp đồng ưng thuận:
là hợp đồng có hiệu lực trước thời điểm các bên chuyển giao đối tượng của hợp
đồng cho nhau. Ví dụ: hợp đồng mua bán tài sản có hiệu lực từ thời điểm giao kểt,
các bên có nghĩa vụ chuyển giao tài sản và trả tiền cho nhau sau thời điểm này là
một hợp đồng ưng thuận; Hợp đồng thực tế: là hợp đồng chỉ có hiệu lực khi các bên
đã chuyển giao đối tượng của hợp đồng cho nhau. Ví dụ: hợp đồng tặng cho luôn là
hợp đồng thực tế, vì pháp luật đã quy định hợp đồng này chỉ có hiệu lực vào thời
điểm bên được tặng cho đã nhận được tài sản tặng cho.
1.1.2. Khái quát về hợp đồng thương mại
Hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanh với nhau
và với các bên có liên quan về việc xác lập, thay đổi, hoặc chấm dứt các quyền và
nghĩa vụ trong hoạt động thương mại. Trong Luật thương mại (2005), không có
khái niệm hợp đồng thương mại, nhưng có thể hiểu hợp đồng thương mại là hình
thức pháp lý của hành vi thương mại, là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên (ít
nhất một trong các bên phải là thương nhân hoặc các chủ thể có tư cách thương
nhân) nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc
thực hiện hoạt động thương mại.
Trong Bộ luật dân sự (2015) có định nghĩa về hợp đồng mua bán tài sản7:
“Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển
giao quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán”. Hàng hóa
được hiểu là động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai, và các vật gắn
7

Điều 430, Bộ Luật Dân sự (2015).


11

liền với đất. Như vậy, hàng hóa thuộc tài sản và có phạm vi hẹp hơn tài sản. Từ đó

cho thấy, hợp đồng mua bán hàng hóa (thủy sản) trong thương mại là một dạng cụ
thể của hợp đồng mua bán tài sản. Điểm phân biệt giữa hợp đồng mua bán hàng hóa
trong thương mại và hợp đồng mua bán tài sản khác là: đối tượng hàng hóa, và mục
đích sinh lời.
Nội dung của hợp đồng thương mại nói riêng và hợp đồng nói chung là tổng
hợp các điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận, các điều
khoản này xác định những quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể của các bên giao kết
hợp đồng. Tuy nhiên, sự khác biệt cơ bản của hợp đồng thương mại là nội dung của
hợp đồng thương mại là hoạt động thương mại. Mỗi loại hợp đồng có những quy
định nhất định về các điều khoản cơ bản. Ví dụ : Đối với hợp đồng mua bán thì điều
khoản cơ bản bao gồm đối tượng và giá cả.
Pháp luật đề cao sự thỏa thuận giữa các bên giao kết, tuy nhiên nội dung của
hợp đồng phải tuân theo những quy định của pháp luật hợp đồng nói chung, được
quy định tại Điều 385, Bộ Luật Dân sự (2015). Trừ những điều khoản của pháp luật
có nội dung mang tính bắt buộc, các bên có thể thỏa thuận với nhau những nội dung
khác với nội dung quy định trong pháp luật. Nội dung cơ bản của hợp đồng được
quy định trong Bộ Luật Dân sự (2015) như sau8:
“1. Các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận về nội dung trong hợp
đồng.
2. Hợp đồng có thể có các nội dung sau đây:
a) Đối tượng của hợp đồng;
b) Số lượng, chất lượng;
c) Giá, phương thức thanh toán;
d) Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
đ) Quyền, nghĩa vụ của các bên;
e) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
g) Phương thức giải quyết tranh chấp”.
Theo quy định trên thì các bên giao kết hợp đồng có quyền thỏa thuận về các
nội dung của hợp đồng phù hợp với mục đích giao kết mà các bên đã đặt ra. Tuy
nhiên, xét về bản chất và vai trò của các điều khoản đối với sự hình thành hợp đồng

dân sự, thì có những điều khoản bắt buộc phải có, những điều khoản không bắt
8

Điều 398, Bộ Luật Dân sự (2015).


