Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Chiến lược phát triển ngành dệt nhuộm Việt Nam đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (853.41 KB, 63 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

MAI KHÁNH THÀNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2004


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: CHIẾN LƯC VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC XÂY
DỰNG CHIẾN LƯC PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT NHUỘM VIỆT NAM
1.1 CHIẾN LƯC VÀ VAI TRÒ CHIẾN LƯC TRONG KINH DOANH
1.1.1 Khái niệm về chiến lược và chiến lược kinh doanh

trang 1

1.1.2 Phân loại chiến lược kinh doanh

…1

1.1.3 Quy trình hoạch đònh chiến lược

…2

1.1.4 Vai trò của chiến lược trong hoạt động sản xuất kinh doanh

…5



1.2 TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC XÂY DỰNG CHIẾN LƯC PHÁT
TRIỂN NGÀNH DỆT NHUỘM VIỆT NAM
1.2.1 Mối quan hệ giữa ngành dệt nhuộm và ngành may

…6

1.2.2 Giới thiệu về ngành dệt nhuộm

…7

1.2.3 Vai trò của ngành dệt nhuộm

…10

1.2.4 Tầm quan trọng của việc xây dựng chiến lược phát triển ngành dệt
nhuộm Việt Nam

... 11

CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH DỆT
NHUỘM VIỆT NAM
2.1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÀNH DỆT MAY VIỆT
NAM
2.1.1 Giai đoạn trước 1975: Vừa xây dựng vừa chiến đấu

... 12

2.1.2 Từ 1976 – 1990: Xây dựng hoà bình và hợp tác toàn diện với các
nước XHCN


... 12

2.1.3 Từ 1991 – 1999: Sản xuất kinh doanh trong cơ chế thò trường theo
đònh hướng XHC

... 13

2.1.4 Chiến lược tăng tốc Ngành Dệt – May Việt Nam đến năm 2010

... 15

2.2 PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG
2.2.1 Phân tích các yếu tố thuộc môi trường vó mô

... 15

2.2.2 Phân tích môi trường vi mô

... 20

2.2.3 Ma trận đánh giá các yếu tố bên ngoài (EFE)

... 26

-Trang 1 -


2.3 PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG NỘI BỘ NGÀNH
2.3.1 Cơ cấu sở hữu ngành dệt nhuộm


... 27

2.3.2 Cơ cấu sản phẩm

... 29

2.3.3 Chất lượng sản phẩm

... 31

2.3.4 Hiệu quả sản xuất kinh doanh

... 31

2.3.5 Máy móc thiết bò và trình độ công nghệ

... 32

2.3.6 Hoạt động Marketing

... 33

2.3.7 Tình hình tài chính

... 34

2.3.8 Hoạt động nghiên cứu phát triển

... 35


2.3.9 Nguồn nhân lực

... 36

2.3.10 Công nghệ thông tin trong ngành dệt nhuộm

... 36

2.3.11 Ma trận đánh giá các yếu tố bên trong (IFE)

... 37

CHƯƠNG 3: CHIẾN LƯC PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT NHUỘM VIỆT
NAM ĐẾN NĂM 2010
3.1 MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT NHUỘM VIỆT NAM ĐẾN NĂM
2010
3.1.1 Mục tiêu phát triển ngành dệt may Việt Nam

... 39

3.1.2 Quan điểm và mục tiêu phát triển ngành dệt nhuộm Việt Nam

... 39

3.2 CHIẾN LƯC PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT NHUỘM VIỆT NAM ĐẾN
NĂM 2010
3.2.1 Ma trận đánh gía các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ
ngành dệt nhuộm Việt Nam


... 40

3.2.2 Đề xuất một số chiến lược và giải pháp thực hiện

... 43

3.2.3 Các giải pháp chung cần lưu ý để thực hiện chiến lược phát triển

... 47

3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.3.1 Về phía Nhà nước

... 50

3.3.2 Về phía Tổng công ty

... 51

3.3.3 Về phía các doanh nghiệp trong ngành

... 51

KẾT LUẬN

-Trang 2 -


LỜI MỞ ĐẦU
Từ sau Đại hội Đảng lần VI, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nước ta

chuyển từ nền kinh tế cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế kinh tế
thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa. Kể từ đó nền kinh tế Việt Nam liên tục có
tốc độ tăng trưởng khá, về cơ bản thoát khỏi tình trạng nghèo đói và tạo ra những
tiền đề cần thiết cho những thời kỳ phát triển tiếp theo.
Cùng với sự phát triển chung của đất nước, ngành dệt may Việt Nam luôn
đóng góp một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Trong những năm gần
đây, ngành dệt may Việt Nam đã phát triển nhanh cả về số lượng cơ sở vật chất và
giá trò sản lượng, đặc biệt là giá trò xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng bình quân toàn
ngành luôn đạt trên 10% năm, kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 40% năm,
mang lại nguồn ngoại tệ lớn từ hoạt động xuất khẩu và đóng góp một nguồn thu cho
ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên trong cơ cấu ngành dệt may Việt Nam hiện nay đã
và đang tồn tại sự mất cân đối giữa ngành dệt nhuộm và ngành may, tỉ lệ vải thành
phẩm đạt chất lượng trong ngành dệt nhuộm chỉ đạt 70 – 80%, rất thấp so với tiêu
chuẩn chung của thế giới: 95 – 98%, tỉ lệ vải thành phẩm sản xuất trong nước đáp
ứng tiêu chuẩn cho nhu cầu may xuất khẩu còn quá thấp: 20-30%.
Để giảm bớt khoảng cách so với trình độ thế giới và góp phần vào việc đẩy
mạnh tốc độ phát triển ngành dệt may trong chiến lược phát triển ngành dệt may
Việt nam đến năm 2010, và trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế, ngành dệt
nhuộm cần được quan tâm và đầu tư phát triển mạnh hơn nữa trong hiện tại và
tương lai. Trước tình hình trên, việc nghiên cứu, phân tích và đưa ra các chiến lược
và giả pháp phát triển ngành dệt nhuộm Việt Nam là hết sức cần thiết.
Đó là lý do đề tài:”Chiến lược phát triển ngành dệt nhuộm Việt Nam đền
năm 2010” được lựa chọn cho luận văn này.
Phương pháp nghiên cứu:
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghóa duy vật biện chứng, đồng thời kết
hợp các phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh, đánh giá để nghiên
cứu đề tài.
Đối tượng nghiên cứu:
Những lý luận cơ bản về chiến lược và quản trò chiến lược, làm cơ sở cho
việc xây dựng chiến lược phát triển của một tổ chức kinh tế.

Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh ngành dệt – nhuộm – hoàn tất Việt
Nam trong thời gian gần đây.

