Giớ i thiệ u
− 13 −
Giới thiệu
Những trò đánh đố rắc rối
của Harry Harlow và Edward Deci
iữa thế kỷ trước, hai nhà khoa học trẻ đã thực hiện
những thí nghiệm lẽ ra đã thay đổi cả thế giới −
nhưng điều đó lại không xảy ra.
Harry F. Harlow là một giáo sư chuyên ngành tâm
lý học tại Đại học Wisconsin. Vào những năm 1920,
ông đã thành lập một trong những phòng thí nghiệm
đầu tiên trên thế giới nhằm nghiên cứu hành vi của
loài linh trưởng.
Một ngày năm 1949, Harlow cùng hai
đồng nghiệp đã tập hợp tám con khỉ nâu để phục vụ
một thí nghiệm về học tập kéo dài hai tuần. Các nhà
nghiên cứu đặt ra một trò ch
ơi cơ học như trong hình
dưới đây. Để chơi trò này, người chơi cần phải trải
qua ba bước: rút cây đinh dọc ra, tháo móc và nhấc
chiếc nắp có bản lề lên. Với
tôi và bạn: điều này dễ
như ăn kẹo, nhưng với một con khỉ nặng 6 kg ở phòng
thí nghiệm: khoai đây.
G
ĐỘNG LỰC 3.0
− 14 −
Đồ chơi của Harlow ở trạng thái ban đầu (bên phải)
và sau khi đã được giải quyết (bên trái).
Các nhà khoa học đặt những món đồ chơi nói trên vào
chuồng của lũ khỉ và quan sát xem chúng phản ứng ra
sao − và cũng để chuẩn bị cho chúng trước khi tham gia
các bài kiểm tra năng l
ực giải quyết vấn đề vào cuối tuần
thứ hai. Song gần như ngay lập tức, một điều lạ lùng đã
xảy ra. Dù không hề bị kích động bởi bất cứ yếu tố ngoại
cả
nh nào cũng như chẳng phải chờ các nhà khoa học
thúc bách, lũ khỉ bắt đầu chơi trò chơi với tất cả sự
chuyên chú, quyết tâm và biểu hiện gì đó gần như là
niềm
thích thú. Và chẳng bao lâu sau, chúng đã dần
phát hiện ra cách thức vận hành của cỗ máy đơn giản
này. Khi Harlow “sát hạch” lũ khỉ đến ngày thứ 13 và
14, các anh em họ nhà linh trưở
ng đã tỏ ra khá thuần
thục. Chúng xử lý trò đánh đố này cực kỳ thường xuyên
và nhanh nhẹn: 2/3 trong tổng số lần chúng tìm ra lời
giải chỉ sau chưa đầy sáu mươi giây.
Giớ i thiệ u
− 15 −
Chà, chuyện này quả có hơi kỳ quặc thật. Chưa từng
có ai dạy bọn khỉ phải rút đinh, đẩy chốt và mở nắp như
thế nào. Chưa từng có ai thưởng cho chúng thức ăn,
tình
cảm, hay thậm chí chỉ là vài tiếng vỗ tay khích lệ khi
chúng thành công. Và thực tế đó trái ngược hoàn toàn
với những quan niệm vẫn được chấp nhận rộng rãi về
cách thứ
c hành xử của các loài linh trưởng − bao gồm cả
nhóm động vật có bộ não lớn hơn, ít lông lá hơn mà
chúng ta vẫn gọi là người.
Thời ấy, các nhà khoa học đã biết
rằng có hai động
lực chính thúc đẩy hành vi. Thứ nhất là động lực sinh
học. Con người và các loại động vật khác ăn để khỏa lấp
cơn đói, uống để chấm dứt cơn khát
và giao cấu để thỏa
mãn nhu cầu sinh lý của mình. Song điều đó không xảy
ra ở đây. “Việc giải đố không mang lại thức ăn, nước
uống, hay lạc thú tính dục”, Harlow nhận xét.
Song
động lực còn lại cũng không thể giải thích được
hành vi khác thường của lũ khỉ. Nếu như các động lực
sinh học có nguồn gốc tự thân thì động lực thứ hai này
lại
xuất phát từ bên ngoài − những phần thưởng và hình
phạt mà môi trường xung quanh mang tới để đổi lại việc
hành xử theo những cách nhất định. Điều này hoàn toàn
đúng với con người,
chúng ta luôn phản ứng vô cùng
tinh nhạy trước những yếu tố ngoại cảnh kiểu này. Nếu
anh hứa tăng lương, chúng tôi sẽ làm việc chăm chỉ hơn.
Nếu anh vẽ ra vi
ễn cảnh được nhận điểm 10 cho bài
kiểm tra, chúng tôi sẽ học chăm chỉ hơn. Nếu anh dọa sẽ
phạt chúng tôi vì đi muộn hoặc vì điền không đúng mẫu
ĐỘNG LỰC 3.0
− 16 −
đơn, chúng tôi sẽ đến đúng giờ và đánh dấu không sót
một ô nào. Nhưng nó cũng chẳng phải nguyên nhân dẫn
tới những hành động của lũ khỉ. Như Harlow đã viết
(thiết tưởng
bạn còn có thể nghe thấy cả tiếng ông vò
đầu bứt tai nữa): “Hành vi thu được từ cuộc điều tra này
đã đặt ra những câu hỏi lý thú đối với học thuyết động
lực,
vì quá trình học tập đã đạt được và sự thực thi đã
được duy trì mà không phải viện tới những nhân tố kích
thích ngoại cảnh”.