12

buộc phải có hoặc không bắt buộc các bên phải thỏa thuận. Hợp đồng có thể có các
nội dung sau đây:
– Đối tượng của hợp đồng là điều khoản cơ bản của mọi hợp đồng dân sự.
Đây là điều khoản bắt buộc phải có trong hợp đồng dân sự, đồng thời các bên phải
thỏa thuận cụ thể về điều khoản này. Nếu các bên không thỏa thuận về đối tượng
của hợp đồng thì hợp đồng không thể được hình thành. Trong các loại hợp đồng dân
sự thông dụng mà Bộ Luật Dân sự (2015) quy định, nếu dựa vào đối tượng thì được
phân chia thành hai nhóm: một là, các hợp đồng có đối tượng là tài sản; hai là, các
hợp đồng có đối tượng là công việc.
– Số lượng và chất lượng là các yếu tố thuộc về đối tượng của hợp
đồng. Trên thực tế, chỉ có số lượng mới là điều khoản cơ bản của hợp đồng, bởi nếu
các bên giao kết hợp đồng không thỏa thuận về số lượng của đối tượng thì không
thể xác định chính xác về đối tượng của hợp đồng, về chất lượng của đối tượng thì
trong nhiều trường hợp, nó không được coi là điều khoản cơ bản vì có thể xác định
được theo chất lượng trung bình của đối tượng cùng loại trên thị trường tại thời
điểm và địa điểm giao kết hợp đồng.
– Giá không phải là điều khoản bắt buộc đối với mọi trường hợp. Bởi vì,
trên thực tế, khi các bên không thỏa thuận về giá của đối tượng thì giá của đối tượng
vẫn có thể được xác định dựa vào giá thị trường của đối tượng cùng loại. Quy định
về giá chỉ bắt buộc trong những trường hợp đặc biệt liên quan đến các loại sản
phẩm, hàng hóa, các loại dịch vụ phải niêm yết giá để bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng.

– Phương thức thanh toán cũng không phải là điều khoản bắt buộc của mọi
hợp đồng. Các bên hoàn toàn có thể thỏa thuận để đưa ra phương thức thanh toán
cho phù hợp với nhu cầu và khả năng của mỗi bên. Trong trường hợp các bên
không thỏa thuận về phương thức thanh toán thì áp dụng quy định riêng đối với
từng loại hợp đồng hoặc áp dụng quy định chung về phương thức thực hiện của
từng loại nghĩa vụ dân sự trong Bộ Luật Dân sự (2015).
– Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng cũng không phải là
điều khoản bắt buộc các bên phải thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu các bên không
thỏa thuận về thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng thì thời hạn, địa
điểm, phương thức thực hiện hợp đồng được xác định theo quy định riêng đối với
từng loại hợp đồng hoặc quy định chung về thời hạn, địa điểm, phương thức thực
hiện nghĩa vụ dân sự trong Bộ Luật Dân sự (2015).


13

– Thông thường, đối với mỗi loại hợp đồng thì pháp luật đều quy định về
quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên. Tuy nhiên, khi giao kết hợp đồng, các bên
có thể thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ cụ thể của mỗi bên hoặc áp dụng các
quy định của pháp luật về vấn đề này. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận
về các quyền và nghĩa vụ của các bên thì các quy định của pháp luật về quyền và
nghĩa vụ của mỗi bên trong loại hợp đồng tương ứng vẫn được coi là mặc nhiên có
giá trị.
– Các bên giao kết hợp đồng có thể thỏa thuận về việc xác định trách nhiệm
dân sự khi có vi phạm hợp đồng. Sự thỏa thuận này có thể là về vấn đề phạt vi
phạm, bồi thường thiệt hại hoặc một loại trách nhiệm khác. Tuy nhiên, nếu các bên
không có thỏa thuận thì các quy định của pháp luật về trách nhiệm do vi phạm từng
loại hợp đồng nói riêng và các quy định về trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ
nói chung vẫn mặc nhiên được áp dụng.
– Xét về bản chất, quan hệ pháp luật về hợp đồng được hình thành trên cơ sở