-Trang 3 -


Phạm vi nghiên cứu:
Với những biến động thường xuyên và liên tục của thò trường, luận văn chỉ
chú trọng phân tích môi trường hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất và kinh
doanh trong ngành dệt may Việt Nam trong giai đoạn 1999 – 2004.
Mục đích nghiên cứu:
Phân tích môi trường hoạt động, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp trong ngành dệt nhuộm Việt Nam.
Đề xuất một số chiến lược và giải pháp thực hiện, tháo gỡ những khó khăn
trở ngại, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Giới hạn đề tài:
Luận văn không tìm hiểu tất cả mọi hoạt động thuộc về nội bộ của các doanh
nghiệp trong ngành, mà chỉ nghiên cứu những thông tin có tính chất tác động
chung nhất đến ngành dệt may Việt Nam.
Luận văn chỉ nêu các chiến lược và giải pháp thực hiện chứ không đi sâu vào
phân tích việc tổ chức thực hiện và kiểm soát hiệu quả kinh doanh
Kết cấu luận văn:
Lời mở đầu
Chương 1: Chiến lược và tầm quan trọng của việc xây dựng chiến lược phát
triển ngành dệt nhuộm Việt Nam
Chương 2: Phân tích tình hình hoạt động của ngành dệt nhuộm Việt Nam
Chương 3: Chiến lược phát triển ngành dệt nhuộm Việt Nam đến năm 2010
Kết luận

-Trang 4 -



CHƯƠNG 1
CHIẾN LƯC VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC XÂY DỰNG CHIẾN
LƯC
PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT NHUỘM VIỆT NAM
1.1 CHIẾN LƯC VÀ VAI TRÒ CỦA CHIẾN LƯC TRONG KINH DOANH
1.1.1 Khái niệm về chiến lược và chiến lược kinh doanh
Khái niệm “chiến lược” đã xuất hiện từ khá lâu và có khá nhiều đònh nghóa
về chiến lược. Theo Fred R.David, chiến lược là những phương tiện đạt đến mục
tiêu dài hạn; theo Alfred Chadler, Đại học Harvard thì chiến lược là sự xác đònh
các mục tiêu cơ bản và lâu dài của một doanh nghiệp và là sự vạch ra một quá
trình hành động và phân phối các nguồn lực cần thiết để thực hiện mục tiêu đó.
Những đònh nghóa về chiến lược tuy khác nhau về cách diễn đạt do được rút ra từ
thực tiễn kinh tế xã hội khác nhau, nhưng vẫn bao hàm việc:
− Xác đònh các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn của tổ chức.
− Đưa ra và chọn lựa các phương án thực hiện.
− Triển khai và phân bổ các nguồn lực để thực hiện mục tiêu đó.
1.1.2 Phân loại chiến lược kinh doanh
Căn cứ vào phạm vi chiến lược, có thể chia chiến lược thành hai loại:
™ Chiến lược tổng quát: là chiến lược thường đề cập đến những vấn đề
quan trọng nhất và có ý nghóa lâu dài, quyết đònh đến những vấn đề sống
còn của doanh nghiệp.
™ Chiến lược bộ phận: là các chiến lược cụ thể về sản phẩm, giá cả, phân
phối và chiêu thò cho từng phân kỳ trung hạn, ngắn hạn của chiến lược
tổng quát, nhằm tạo cơ sở, vạch ra con đường vận động thích ứng với từng
thời kỳ và môi trường hoạt động để liên tục hóa sự phát triển của chiến
lược chung.
Căn cứ vào sự kết hợp giữa sản phẩm và thò trường, dựa vào lưới ô vuông để
thay đổi chiến lược, có thể chia thành các loại chiến lược đặc thù sau:

Bảng 1: Lưới ô vuông để thay đổi chiến lược

-Trang 5 -


Sản phẩm

Thò trường

Ngành S.X

Trình độ S.X

Qui trình C.N

Hiện tại/Mới

Hiện tại/Mới

Hiện tại/Mới

Hiện tại/Mới

Hiện tại/Mới

1.1.2.1 Nhóm chiến lược tăng trưởng tập trung
™ Thâm nhập thò trường: nhằm tăng thò phần cho các sản phẩm, dòch vụ
hiện có trong các thò trường hiện có bằng các nổ lực tiếp thò nhiều hơn.
Chỉ áp dụng khi thò trường hiện tại chưa bão hòa, có khả năng tăng trưởng
hoặc khi thò phần của đối thủ giảm xuống.

™ Phát triển thò trường: đưa sản phẩm hiện có vào những thò trường mới.
™ Phát triển sản phẩm: cải tiến những sản phẩm hoặc dòch vụ hiện tại.
1.1.2.2 Nhóm chiến lược tăng trưởng bằng con đường hội nhập
™ Hội nhập về phía trước: nhằm tăng quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát
đối với các đơn vò phân phối hoặc tiêu thụ sản phẩm, dòch vụ của tổ chức.
™ Hộp nhập về phía sau: nhằm tìm kiếm quyền sở hữu hoặc quyền kiểm
soát đối với các đơn vò cung cấp các yếu tố đầu vào cho tổ chức.
™ Hội nhập hàng ngang: sở hữu hay hợp nhất các đơn vò kinh doanh cùng
ngành bằng cách hợp nhất, mua lại hay chiếm lónh quyền kiểm soát giữa
các đối thủ cạnh tranh.
1.1.2.3 Nhóm chiến lược tăng trưởng bằng con đường đa dạng hóa
™ Đa dạng hóa đồng tâm: hướng vào thò trường mới với sản phẩm mới, trong
ngành sản xuất hiện tại hoặc mới, với qui trình công nghệ hiện tại hoặc
mới.
™ Đa dạng hóa hàng ngang: hướng vào sản phẩm mới với qui trình công
nghệ mới, trong ngành sản xuất hiện tại hoặc mới, nhưng vẫn ở thò trường
hiện tại.
™ Đa dạng hóa hỗn hợp: hướng vào sản phẩm mới ở thò trường mới và cũng
hoàn toàn mới trong một ngành kinh doanh mới.
1.1.2.4 Nhóm các chiến lược suy giảm
™ Liên doanh
™ Thu hẹp bớt hoạt động
™ Cắt bỏ bớt hoạt động
™ Thanh lý

-Trang 6 -


1.1.3 Quy trình hoạch đònh chiến lược
Với mục tiêu hoạch đònh hướng chiến lược chung cho ngành, luận văn chỉ

tập trung đi sâu vào giai đoạn hình thành chiến lược, bao gồm ba bước cơ bản sau:
1.1.3.1 Nghiên cứu môi trường hoạt động của ngành
i) Phân tích môi trường bên ngoài
™ Phân tích các yếu tố thuộc môi trường vó mô
Các yếu tố của môi trường vó mô bao gồm các yếu tố chính trò, kinh tế, luật
pháp, văn hóa – xã hội, tự nhiên, công nghệ … Phân tích các yếu tố kể trên sẽ tạo
nên một tầm nhìn tổng quát về môi trường vó mô làm cơ sở cho việc hoạch đònh
chiến lược. Vì mục đích của việc nghiên cứu môi trường vó mô là nhằm nhận đònh
những cơ hội và nguy cơ có ảnh hưởng đến hoạt động của ngành nên chỉ phân tích
các yếu tố có ảnh hưởng thực sự đến ngành.
™ Phân tích các yếu tố thuộc môi trường vi mô
Các yếu tố thuộc môi trường vi mô bao gồm các yếu tố ngoại cảnh nhưng có
liên quan trực tiếp đến ngành. Bao gồm các yếu tố sau:
- Khách hàng: Phân nhóm khách hàng, đặc điểm nhu cầu của từng nhóm
khách hàng hiện nay và dự báo xu thế thay đổi nhu cầu trong thời gian sắp tới, nếu
có, để từ đó xác đònh ngành phải làm gì để tạo ra nhu cầu mới, đáp ứng nhu cầu và
dùng phương tiện, công nghệ nào để đáp ứng nhu cầu tốt nhất.
- Đối thủ cạnh tranh: Phân tích tình hình cạnh tranh ảnh hưởng đến sự phát
triển của ngành.
- Nguồn cung cấp.
- Các sản phẩm thay thế.
- Các đơn vò sắp gia nhập hoặc rút lui khỏi ngành.
ii) Phân tích môi trường nội bộ ngành
Việc phân tích môi trường nội bộ của các doanh nghiệp trong ngành là khâu
trọng tâm để xác đònh điểm mạnh, điểm yếu của bản thân các doanh nghiệp.
1.1.3.2 Xác đònh mục tiêu phát triển của ngành
Xác đònh mục tiêu phát triển của ngành là cở sở cho việc hình thành chiến
lược. Mục tiêu dùng để chỉ kết quả cụ thể mà ngành mong muốn trong một giai
đoạn nhất đònh. Mục tiêu đặt ra không quá thấp mà cũng không quá cao xa rời thực
tế. Các mục tiêu chỉ rõ điểm kết thúc của các nhiệm vụ chiến lược, là căn cứ để

xác đònh thứ tự ưu tiên trong phân bổ các nguồn lực.