Vậy nó còn có thể là cái gì đây?
Để trả lờ
i câu hỏi này, Harlow đưa ra một giả thuyết
mới – yếu tố được gọi là một động lực thứ ba: “Bản thân
việc thực thi nhiệm vụ đã cung cấp một phần thưởng
tự
thân. Lũ khỉ chơi trò chơi chỉ đơn giản là vì chúng cảm
thấy vui sướng khi làm việc đó. Chúng thích thế. Niềm vui
mà nhiệm vụ này mang lại chính là phần thưởng vậ
y”.
Nếu quan điểm trên là xác đáng, thì những chuyện
xảy ra tiếp theo chỉ khơi sâu thêm những điểm còn gây
hoang mang và tranh cãi. Có lẽ động lực mới được
khám phá này – Harlow g
ọi nó là “động cơ nội tại” –
thực sự tồn tại. Nếu lũ khỉ được thưởng – bằng nho khô!
– khi giải xong trò đố, ắt hẳn chúng sẽ còn làm tốt hơn
nữa.
Tuy nhiên, khi Harlow thử cách tiếp cận này, lũ khỉ
lại mắc lỗi nhiều hơn và giải được trò đố kém thường
xuyên hơn. “Sự xuất hiện của thức ăn trong thí nghiệm
hiện t
ại”, Harlow viết, “hóa ra lại làm gián đoạn quá
trình thực hiện, một hiện tượng chưa từng được báo cáo
trong bất kỳ tài liệu nào”.
Giớ i thiệ u
− 17 −
Đến đoạn này thì thật sự là kỳ quặc. Điều đó cũng
giống như việc ta thả quả cầu thép xuống một mặt
phẳng nghiêng để đo vận tốc của nó – chỉ để thấy quả
cầu rơi vào khoảng không. Nó cho thấy hiểu biết của
chúng ta về những lực hấp dẫn tác động lên hành vi của
mình vẫn chưa đầy đủ − rằng những gì mà chúng ta v
ẫn
cho là các quy luật bất biến thực chất còn vô vàn lỗ
hổng. Harlow đặc biệt nhấn mạnh “sức mạnh và sự bền
bỉ” của động lực đã thúc đẩy lũ khỉ hoàn
thành trò chơi.
Sau đó ông nhận xét:
“Dường như động lực này… cũng cơ bản và mạnh mẽ
như tất cả các động lực [khác]. Hơn nữa, chúng ta có lý
do để tin rằng [nó] có thể giúp kích thích hoạt động học
tập hi
ệu quả không kém”.
Tuy nhiên, vào thời điểm đó, hai động lực phổ biến
nói trên giữ một vị trí cực kỳ vững chắc trong tư duy
khoa học. Vì vậy, Harlow đã chủ động gióng lên hồi
chuông nhắc nhở.
Ông thúc giục các nhà khoa học “từ
bỏ những địa hạt lý thuyết lỗi thời của mình” và tìm
kiếm những nguyên nhân chính xác hơn, mới mẻ hơn
dẫn đến hành vi của
con người. Ông cảnh báo rằng cách
biện giải của chúng ta về lý do tại sao chúng ta lại làm
những việc mà mình vẫn làm còn chưa hoàn chỉnh. Ông
cho rằng để hiểu đúng
bản chất con người, chúng ta cần
phải tính tới động lực thứ ba này nữa.
Nhưng rồi ông lại mang vứt xó ý tưởng mới này.
ĐỘNG LỰC 3.0
− 18 −
Thay vì đấu tranh với cơ sở kiến thức sẵn có và thiết
lập một cái nhìn toàn diện hơn về động lực, Harlow lại
bỏ mặc vấn đề nghiên cứu còn gây nhiều tranh cãi này,
và về sau, ông đã trở nên nổi tiếng với những nghiên
cứu về bản chất khoa học của tình cảm yêu mến. Khám
phá của ông về động lực thứ ba nói trên thi thoảng
lại
được nhắc tới trong các tài liệu chuyên ngành tâm lý.
Song về cơ bản, nó vẫn đứng ngoài lề cả ngành khoa học
hành vi lẫn kho tàng kiến thức của chúng ta về con
người.
Hai thập kỷ trôi qua, rồi cuối cùng một nhà khoa
học khác cũng xuất hiện để tiếp tục lần theo đầu mối mà
Harlow đã bỏ lại trên chiếc bàn phòng thí nghiệm
Wisconsin ngày nào
giữa biết bao nghi hoặc và tò mò.
Mùa hè năm 1969, Edward Deci, sinh viên tốt nghiệp
ngành tâm lý học của Đại học Carnegie Mellon, đang
tìm kiếm một đề tài cho luận văn của mình. Deci đã
nhận được bằng MBA của trường Wharton, và giờ đây,
anh lại bị hấp dẫn bởi vấn đề động lực song anh ngờ
rằng giới học giả và doanh nhân đã hiểu sai nó. V
ậy là,
anh “mượn tạm” một trang trong cuốn sổ tay của
Harlow và bắt tay vào nghiên cứu đề tài này với sự giúp
sức của một trò chơi đánh đố khác.
Deci chọn trò xếp hình
Soma, một sản phẩm thời bấy
giờ đang rất thịnh của hãng Parker Brothers. Nhờ có
YouTube, trò chơi này đã thu hút một lượng người
hâm mộ tương đối đông đảo. Như các bạn có th
ể thấy
dưới đây, bộ xếp hình bao gồm bảy mảnh ghép nhựa −
sáu mảnh cấu thành từ bốn khối lập phương có kích