sự thỏa thuận và thống nhất ý chí của các bên tham gia giao kết. Khi tham gia giao
kết hợp đồng, các bên được quyền tự định đoạt tất cả các vấn đề liên quan đến hình
thức, nội dung, thậm chí là cả phương thức giải quyết tranh chấp. Phương thức giải
quyết tranh chấp được ưu tiên hàng đầu luôn là thương lượng và hòa giải giữa các
bên. Tòa án chỉ có quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng khi các bên có yêu cầu và
chỉ được giải quyết trong phạm vi yêu cầu.
Như vậy, theo quy định của Bộ luật Dân sự (2015), thì nội dung hợp đồng
trước hết tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, các bên nên có những
nội dung cơ bản như trên để đảm bảo nội dung đúng quy định.
Ngoài ra, để làm rõ nội dung của hợp đồng, có sự bổ sung bởi phụ lục hợp
đồng. Phụ lục hợp đồng có hiệu lực như hợp đồng, nhưng nội dung của phụ lục
không được trái với hợp đồng. Trường hợp phụ lục có điều khoản trái với nội dung
của điều khoản trong hợp đồng thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác. Nếu các bên chấp nhận phụ lục hợp đồng có điều khoản trái
với điều khoản trong hợp đồng thì coi như điều khoản đó trong hợp đồng đã được
sửa đổi.
Trường hợp luật, tiền lệ, thói quen chưa có quy định, thì áp dụng tập quán
thương mại, tức là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại
trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng được các


14

bên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương
mại.
1.1.3. Các hình thức hợp đồng thương mại
Hợp đồng mua bán hàng hóa chủ yếu là phương tiện để ghi nhận nội dung
mà các chủ thể đã xác định. Tùy thuộc vào nội dung, tính chất của từng hợp đồng
cũng như tùy thuộc vào độ tin tưởng lẫn nhau mà các bên có thể lựa chọn một hình
thức nhất định trong việc giao kết hợp đồng cho phù hợp với từng trường hợp cụ

thể. Điều 24, Luật Thương mại (2005) quy định:
“1. Hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản
hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
2. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải
được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó”.
Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng
văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc phải xin phép thì phải
tuân theo các quy định đó.
Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
Như vậy, hình thức của hợp đồng tương đối đa dạng tạo điều kiện cho các
chủ thể ký kết thuận tiện. Đối với những hợp đồng mà pháp luật đã quy định buộc
phải giao kết theo một hình thức nhất định thì các bên phải tuân theo hình thức đó.
Ngoài ra, đối với những hợp đồng khác, các bên có thể chọn một trong những hình
thức sau đây để giao kết:
Hình thức miệng (bằng lời nói): Thông qua hình thức này, các bên giao kết
hợp đồng chỉ cần thoả thuận miệng với nhau về nội dung cơ bản của hợp đồng hoặc
mặc nhiên thực hiện những hành vi nhất định đối với nhau. Hình thức này thường
được áp dụng trong những trường hợp các bên đã có độ tin tưởng lẫn nhau hoặc đối
với những hợp đồng mà ngay sau khi giao kết sẽ được thực hiện và chấm dứt.
Hình thức viết (bằng văn bản): Nhằm nâng cao độ xác thực về những nội
dung đã cam kết, các bên có thể ghi nhận nội dung giao kết hợp đồng bằng một văn
bản. Trong văn bản đó, các bên phải ghi đầy đủ những nội dung cơ bản của hợp
đồng và cùng ký tên xác nhận vào văn bản. Khi có tranh chấp, hợp đồng được giao
kết bằng hình thức văn bản tạo ra chứng cứ pháp lý chắc chắn hơn so với hình thức
miệng. Căn cứ vào văn bản của hợp đồng, các bên dễ dàng thực hiện quyền yêu cầu
của mình đối với bên kia. Vì vậy, đối với những hợp đồng mà việc thực hiện không