-Trang 7 -


1.1.3.3 Xây dựng chiến lược
Xây dựng chiến lược được thực hiện trên cơ sở phân tích và đánh giá môi
trường kinh doanh, nhận biết những cơ hội và nguy cơ tác động đến sự tồn tại của
doanh nghiệp. Từ đó xác đònh các phương án chiến lược để đạt được mục tiêu đề
ra. Việc hình thành chiến lược phải tạo sự hài hòa và kết hợp cho được các yếu tố
tác động đến chiến lược.
Để thực hiện được điều này, có thể áp dụng rất nhiều phương pháp và công
cụ hoạch đònh chiến lược. Luận văn này chỉ chọn lọc sử dụng các công cụ được giới
thiệu dưới đây.
™ Ma trận đánh giá các yếu tố bên ngoài – EFE (External Factor Evaluation)
Công cụ ma trận EFE cho phép ta tóm tắt và đánh giá mức độ tác động của
những cơ hội và nguy cơ cơ bản ảnh hưởng đến ngành. Ma trận EFE được phát triển
theo 6 bước sau :
a) Liệt kê các yếu tố bên ngoài chủ yếu.
b) Ấn đònh mức độ quan trọng : Cho điểm từ 0,0 (quan trọng ít nhất) đến 1,0
(quan trọng nhiều nhất). Tổng các mức độ quan trọng phải luôn bằng 1,0.
c) Phân loại yếu tố : Cho điểm từ 1 (tác động tiêu cực), 2 (tác động bình
thường), 3 (Tác động tích cực), 4 (Tác động rất tích cực).
d) Nhân mỗi mức độ quan trọng của yếu tố với phân loại của nó để xác đònh
điểm số quan trọng cho mỗi yếu tố.
e) Nếu ảnh hưởng đó là tích cực (cơ hội) thì đánh dấu (+), nếu là tiêu cực
(nguy cơ) thì đánh dấu (-) vào cột “Tính chất tác động” để biết đó là cơ
hội hay nguy cơ.
f) Cộng tất cả điểm số quan trọng để biết tổng số điểm quan trọng của các
yếu tố này đối với ngành. Số điểm trung bình là 2,5. Nếu tổng số điểm

quan trọng < 2,5 cho thấy ngành có phản ứng yếu với môi trường bên
ngoài, còn nếu > 2,5 thì có phản ứng cao.
Bảng 2: Mẫu ma trận EFE
Các yếu tố

Tầm quan
trọng

Phân loại

Số điểm
quan trọng

Tính chất
tác động

-----™ Ma trận đánh giá các yếu tố bên trong – IFE (Internal Factor Evaluation)

-Trang 8 -


Là công cụ cho phép tóm tắt và đánh giá những điểm mạnh và điểm yếu
quan trọng của ngành. Cách phát triển ma trận này tương tự như ma trận EFE.
™ Ma trận đánh giá các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ – SWOT
SWOT là viết tắt của 4 chữ : Strengths (điểm mạnh), Weaknesses (điểm yếu),
Opportunities (cơ hội) và Threats (nguy cơ). Ma trận này giúp kết hợp các yếu tố
điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ đã được đánh giá từ các ma trận EFE và
IFE để từ đó thiết lập nên các chiến lược kết hợp. Ma trận SWOT được phát triển
theo các bước sau:
a) Từ ma trận IFE, liệt kê các điểm mạnh, điểm yếu chủ yếu vào ô S và W.

b) Từ ma trận EFE, liệt kê các cơ hội và nguy cơ cơ bản vào ô O và T.
c) Lập các chiến lược kết hợp S/O, S/T, W/O, W/T.
Ma trận SWOT là công cụ hoạch đònh chiến lược rất hữu hiệu, từ ma trận
này, có thể lựa chọn các chiến lược thích hợp nhằm đạt được mục tiêu của ngành.
Bảng 3: Mẫu ma trận SWOT
O- Những cơ hội

T- Những nguy cơ

1.

1.

2..

2..

S – Những điểm mạnh

Các chiến lược S/O

Các chiến lược S/T

1.
2..

Phát huy điểm mạnh để Phát huy điểm mạnh để
vượt qua/né tránh nguy
tận dụng cơ hội.
cơ.


W- Những điểm yếu

Các chiến lược W/O

1.

Hạn chế điểm yếu để Hạn chế điểm yếu để né
tận dụng cơ hội.
tránh nguy cơ.

SWOT

2..

Các chiến lược W/T

1.1.4 Vai trò của chiến lược trong hoạt động sản xuất kinh doanh
Chiến lược kinh doanh có vai trò quan trọng đặc biệt trong sản xuất kinh
doanh đối với tất cả doanh nghiệp, mọi ngành nghề. Thực tế cho thấy sự thành
công của các doanh nghiệp, các ngành thường gắn liền với một chiến lược sản xuất
kinh doanh đúng đắn. Vai trò của chiến lược trong hoạt động sản xuất kinh doanh
cấp ngành được thể hiện qua các điểm sau:

-Trang 9 -


™ Vai trò quản lý vó mô: Chiến lược kinh doanh của ngành giúp tất cả các
doanh nghiệp trong ngành xác đònh rõ hướng đi của ngành trong tương lai,
từ đó đưa ra những quyết đònh thống nhất, tránh sự trùng lặp hoặc không

tập trung nguồn lực do có nhiều hướng phát triển khác nhau. Vai trò điều
hành vó mô này ở cấp ngành đóng vai trò quan trọng hơn ở cấp doanh
nghiệp do các liên kết ngành có phạm vi lớn và mức độ phức tạp cao
hơn.
™ Vai trò quản lý nguồn lực: Chiến lược giúp ngành đề ra các hoạch đònh về
nguồn lực, vật lực, tài nguyên một cách chủ động và hợp lý để đạt đến
mục tiêu. Vai trò này cũng thấy ở cấp cơ sở với mức độ chi tiết hơn.
™ Vai trò quản lý rủi ro: Chiến lược giúp các nhà quản trò thấy được những
cơ hội, những rủi ro sẽ xảy ra trong hiện tại hay trong tương lai, từ đó dựa
trên tiềm lực của mình để dự trù một số biện pháp đối phó.
™ Vai trò quản lý mục tiêu: Chiến lược giúp ngành xây dựng được mục tiêu
của từng giai đọan, liên tục đánh giá kết quả thực hiện để kòp thời có
những điều chỉnh hoặc hành động thích hợp. Quản lý theo mục tiêu sẽ
đóng vai trò khuyến khích các doanh nghiệp, các thành viên chủ động
xác đònh được mục tiêu của mình cùng hướng về mục tiêu chung của toàn
ngành.
1.2 TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC XÂY DỰNG CHIẾN LƯC PHÁT TRIỂN
NGÀNH DỆT NHUỘM VIỆT NAM
1.2.1 Mối quan hệ giữa ngành dệt nhuộm và ngành may
Xét về bản chất tổ chức, ngành dệt may Việt Nam được khép kín với việc kết
hợp ngành bông – ngành may – và ngành dệt nhuộm hoàn tất thành một khối. Sự
kết hợp đó tạo thành một tổng công ty lớn, có khả năng tập trung vốn lớn, tạo lợi
thế cạnh tranh cao. Trong sự kết hợp đó ta thấy các sản phẩm của ngành dệt
nhuộm được tiêu thụ chủ yếu thông qua ngành may, đặc biệt ngành may xuất khẩu
dưới dạng vỏ chăn, áo gối, khăn tắm, mùng, quần áo bảo hộ lao động…Đứng ở góc
độ thương mại, ngành may bao gồm:
May từ vải của khách hàng, hay gọi là may gia công (CMT: cutting – making
– treaming)
May từ vải của chính mình (M2M: from material to market)
Dễ dàng nhận thấy, thế mạnh của ngành dệt may Việt Nam hiện nay là may

gia công, trong khi ngành may có tốc độ phát triển quá nhanh chóng, thì ngành dệt
nhuộm phát triển quá chậm chạm, dẫn đến sự mất cân đối giữa ngành may và

-Trang 10 -


ngành dệt nhuộm là quá lớn. Nguyên nhân chính khiến các doanh nghiệp, đặc biệt
là các doanh nghiệp tư nhân, chỉ chú trọng đầu tư vào ngành may là vì ngành dệt
nhuộm thì đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm và hiệu quả kinh tế
không bằng ngành may. Trong tổng số kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may
năm 2003 là 3,7 tỉ USD thì giá trò xuất khẩu các mặt hàng may mặc chiếm đến
90% với tỉ lệ nguyên liệu nhập khẩu lên đến 65%. TỈ lệ giá trò xuất khẩu các sản
phẩm dệt nhuộm chỉ chiếm khoảng 10% là quá thấp so với chỉ số trung binh thế
giới là 44%. Giá trò nội đòa của các sản phẩm dệt nhuộm trong nước chỉ có khoảng
20-25% trong các sản phẩm may xuất khẩu, điều đó càng chứng tỏ sự hoạt động
yếu kém của ngành dệt nhuộm.
Tham khảo thêm biểu đồ dưới đây để thấy sự mất cân đối quá lớn giữa các
sản phẩm ngành dệt đối với các sản phẩm may mặc.
Biểu đồ 1: Tỉ lệ sản phẩm xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam năm 2002

3%

4%

15%

Quần áo
Vải thành phẩm
Sợi
Sản phẩm khác

78%

(Nguồn: Vitas Directory 2003)
1.2.2 Giới thiệu về ngành dệt nhuộm
1.2.2.1 Công đoạn dệt vải
Dệt vải được biết đến như một ngành nghề cổ xưa nhất của loài người từ khi
biết ăn mặc. Tại Việt Nam ngành nghề thủ công dệt lụa cũng đã ra đời từ rất lâu,
nhiều triều đại phong kiến Việt Nam đã dùng vải lụa làm vật triều cống cho triều
đình Trung Quốc. Cho đến ngày nay ở Việt Nam nhiều làng nghề truyền thống như:
Vân Phúc (Hà Tây), Triệu Khúc (Hà Nội) vẫn tồn tại và phát triển.
Nguyên liệu ngành dệt được hình thành thông qua việc kéo sợi từ nguyên liệu
ban đầu là xơ sợi tự nhiên hoặc nhân tạo. Đối với các loại sợi tư nhiên như cotton

-Trang 11 -


100%, sợi được đi qua qui trình hồ vải nhằm mục đích tăng cường độ dai của sợi,
đảm bảo sợi chắc chắn, không bò đứt trong qua trình dệt, hoặc đối với các loại sợi
nhân tạo, như PES 100%, trong quá trình kéo sợi, tơ sợi được đi qua một lớp dầu bôi
trơn, nhằm giảm bớt lực ma sát phát sinh gây đứt sợi trong quá trình dệt vải sau
này. Thông qua giai công đoạn dệt, vải hoặc sợi vải được hình thành và gọi chung
là hàng mộc. Có hai công nghệ dệt được sử dụng để tạo thành vải đó là dệt thoi và
dệt kim.
1.2.2.2 Công đoạn nhuộm hoàn tất
Sau khi vải, sợi được hình thành, lúc này chưa thể sử dụng ngay được bởi
chúng còn chứa rất nhiều tạp chất, dầu mỡ, màu tự nhiên…, vì vậy vải mộc có màu
xám, thô ráp, không bền đối với các điều kiện thông thường của môi trường và sử
dụng: ánh sáng, nhiệt độ, giặt ủi, mồ hôi…Do đó nhuộm và hoàn tất vải là một quy
trình chuyên môn hóa riêng biệt gồm nhiều công đoạn nhằm làm cho vải cải thiện
các tính chất trên để sằng sàng được sử dụng.

Qui trình nhuộm hoàn tất vải về cơ bản có thể được phân chia thành các
công đoạn như sau:
™ Công đoạn tiền xử lý: Sử dụng các loại hóa chất và nhiều phương pháp
khác nhau để xử lý vải mộc. Các công việc tiến hành được phân chia ra
thành các khâu cụ thể: xén lông, rủ hồ, nấu, tẩy, kiềm bóng, tăng trắng
quang học. Thông thường vải mộc phải trải qua ít nhất 3 trong số các khâu
kể trên, mục đích là làm sạch các tạp chất của vải, sợi và làm thay đổi
cấu trúc của vật liệu dệt, sau khi vải mộc đã hoàn toàn được xử lý ở công
đoạn tiền xử lý, vải đã hoàn toàn sẳn sàng cho việc in hoa hoặc nhuộm
màu.
™ Công đoạn in hoa, nhuộm màu: Nhuộm màu và in hoa được biết đến trong
khoảng 50 thế kỷ trước, có thể có xuất xứ từ n độ và Trung Quốc. Thuốc
nhuộm được sử dụng ban đầu có nguốn gốc từ tự nhiên, ngày nay thuốc
nhuộm vải rất đa dạng và phong phú, chủ yếu được tổng hợp từ các hợp
chất hữu cơ và được phân chia thành 2 nhóm chính: thuốc nhuộm và
pigment với cơ chế nhuộm và in hoàn toàn khác nhau. Nhuộm và in hoa
có công nghệ khá đa dạng, sử dụng nhiều lớp thuốc nhuộm với nhiều màu
sắc khác nhau, mỗi loại vải có quy trình nhuộm, in riêng biệt để đạt yêu
cầu về màu sắc và độ đều màu, bền màu cao.
Mục đích của công đoạn này là làm cho vải có màu sắc và hoa văn tùy
theo yêu cầu sử dụng. Nhuộm màu và in hoa là cơ sở thiết yếu cho ngành
may mặc và thời trang.