15


cùng lúc với việc giao kết thì các bên thường chọn hình thức này. Thông thường,
hợp đồng được lập thành nhiều bản và mỗi bên giữ một bản, coi như đã có trong tay
một bằng chứng, chứng minh quyền dân sự của mình.
Hình thức có chứng nhận, chứng thực: Đối với những hợp đồng có tính chất
phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp và đối tượng của nó là những tài sản mà Nhà nước
cần phải quản lý, kiểm soát khi chúng được dịch chuyển từ chủ thể này sang chủ thể
khác thì các bên phải lập thành văn bản có công chứng, chứng thực. Hợp đồng được
lập ra theo hình thức này có giá trị chứng cứ cao nhất. Vì vậy, đối với những hợp
đồng mà pháp luật không yêu cầu phải lập theo hình thức này nhưng để quyền lợi
của mình được bảo đảm, các bên vẫn có thể chọn hình thức này để giao kết hợp
đồng.
Hợp đồng mua bán thủy hải sản chủ yếu được giao kết bằng lời nói, bằng
văn bản. Tuy nhiên, bằng văn bản, chủ yếu được áp dụng giữa các công ty với nhau;
còn lại bằng lời nói, được áp dụng phổ biến chủ yếu giữa người sản xuất với nhau,
cá nhân thu mua thủy hải sản với hộ gia đình, cá nhân sản xuất thủy hải sản.
Hình thức hợp đồng mua bán thủy hải sản nói trên, xuất phát từ tập quán
hoạt động sản xuất nhỏ lẻ nông thôn, giá trị tài sản thủy hải sản đối với từng hộ gia
đình trong mỗi lần giao dịch không lớn, thời gian giao dịch cần nhanh gọn, cũng
như pháp luật chưa quy định bắt buộc hình thức giao dịch hợp đồng này phải bằng
văn bản.
Đối với hình thức hợp đồng mua bán thủy hải sản thực hiện bằng lời nói, do
đó, xác định quyền và nghĩa vụ của các bên giao dịch, tất nhiên khó đảm bảo chặt
chẽ, mà chủ yếu dựa vào lòng tin, sự trung thực của các bên; khi mâu thuẫn phát
sinh, một mặt khó xác định nội dung thỏa thuận, quyền, nghĩa vụ của các bên chặt
chẽ.

1.2. Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại
1.2.1. Khái niệm
Chế tài thương mại và chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại là hai khái

niệm không hoàn toàn đồng nhất. Tuy nhiên, thực tiễn pháp lý ở Việt Nam vẫn có
cách nhận diện khác nhau về vấn đề này.
Theo nghĩa rộng, chế tài trong thương mại là những hình thức chế tài áp
dụng với các tố chức, cá nhân có hành vi vi phạm trong lĩnh vực thương mại. Hành
vi vi phạm ở đây là hành vi xâm phạm trái pháp luật đến lợi ích của đối tác, người


16

tiêu dùng, xã hội và trật tự quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thương mại, bao gồm:
Thứ nhất, hành vi vi phạm được quy định tại Điều 320, Luật Thương mại
(2005). Theo đó, các hành vi vi phạm pháp luật về thương mại bao gồm:
+ Vi phạm các quy định về đăng ký kinh doanh; giấy phép kinh doanh của
thương nhân; thành lập và hoạt động của văn phòng đại diện, chi nhánh của thương
nhân Việt Nam và của thương nhân nước ngoài;
+ Vi phạm các quy định về hàng hóa, dịch vụ kinh doanh trong nước và hàng
hóa, dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu; tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập; chuyển
khẩu; quá cảnh;
+ Vi phạm chế độ thuế, hóa đơn, chứng từ, sổ và báo cáo kế toán;
+ Vi phạm các quy định về giá hàng hóa, dịch vụ;
+ Vi phạm các quy định về nghi nhãn hàng hóa lưu thông trong nước và hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu;
+ Buôn lậu, kinh doanh hàng nhập lậu, buôn bán hàng giả hoặc nguyên liệu,
vật liệu phục cho sản xuất hàng giả, kinh doanh trái phép;
+ Vi phạm các quy định về liên quan đến chất lượng hàng hoá dịch vụ kinh
doanh trong nước và hàng hóa dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu;
+ Gian lận, lừa dối khách hàng khi mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
+ Vi phạm các quy định liên quan đến bảo vệ quyền lợi của nguời tiêu dùng;
+ Vi phạm các quy định về quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa, dịch vụ
kinh doanh trong nuớc và xuất khẩu, nhập khẩu;

+ Vi phạm các quy định về xuất xứ hàng hóa;
+ Các vi phạm khác trong hoạt động thương mại theo quy định của pháp luật.
Những vi phạm pháp luật này mang đặc điểm chung là vi phạm chế độ quản
lý Nhà nuớc trong lĩnh vực thương mại, xâm phạm trật tự quản lý hoạt động thương
mại của Nhà nước. Đối với những vi phạm thuộc nhóm này, tùy theo tính chất, mức
độ vi phạm và hậu quả xảy ra, thương nhân có thể bị áp dụng các chế tài, như: chế
tài dân sự, chế tài hành chính hoặc chế tài hình sự.
Thứ hai, hành vi vi phạm hợp đồng thương mại
Để tiến hành các hoạt động thương mại, thương nhân phải ký kết và thực
hiện các hợp đồng thương mại. Khi hợp đồng được hình thành và có hiệu lực pháp
luật, những cam kết trong hợp đồng có giá trị bắt buộc thực hiện đối với các bên.
Nếu một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ
đã thỏa thuận thì bị coi là vi phạm hợp đồng thuơng mại. Trong hợp đồng thương