-Trang 12 -


™ Công đoạn hoàn tất vải: Xử lý hoàn tất vải được kết hợp với các biện
pháp cơ học và hóa học để nâng cao chất lượng hàng dệt. Mục đích
chung của công đoạn này làm gia tăng thêm giá trò sản phẩm cho vải sau
khi đã nhuộm màu. Tùy theo yêu cầu sử dụng, vải được xử lý tương ứng:

• Tăng cường độ ổn đònh kích thước của vải bằng cách đònh hình
nhiệt, căng khổ vải…
• Thay đổi cảm giác tay của vải: mềm, cứng, mượt…, cải thiện
ngoại quan của vải.
• Thay đổi mục đích sử dụng của vải: chống thấm nước, thấm
nước, chống bám bụi bẩn, vải thơm, chống bắt lửa…
• Tăng cường độ ổn đònh của vải bằng hóa chất nhằm chống mốc,
chống mục vải.
1.2.2.3 Nguyên liệu và qui trình sản xuất
™ Nguyên liệu dệt
Để dệt thành sản phẩm vải hoặc sản xuất chỉ may, trước hết cần có sợi dệt,
nguyên liệu cơ sở để sản xuất sợi dệt gọi là xơ dệt hay xơ bông. Các loại xơ dùng
trong ngành công nghiệp dệt nói chung và công nghiệp dệt kim nói riêng được chia
làm hai loại: xơ thiên nhiên và xơ nhân tạo.
- Xơ thiên nhiên: Là những loại vật liệu dệt có sẵn ở dạng xơ hoặc sợi, được
hình thành trong quá trình sinh trưởng và phát triển. Theo nguồn gốc, xơ thiên
nhiên lại được phân chia ra làm hai loại: xơ có nguồn gốc từ thực vật xenlulo: xơ
bông, xơ lanh…; xơ có nguồn gốc từ động vật, cấu tạo từ protein: lông cừu, tơ tằm…
- Xơ nhân tạo: Là những loại xơ do con người chế tạo bằng các phương pháp
hóa học để chuyển các vật liệu cao phân tử từ các dạng khác nhau về dạng xơ sợi
dùng trong công nghiệp dệt. Xơ nhân tạo cũng chia thành hai loại: xơ nhân tạo:
xenlulo gỗ, xơ vixco, xơ acetat…; xơ tổng hợp: xơ polyester, xơ polyacrylic…
Từ những nguyên liệu này, công nghiệp dệt trên thế giới và cả ở nước ta sản
xuất ra nhiều mặt hàng dệt khác nhau phục vụ đời sống con người: áo, quần, vớ,
khăn, màn…
™ Hóa chất và thuốc nhuộm
Hóa chất và thuốc nhuộm vải được sử dụng chủ yếu trong công đoạn hoàn
tất. Thuốc nhuộm vải là những hợp chất hữu cơ có màu, được tổng hợp từ nhựa than
đá, các sản phẩm từ dầu lửa, có khả năng ăn màu và giử chặt trên các vật liệu dệt.
Thuốc nhuộm được phân loại tùy thuộc vào tính tương hợp với các loại sợi vải khác


-Trang 13 -


nhau và phương pháp nhuộm khác nhau. Các loại thuốc nhuộm phổ biến hiện nay
là: thuốc nhuộm phân tán (dùng để nhuộm vải PES) thuốc nhuộm hoạt tính (dùng
để nhuộm cotton), thuốc nhuộm acid (dùng để nhuộm nylon)…
Để qui trình nhuộm vải được diễn ra hoàn toàn, phải có sử sử dụng bắt buộc
hóa chất. Hóa chất được phân chia ra thành nhiều loại tùy theo mục đích và công
đoạn sử dụng, thông thường nó được phân chia thành các loại như sau: hóa chất cơ
bản: muối, soda, H2O2 , NaOH…chất tiền xử lý: nấu, tẩy, giặt, ổn đònh H2O2… chất
trợ trong bể nhuộm: phân tán màu, đều màu, cầm màu, càng hóa…chất hoàn tất:
chất nhăn, chống co, chống tỉnh điện…
™ Máy móc thiết bò và quy trình công nghệ
Đối với công đoạn dệt: Cho đến ngày nay, máy dệt và nguyên lý dệt rất
phong phú và đa dạng. Tùy theo tính chất nguyên liệu sợi, dọc, ngang; kết cấu vải;
tính chất vải; khổ vải… mà có các loại máy dệt chuyên dùng. Các máy dệt thoi
(shutle loom) đang dần dần mất vò trí bởi cho năng suất thấp và bò giới hạn do khối
lượng lớn của thoi, thay vào đó là các thế hệ máy dệt mới: máy dệt thoi kẹp (project
loom), máy dệt kiếm (rapier loom), máy dệt khí (air-jet loom), máy dệt nước (waterjet loom).
Đối với công đoạn nhuộm, hoàn tất: có rất nhiều các thiết bò xử lý và các
quy trình khác nhau: máy rủ hồ, máy giảm trọng, máy nhuộm jet, jigger… áp dụng
qui trình nhuộm tận trích, máy nhuộm liên tục, áp dụng qui trình ngấm ép, máy
đònh hình có mục đích ổn đònh khổ hàng, căng mặt vải.
1.2.3 Vai trò của ngành dệt nhuộm
Qua phân tích trên đây, có thể nhận thấy rằng dệt nhuộm là một ngành công
nghiệp chuyên sâu, tách biệt hoàn toàn với ngành may bởi vì nó có đối tượng lao
động và qui trình sản xuất riêng biệt. Nhưng là một công đoạn tất yếu của ngành
dệt may, đóng vai trò quan trọng trong giá trò sản xuất công nghiệp của ngành dệt
may bởi sản phẩm của nó là nguyên liệu đầu vào và nằm trong một quy trình khép

kín cho đến thành phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Ngành dệt may
Việt Nam chiếm bình quân trên 9% toàn ngành công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu
chiếm 14,6% so với tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và đã tạo việc làm cho
hơn 1 triệu lao động công nghiệp. Vai trò ngành dệt nhuộm được khái quát những
điểm sau:
™ Dệt nhuộm – hoàn tất vải là ngành công nghiệp cơ sở của dệt may, có vai
trò chủ đạo trong giai đoạn đầu của hoat động công nghiệp. Ở hầu hết các
quốc gia đang phát triển, nó có vai trò quan trọng thứ hai sau ngành công
nghiệp thực phẩm, đóng góp nhiều cho tổng sản phẩm xã hội.

-Trang 14 -


™ Là ngành cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho xã hội, và từ đó sự phát
triển của nó có liên quan đến việc nâng cao ích lợi vật chất cho mọi
người. Các sản phẩm dệt nhuộm nói riêng và dệt may nói chung chiếm
khoảng không nhỏ ngân sách chi tiêu cho hàng tiêu dùng không phải thực
phẩm ở nước ta.
™ Ngành dệt nhuộm rất cần được chuyên môn hóa cao nhằm phù hợp với
Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
hướng về xuất khẩu. Giải quyết việc làm cho một lực lượng lao động đáng
kể, đồng thời mang lại nguồn ngoại tệ lớn từ xuất khẩu và đóng góp nguồn
thu cho ngân sách Nhà nước.
1.2.4 Tầm quan trọng của việc xây dựng chiến lược phát triển ngành dệt nhuộm
Việt Nam
Trong bối cảnh nền kinh tế vận động theo cơ chế thò trường, cùng với xu thế
hội nhập thế giới và khu vực của Việt Nam, xây dựng chiến lược phát triển ngành
dệt nhuộm Việt Nam nhằm khác phục tình trạng mất cân đối về phát triển giữa
ngành dệt và ngành may, đồng thời nó có ý nghóa đặc biệt quan trọng trong việc
nâng cao vai trò của ngành dệt nhuộm trong chiến lược chung ngành dệt may Việt