17

mại ngoài các điều khoản do các bên thỏa thuận và ghi rõ trong hợp đồng thì các
bên còn phải tuân thủ những nội dung pháp lý bắt buộc đã được pháp luật quy định
mà các bên có thể thỏa thuận hoặc không thỏa thuận trong hợp đồng (điều khoản
thường lệ). Mặc dù, những điều khoản này không được đưa vào hợp đồng nhưng
theo quy định của pháp luật thì việc các bên không thục hiện những điều khoản này
cũng sẽ bị coi là hành vi vi phạm hợp đồng thương mại, cũng tức là vi phạm pháp
luật về hợp đồng thương mại và sẽ bị áp dụng chế tài. Các hình thức chế tài do vi
phạm hợp đồng thương mại bao gồm: buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm,
bồi thường thiệt hại... Như vậy, hành vi vi phạm trong lĩnh vực thương mại không
chỉ bao gồm các hành vi vi phạm chế độ quản lý Nhà nuớc trong lĩnh vực thương
mại, xâm phạm trật tự quản lý hoạt động thương mại của Nhà nuớc được quy định
tại Điều 320, Luật Thương mại (2005) mà còn bao gồm những hành vi vi phạm hợp
đồng thương mại. Phù hợp với từng loại hành vi vi phạm, pháp luật hiện hành quy

định các hình thức trách nhiệm pháp lý với nhiều loại chế tài khác nhau. Theo nghĩa
này, chế tài trong thương mại có thể được áp dụng đối với mọi vi phạm pháp luật
thương mại: từ những hành vi làm tổn hại đến lợi ích Nhà nước, lợi ích của người
tiêu dùng như đầu cơ lũng đoạn thị trường... đến các vi phạm pháp luật có tính chất
“riêng tư” giữa các thương nhân, như hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng các cam kết trong hợp đồng. Những hình thức chế tài được áp dụng trong các
trường hợp này có thể là chế tài hành chính, chế tài hình sự hoặc chế tài mang tính
chất dân sự, phù hợp với tính chất của từng loại hành vi vi phạm, về phạm vi áp
dụng, chế tài thương mại được áp dụng đối với mọi hành vi vi phạm trong lĩnh vực
thương mại. Chủ thế quyết định áp dụng biện pháp chế tài là cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền (cơ quan quản lý Nhà nuớc đối với chế tài hành chính, Tòa án đối với
chế tài hình sự...) hoặc chính thương nhân bị vi phạm trong quan hệ hợp đồng.
Theo nghĩa hẹp, chế tài thương mại là hình thức chế tài áp dụng đối với các
chủ thế không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các cam kết theo
hợp đồng, theo đó bên có hành vi vi phạm hợp đồng thương mại phải gánh chịu một
hậu quả pháp lý bất lợi do hành vi vi phạm đó gây ra.
Như vậy, chế tài thương mại (theo nghĩa hẹp) được hiểu đồng nghĩa với chế
tài do vi phạm hợp đồng thương mại. Theo Điều 292, Luật Thương mại (2005), các
loại chế tài trong thương mại bao gồm: Buộc thực hiện đúng hợp đồng; Phạt vi
phạm; Buộc bồi thường thiệt hại; Tạm ngừng thực hiện hợp đồng; Đình chỉ thực
hiện hợp đồng; Hủy bỏ hợp đồng; Các biện pháp khác do các bên thoả thuận không


18

trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế. Đối
với các hành vi vi phạm pháp luật về thương mại quy định tại Điều 320 thì sẽ áp
dụng biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về thương mại quy định tại chương VIII
của Luật Thương mại (2005).