Nam đến năm 2010.
Tóm tắt chương 1
Để đạt được những thành công trong hoạt động sản xuất kinh doanh, một tổ
chức kinh tế cần có một chiến lược phù hợp giữa nội lực tổ chức và môi trường
hoạt động. Đối với bất kỳ tổ chức kinh tế nào, chiến lược kinh doanh luôn đóng
vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của chính tổ chức đó.
Quản trò chiến lược là một quá trình thường xuyên, liên tục, đòi hỏi sự
tham gia hợp tác của mọi thành viên trong tổ chức. Dựa trên cơ sở phân tích môi
trường hoạt động của tổ chức kinh tế, các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy
cơ được xác đònh. Qua đó chiến lược phát triển hình thành nhằm phát huy những
ưu điểm, hạn chế những nhược điểm, khai thác cơ hội và né tránh nguy cơ nhằm
đạt được mục tiêu đề ra một cách có hiệu quả nhất.
Ngành dệt nhuộm tuy đã hình thành từ lâu, nhưng dệt nhuộm là một ngành
công nghiệp vẫn còn khá mới mẽ ở Việt Nam, bởi nó còn nằm trong một quy
trình khép kín là ngành dệt may, và hiện vẫn tồn tại sự mất cân đối quá lớn giữa
ngành dệt nhuộm và ngành may. Do đó, để có thể xây dựng một chiến lược phát
triển hiệu quả, bên cạnh những lý luận cơ bản về quản trò chiến lược, cần thiết
phải nghiên cứu và nắm rõ bản chất hoạt động của ngành dệt nhuộm, để từ đó có

-Trang 15 -


thể vận dụng một cách hợp lý lý luận quản trò chiến lược vào thực tiễn hoạt động
của ngành.

CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA
NGÀNH DỆT NHUỘM VIỆT NAM
2.1 QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ TRƯỞNG THÀNH CỦA NGÀNH DỆT MAY
VIỆT NAM

2.1.1 Giai đoạn trước 1975: Vừa xây dựng vừa chiến đấu.
Ở miền Nam công nghiệp dệt nhuộm được xây dựng và phát triển dựa trên
các máy móc thiết bò nhập khẩu từ các nước Tây Ââu, sản phẩm phục vụ chủ yếu
cho thò trường nôi đòa. Trong khi đó, công nghiệp dệt nhuộm miền Bắc, các máy
móc thiết bò và quy trình công nghệ chủ yếu của Trung Quốc, Liên Xô, Đông Âu sản
xuất trong thập niên 1950 – 1960, giai đoạn này gọi là vừa xây dựng, chiến đấu và
chi viện cho tiền tuyến. Lực lượng sản xuất tăng nhanh với nhiều nhà máy mới được
xây dựng. Đội ngũ công nhân đông đảo hàng vạn người đã hăng say lao động với
tinh thần “mỗi người làm việc bằng hai” theo lời kêu gọi của Bác Hồ để tăng nhanh
sản lượng hàng hoá nhằm đảm bảo nhu cầu cơ bản về sợi, vải chăn, màn, bông
băng y tế cho nhân dân và lực lượng vũ trang. Từ phong trào thi đua sản và anh
dũng chống chiến tranh phá hoại, nhiều cán bộ, công nhân ngành dệt may đã
được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động và nhiều tổ đội
lao động xã hội chủ nghóa.
Các doanh nghiệp dệt may Trung ương gồm toàn bộ các doanh nghiệp dệt,
may lớn (sau này thuộc Tổng công ty dệt may Việt Nam) đã sản xuất gần 100% sản
lượng vải, quần áo, chăn màn, bông băng y tế để cung cấp cho nhân dân theo đònh
lượng và bảo đảm đủ, kòp thời nhu cầu cho các lực lượng vũ trang với hàng tỷ mét
vải, hàng trăm triệu bộ quần áo.
2.1.2 Từ 1976 – 1990: Xây dựng hoà bình và hợp tác toàn diện với các nước
XHCN
Ngành dệt may Việt Nam đã phát triển nhanh chóng về năng lực sản xuất do
tiếp quản toàn bộ các nhà máy, xí nghiệp dệt may ở phía Nam và tiếp tục xây dựng
nhiều nhà máy lớn trên cả nước như Nhà máy sợi Hà Nội, sợi Vinh, Sợi Huế, sợi
Nha Trang, dệt Kim Hoàng Thò Loan…Trong thời gian này, ngoài việc đảm bảo nhu

-Trang 16 -


cầu tiêu dùng trong nước, các sản phẩm dệt may được xuất khẩu chủ yếu cho Liên

Xô và các nước thuộc khối xã hội chủ nghóa Đông u. Máy móc thiết bò và công
nghệ dệt nhuộm được đầu tư, trang bò cho phù hợp với nhu cầu mới, tuy nhiên chỉ
một phần nhỏ mới đáp ứng được yêu cầu cho đến khi khối thò trường này sụp đổ do
sự tan rã của các nước xã hội chủ nghóa trong cuối thập niên 1980.
Trong các kế hoạch 5 năm (1976 – 1980, 1981 – 1985 và 1986 – 1990),
bằng nhiều phong trào thi đua lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ
thuật, ngành dệt may Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc, trước thời hạn, các chỉ tiêu
kế hoạch Nhà nước giao, bảo đảm các nguyên liệu cho sản xuất, vải quần áo, chăn
màn… cho tiêu dùng và là đầu mối xuất nhập khẩu, trao đổi hàng hoá theo nghò
đònh thư hàng năm với các nước xã hội chủ nghóa, tạo việc làm và đổi về từ 55 –
60 ngàn tấn bông xơ mỗi năm từ Liên Xô.
Cho đến năm 1990, ngành đã có quy mô: về dệt có 129 doanh nghiệp Nhà
nước, 1979 hợp tác xã và hộ cá thể; về may có 166 doanh nghiệp Nhà nước, 620
hợp tác xã và hộ cá thể. Năng lực thiết bò có 860.000 cọc sợi và 2000 rôto, 43.000
máy dệt (kể cả khung dệt thủ công), 60.000 thiết bò và máy may. Đã xây dựng 1
Viện công nghệ sợi dệt và 1 Trung tâm nghiên cứu may mặc. Toàn ngành có trên
2.000 tiến só, phó tiến só và kỹ sư, công nghệ dệt may.
Sản lượng thực hiện cuối năm 1990 đạt 50.000 tấn sợi và hơn 450 triệu mét
vải (khổ 0,80m), sản xuất 50 triệu sản phẩm may.
So với toàn ngành, Liên hiệp dệt, Tổng công ty dệt và Liên hiệp các xí nghiệp
may Việt Nam với 64 doanh nghiệp thành viên hoạt động trên phạm vi cả nước giữ
vai trò chủ đạo, thể hiện trên các mặt sau:
- Về các thiết bò kéo sợi chiếm 100%; hơn 11.000 máy dệt các loại, sản xuất
trên 80% vải lụa thành phẩm; hơn 60% thiết bò may, sản xuất trên 50 triệu sản
phẩm.
- Kim ngạch xuất khẩu chiếm 100% (độc quyền Nhà nước)
- Bảo đảm 100% bông xơ và sợi cho toàn bộ các nhà máy, xí nghiệp dệt,
may trong cả nước.
2.1.3 Từ 1991 – 1999: Sản xuất kinh doanh trong cơ chế thò trường theo đònh
hướng XHCN

Thực hiện chương trình đổi mới theo chủ trương mở cửa hòa nhập với kinh tế
thế giới của Đảng và Nhà nước, ngành dệt may bắt đầu đổi mới. Vì vậy, mặc dù
quy mô công suất thiết bò đã tăng lên nhanh chóng trong thời kỳ kế hoạch hoá,
nhưng do mới chỉ làm được ra những sản phẩm chất lượng trung bình và thấp nên

-Trang 17 -


khi chuyển sang cơ chế thò trường, ngành dệt may Việt Nam đứng trước những khó
khăn hết sức gay gắt: Thiết bò công nghệ sợi, nhuộm, hoàn tất (khoảng 50%) cũ kỹ,
lạc hậu đã sử dụng 30 – 40 năm (có nhà máy đã sử dụng 50 – 60 năm); Máy dệt
đa phần khổ hẹp, tiêu hao năng lượng và lao động cao; Thiếu vốn cho đầu tư đổi
mới công nghệ và thiếu kỹ năng quản trò doanh nghiệp trong cơ chế thò trường.
Nhưng nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước, được sự phối
hợp của cán bộ, ngành trong việc mở thò trường mới, cùng với tinh thần lao động
sáng tạo của đội ngũ cán bộ, công nhân, các doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư
nâng cấp thiết bò cũ và đầu tư công nghệ mới để sản xuất ra những sản phẩm theo
yêu cầu thò trường. Bên cạnh đó, với luật khuyến khích đầu tư nước ngoài, các xí
nghiệp liên doanh và 100% vốn nước ngoài bắt đầu đầu tư vào lónh vực dệt may.
Trong vòng 10 năm, có gần 170 dự án với số vốn đăng ký hơn 1600 triệu USD, đã
góp phần làm cho ngành dệt may Việt Nam có sự phát triển nhanh chóng. Vì vậy,
đến cuối năm 1999, hơn 30% thiết bò dệt và 95% thiết bò may đã được đầu tư bằng
thiết bò, công nghệ tiên tiến. Công suất kéo sợi đạt 177 ngàn tấn, đã sản xuất gần
100 ngàn tấn, trong đó có các loại sợi chi số cao cho hàng dệt kim và dệt vải cao
cấp. Tổng sản lượng vải đạt khoảng 500 triệu mét (khổ 0,8m) sản phẩm dệt kim đạt
34 ngàn tấn, khăn bông 10 ngàn tấn, mền chăn 1 triệu chiếc, thảm len hơn 5 triệu
m2, sản phẩm may khoảng 250 triệu sản phẩm may. Tổng số lao động sử dụng gần
1 triệu người, trong đó số có trình độ kỹ sư trở lên hơn 3000 người. Có 2 viện và 1
trung tâm nghiên cứu, 4 trường đào tạo trung học và công nhân lành nghề. Các
trường Đại học Bách khoa Hà Nội và Đại học Kỹ Thuật TP. Hồ Chí Minh đều có

khoa đào tạo kỹ sư công nghệ sợi, dệt nhuộm.
Từ năm 1991 – 1999, ngành dệt may Việt Nam đã có những thay
đổi về chất rất quan trọng, từ thiết bò công nghệ đến sản phẩm (nhất
là công nghệ may và sản phẩm may). Từ chỗ chỉ sản xuất phục vụ
nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong nước và thực hiện một phần
theo Nghò Đònh thư với Liên Xô và các nước XHCN Đông u, đầu vào
đầu ra do Nhà nước quyết đònh, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
đã thực hiện từ khâu đầu đến khâu cuối, từ chọn mua nguyên phụ
liệu, tổ chức sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, tự đònh giá mua, giá
bán…Đến nay, sản phẩm dệt may Việt Nam đã thoả mãn một phần
nhu cầu của người tiêu dùng trong nước và có kim ngạch xuất khẩu
lớn sang các thò trường EU, Nhật Bản, Mỹ, Canada…
Thời kỳ 1991 – 1999, toàn ngành đạt tốc độ tăng trưởng bình
quân khoảng 10%/năm. Kim ngạch xuất khẩu luôn đứng thứ hạng cao
trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của cả nước, chỉ sau dầu thô
nhưng dẫn đầu các ngành chế biến xuất khẩu đạt gần 1,7 tỷ USD

-Trang 18 -


(năm 1999), gần 2 tỷ USD (năm 2000),
xuất khẩu sang thò trường phi hạn ngạch,
khẩu cả nước. Tạo việc làm cho gần 1
chưa kể số lao động sản xuất nguyên
trồng dâu nuôi tằm.

trong đó hơn 60% sản phẩm
chiếm 14,6% kim ngạch xuất
triệu lao động công nghiệp,
liệu, trồng bông, trồng đay,


2.1.4 Chiến lược tăng tốc ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010
Căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế, đặc biệt là chiến lược công nghiệp
hóa hiện đại hóa hướng về xuất khẩu của đất nước, đồng thời phân tích những tiềm
năng và cơ hội của ngành dệt may Việt Nam, Chính phủ đã phê duyệt Đề án tăng
tốc phát triển ngành dệt may Việt Nam 2000 – 2010 với các mục tiêu chủ yếu :
Bảng 4: Mục tiêu phát triển ngành dệt may Việt Nam
Chỉ tiêu

Đơn vò

Mục tiêu
năm 2005

Tăng trưởng
bình quân

Mục tiêu
năm 2010

Tăng trưởng
bình quân

Trò giá XK

Tr. USD

4.000

13.2%


7.000

11.0%

Tổng số lao động

1000người

3.000

12.0%

4.000

5.7%

Bông xơ

1000T

30

25.4%

95

20.8%

Tơ sợi tổng hợp


1000T

100

18.1%

130

5.8%

Sợi xơ ngắn

1000T

150

13.0%

300

12.0%

Vải lụa

Tr. m2

800

18.0%


1200

6.5%

SP dệt kim

Tr. sp

150

8.5%

230

6.5%

Sp may

Tr.sp

780

10.5%

1200

6.6%

Sản phẩm chủ yếu


(Nguồn: Vinatex 2002)
Để đạt được những mục tiêu trên, ngành dệt may Việt Nam cần tập trung đầu
tư hiện đại hóa cả chiều sâu lẫn chiều rộng dể vừa nâng cao được chất lượng sản
phẩm, vừa mở rộng sản xuất. Mũi nhọn đầu tư là sản phẩm may chất lượng xuất
khẩu và nguyên vật liệu cung ứng cho ngành may. Song song đó, cần củng cố, đổi
mới công tác quản lý sản xuất, tăng năng suất lao động, ổn đònh chất lượng sản
phẩm, đẩy mạnh hoạt động tiếp thò để tăng năng lực cạnh tranh trên thò trường.

-Trang 19 -


2.2 PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG TÁC ĐỘNG NGÀNH DỆT NHUỘM VIỆT NAM
2.2.1 Phân tích các yếu tố thuộc môi trường vó mô
Môi trường vó mô có sự ảnh hưởng gián tiếp đến qui mô hoạt động của nhiều
lónh vực, nhiều ngành. Đối với ngành dệt nhuộm, những yếu tố chủ yếu của môi
trường vó mô có ảnh hưởng đến ngành được phân tích sau đây dưới hai khía cạnh cơ
hội và nguy cơ:
2.2.1.1 Các yếu tố kinh tế:
™ Cơ hội:
Biểu đồ 2: Tốc độ tăng trưởng GDP qua các năm
7.5
6.75

7

6.84

7.04


7.3

6.5
6
Tốc độ tăng trưởng GDP (%)

5.5
5

4.77

4.5
4
1999

2000

2001

2002

2003

(Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam 1/2004)
¾ Qua các số liệu về tốc độ tăng trưởng GDP trong các năm, từ năm 1999
đến năm 2003, cho thấy GDP đã đạt được mức tăng trưởng cao nhất sau
4 năm. Mức tăng trưởng kinh tế 7.3% của nước ta vào năm 2003 đã vượt
xa mức độ tăng trưởng chung của thế giới, đồng thời mức tăng trưởng kinh
tế Việt nam luôn ở mức độ cao và đều đặn qua những năm gần đây hoàn
toàn phù hợp với mục tiêu tăng trưởng năm 2004 là 7,5 – 8%.