Như vậy, Luật Thương mại (2005) tiếp cận chế tài thương mại theo nghĩa
hẹp, thể hiện sự gánh chịu hậu quả bất lợi của bên có hành vi vi phạm hợp đồng
trong thương mại. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thức rằng, bên cạnh các hình thức
chế tài quy định tại chương VII chế tài trong thương mại bao gồm cả các biện pháp
xử lý vi phạm pháp luật về thương mại quy định tại chương VIII của Luật Thương
mại (2005).
1.2.2. Đặc điểm của chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại
Thứ nhất, chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại phát sinh trong quá trình
thực hiện hợp đồng.
Khác với trách nhiệm pháp lý nói chung được áp dụng đối với mọi vi phạm
pháp luật, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong thương mại chỉ được áp dụng đối
với những vi phạm pháp luật hợp đồng hay vi phạm những điều khoản mà các bên
đã thoả thuận. Xuất phát từ nguyên tắc tự do hợp đồng đã được pháp luật thừa nhận,
các bên được quyền tự do quyết định việc giao kết những hợp đồng trong thương
mại phù hợp với mục đích kinh doanh của mình. Chính vì vậy, trách nhiệm hợp
đồng chủ yếu phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng (khi đã có hợp đồng và
các bên đã bị ràng buộc với nhau về quyền và nghĩa vụ).
Thứ hai, chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại là loại trách nhiệm
pháp lý mang tính tài sản
Đặc điểm chung của bất kỳ loại trách nhiệm pháp lý nào cũng đều là sự tước
đoạt hay hạn chế các quyền về tài sản hay phi tài sản của chủ thể có hành vi vi
phạm. Khác biệt với đặc điểm chung này, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong
thương mại được áp dụng khi có hành vi vi phạm hợp đồng và hợp đồng thương
mại sẽ buộc bên vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về tài sản. Yếu tố tài
sản thể hiện ở cách thức bên vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, đó là:
- Bên vi phạm phải dùng tiền (tài sản) thuộc quyền sở hữu hoặc quyền quản
lý của doanh nghiệp (đối với doanh nghiệp Nhà nước) để thực hiện nghĩa vụ nộp
phạt, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do đã không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng, không đầy đủ cam kết trong hợp đồng. Việc nộp tiền phạt hay bồi thường



19

thiệt hại được thực hiện theo sự thoả thuận của các bên trong hợp đồng hoặc theo
quy định của pháp luật.
- Bên vi phạm buộc phải có những chi phí hợp lý cần thiết để thực hiện nghĩa

vụ hợp đồng khi bên bị vi phạm áp dụng chế tài buộc thực hiện hợp đồng (ví dụ: chi
phí để sửa chữa sai sót, loại trừ khuyết tật của hàng hoá...).
- Việc áp dụng các hình thức chế tài tạm ngừng, đình chỉ hay huỷ bỏ hợp

đồng ít nhiều cũng ảnh hưởng đến lợi ích của bên vi phạm.
Thứ ba, cơ sở phát sinh chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại là
hành vi vi phạm hợp đồng thương mại
Hợp đồng có hiệu lực pháp luật trở thành “luật” đối với các bên, là cơ sở phát
sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên. Việc không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, không đầy đủ những nghĩa vụ pháp lý đó đuợc coi là hành vi vi phạm
hợp đồng đã ký kết. Đối với hợp đồng có nội dung trái pháp luật, không có hiệu lực
pháp luật thì không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với các bên ngay từ thời
điểm ký kết. Vì vậy, hành vi không thực hiện hay thục hiện không đúng, không đầy
đủ những cam kết trong hợp đồng đó không đuợc coi là sự vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng và các bên không phải thực hiện trách nhiệm hợp đồng.
Hành vi vi phạm được biểu hiện ở việc không thực hiện, thực hiện không
đúng, không đầy đủ các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng có hiệu lực pháp
luật. Nếu các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng được thực hiện đầy đủ thì trách
nhiệm hợp đồng không được đặt ra. Tuy nhiên, họp đồng có hiệu lực pháp luật và vi
phạm hợp đồng chỉ là điều kiện pháp lý để một bên có quyền yêu cầu bên kia thực
hiện trách nhiệm hợp đồng. Trên thực tế, bên có hành vi vi phạm hợp đồng có bị áp
dụng chế tài hay không còn phải phụ thuộc vào việc chứng minh có hội đủ các căn
cứ xác định trách nhiệm hợp đồng đối với từng hình thức chế tài do vi phạm hợp

đồng.
Thứ tư, chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại áp dụng trực tiếp đối với
bên vi phạm.
Nguyên tắc chịu trách nhiệm trực tiếp được áp dụng đối với bên vi phạm.
Khi có sự vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm phải trực tiếp chịu trách nhiệm đối với
bên bị vi phạm không phụ thuộc vào nguyên nhân sự vi phạm là do tổ chức, cá nhân
nào gây ra. Trong hoạt động thương mại thường tồn tại một xâu chuỗi các mối quan
hệ giữa các chủ thể với nhau. Ví dụ: A ký hợp đồng bán hàng hóa với B, B lại bán
lại cho C, rồi C lại bán lại cho D... Khi A vi phạm hợp đồng thì kéo theo B vi phạm


20

họp đồng với C và tiếp đó C lại vi phạm hợp đồng với D... Nhưng khi có hành vi vi
phạm hợp đồng, chế tài thương mại sẽ được áp dụng trực tiếp đối với bên vi phạm.
Tính phân định trách nhiệm trong chuỗi mối quan hệ này thể hiện ở việc C sẽ phải
chịu trách nhiệm trực tiếp đối với D do hành vi vi phạm của mình mà không cần xét
đến nguyên nhân của vi phạm đó là do A hay B gây ra. Việc bên vi phạm phải trực
tiếp chịu trách nhiệm với bên bị vi phạm thể hiện ở các khía cạnh cơ bản sau đây:
- Bên vi phạm hợp đồng phải dùng tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền
quản lý của mình để nộp tiền phạt hợp đồng hoặc bồi thường thiệt hại.
- Khi bị áp dụng chế tài buộc thực hiện hợp đồng, bên vi phạm phải trực tiếp

thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, phải dùng tài sản của mình để trang trải các chi phí
sửa chữa, loại trừ khuyết tật của hàng hoá hoặc phải chấp nhận phải giảm giá.
- Khi áp dụng chế tài tạm dừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp
đồng hay hủy hợp đồng, bên bị áp dụng và trực tiếp bị ảnh huởng tới quyền và lợi
ích cũng chính là bên vi phạm. Phù hợp với quyền tự do kinh doanh, quyền tự do
hợp đồng được pháp luật bảo hộ, khi các bên tự nguyện thiết lập quan hệ hợp đồng
thì nghĩa vụ hợp đồng phát sinh và là nghĩa vụ trực tiếp của các bên với nhau.

Chính vì vậy, khi truy cứu trách nhiệm hợp đồng, bên bị vi phạm là chủ thể được
thụ hưởng trọn vẹn sự bù đắp mà bên vi phạm đã thực hiện.
Thứ năm, chủ thể có quyền lựa chọn và quyết định áp dụng các hình thức chế
tài do vi phạm hợp đồng thương mại là bên bị vi phạm trong quan hệ hợp đồng.
Khi có hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại, bên bị vi phạm có quyền
yêu cầu bên vi phạm thực hiện một hay nhiều hình thức chế tài theo sự cam kết
trong hợp đồng hoặc theo quy định pháp luật. Trường hợp yêu cầu thực hiện chế tài
trong thương mại không được đáp ứng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu Tòa án
hoặc Trọng tài bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nội dung đơn khởi kiện
chính là sự thể hiện quyền lựa chọn và quyết định áp dụng các chế tài của bên bị vi
phạm đối với bên vi phạm hợp đồng thương mại đã ký kết. Trong khuôn khổ pháp
luật, thương nhân bị vi phạm có thể yêu cầu thương nhân có hành vi vi phạm thực
hiện một phần nghĩa vụ tài sản. Tòa án hay Trọng tài khi được yêu cầu giải quyết
tranh chấp phải tôn trọng quyền tự định đoạt của nguyên đơn hoặc cũng có thế là
yêu cầu phản tố của bị đơn. Việc Tòa án hay Trọng tài ban hành phán quyết buộc bị
đơn phải nộp tiền phạt hay tiền bồi thuờng thiệt hại thể hiện việc những cơ quan này
đã chấp nhận một phần hay toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn. Thực chất, Tòa án hay
Trọng tài không trực tiếp quyết định áp dụng hình thức chế tài nào, hay có áp dụng


×