Biểu đồ 3: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may qua các năm
4
3.5
3
2.5
2
1.5
1
0.5
0

3.66
2.76
1.74

1.89

1.97

1999

2000

2001

Kim ngạch xuất khẫu hàng
dệt may (tỉ USD)

2002


2003

-Trang 20 -


(Nguồn: Bản tin dệt may Việt Nam số 6 –tháng 1/2004 - VITAS)
Kim ngạch xuất khẩu dệt may của cả nước trong năm 2003 đạt trên 3.66
tỉ USD, tăng 33.1% so với năm 2002 đạt xấp xỉ với kim ngạch xuất khẩu
dầu thô đã thể hiện nổ lực vượt bậc của ngành dệt may trong năm 2003.
Đặc biệt, sau khi Hiệp đònh Thương mại Việt – Mỹ (USBTA) được ký kết,
xuất khẩu sang thò trường Hoa Kỳ đạt 2,4 tỉ USD. Tăng 102,5% so với năm
2002.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự tăng trưởng của ngành dệt may
ở mức hai chỉ số liên tục trong những năm gần đây là một cơ hội to lớn
thúc đẩy ngành dệt nhuộm hoàn tất vải phát triển.
¾ Trong những năm gần đây, ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện
nhiều giải pháp tiền tệ-tín dụng thích hợp: thực hiện chính sách nới lỏng
tiền tệ; tăng khối lượng tiền cung ứng; tăng tổng phương tiện thanh toán;
đẩy nhanh tiến độ cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại; chấn chỉnh
lại hệ thống quỹ tín dụng nhân dân… đáp ứng nhu cầu vốn cho tăng
trưởng kinh tế, ổn đònh tiền tệ và cải thiện tình hình lạm phát. Đây là
điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp vay vốn để đầu tư mở rộng sản
xuất kinh doanh.
¾ Thu nhập bình quân đầu người tăng đều trong các năm gần đây dẫn đến
nhu cầu của người dân về việc ăn mặc sẽ tăng đáng kể. Vì vậy, thò trường
các sản phẩm dệt may trong nước được dự đoán sẽ tăng mạnh về số
lượng cũng như chủng loại, điều này cho thấy một cơ hội cho các doanh
nghiệp trong ngành nâng cao năng lực sản xuất và cung ứng các loại sản
phẩm của mình.
™ Nguy cơ:

¾ Xu hướng gia tăng tỉ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và Đô la Mỹ trong
những năm vừa qua đã có ảnh hưởng ít nhiều đến tình hình lạm phát
trong nước do nhập khẩu tăng, đối với ngành dệt nhuộm nó là một bất lợi
trong khi hầu hết các đầu vào của ngành: tơ sợi, thiết bò, công nghệ, hóa
chất… phải nhập khẩu.
¾ Đối với thò trường thế giới, Hiệp đònh Dệt may (ATC) có ảnh hưởng rất lớn
đến hoạt động xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam, kể từ 1.1.2005,
cạnh tranh thương mại dệt may thế giới sẽ rất khốc liệt và toàn diện, bởi
các nước thành viên của WTO đều được bình đẳng từ việc xóa bỏ chế độ
hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Bên cạnh đó việc đưa tới 96% các
dòng thuế vào cắt giảm theo lộ trình CEPT/AFTA/GATT từ 1/1/2003 và

-Trang 21 -


đàm phán gia nhập WTO đã tạo ra nhiều thách thức đối với hàng dệt
may Việt Nam tại các thò trường có hạn ngạch như: Mỹ, EU, Canada….,
trong đó có những cường quốc về dệt may: Trung Quốc, n Độ, Pakistan,
Mehico…
¾ Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã mang lại cho ngành dệt may Việt Nam một
lượng vốn đầu tư to lớn, chiếm 42% trong tổng số vốn đầu tư của toàn
ngành dệt may trong thời gian qua. Trong lónh vực cung cấp vải, các nhà
đầu tư nhận đònh thò trường vải cho ngành may Việt Nam là hết sức hấp
dẫn, tuy vậy vẫn còn nhiều trở ngại từ môi trường đầu tư: yêu cầu quá cao
về tiêu chuẩn xử lý nước, giá nước sạch, chi phí điện năng, chi phí hạ
tầng cơ sở vẫn còn cao hơn so với các nước trong khu vực… đã làm cho
sức hút đầu tư vào ngành dệt nhuộm không cao
2.2.1.2 Các yếu tố chính trò và pháp luật:
™ Cơ hội:
¾ Một quốc gia thường xuyên có xung đột chính trò giữa các đảng phái hay

nội chiến gây ra rất nhiều rủi ro cho các doanh nghiệp. Những yếu tố này
chứa đựng những mầm mống cho sự thay đổi của môi trường kinh doanh.
Kể từ khi đất nước ta hoàn toàn giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Đảng
tình hình chính trò của nước ta vô cùng ổn đònh. Đây là một điều kiện
thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế, mọi ngành nghề, ổn đònh hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình.
¾ Từ chỗ bò bao vây, cấm vận, với chính sách đối ngoại mở cửa và linh
hoạt nước ta đã phát triển quan hệ kinh tế với hầu hết các quốc gia, gia
nhập và có vai trò tích cực trong nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu
vực, chủ động từng bước hội nhập có hiệu quả với kinh tế thế giới. Việc
Việt Nam gia nhập ASEAN, bình thường hóa quan hệ với Mỹ, nổ lực gia
nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO là bằng chứng về thiện chí của
Việt Nam trong xu thế hội nhập khu vực và hội nhập thế giới. Ngoài ra,
chính sách đối ngoại mở cửa của nước ta đã tạo ra khả năng tiếp cận với
các nguồn tài chính cho phát triển kể cả các khoản vay cũng như viện trợ
không hoàn lại. Các nguồn vốn này đóng góp tích cực vào phát triển kinh
tế-xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Đây cũng là một cơ hội cho các
doanh nghiệp sử dụng trực tiếp hay gián tiếp các nguồn vốn này.
™ Nguy cơ:
¾ Hệ thống luật pháp chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện và thiếu đồng bộ, bộ
máy quản lý cồng kềnh với các thủ tục hành chính phức tạp, quan liêu

-Trang 22 -


gây không ít khó khăn cho các hoạt động kinh tế.
2.2.1.3 Các yếu tố văn hoá xã hội:
™ Cơ hội:
¾ Khi chất lượng cuộc sống tăng, mức sống và sự hiểu biết người dân nước ta
ngày càng cao, số hộ gia đình nghèo giảm rất nhiều so với các năm trước,

do đó nhu cầu về các sản phẩm may mặc và thời trang cũng có chiều
hướng tăng đáng kể. Đó là một quy luật tự nhiên của xã hội. Và đây cũng
là một cơ hội cho các doanh nghiệp nâng cao giá trò sản phẩm, phục vụ
tốt hơn nhu cầu tiêu dùng.
¾ Dân số nước ta đã vượt con số 80 triệu người, tốc độ gia tăng dân số
khoảng 1,4% năm, do đó có thể thấy một thò trường nội đòa tiêu thụ sản
phẩm dệt may không phải là nhỏ. Với tỷ lệ thất nghiệp là trên 6% của lực
lượng lao động ở độ tuổi lao động, cộng với giá cả lao động tại nước ta vẫn
còn thấp đáng kể so với khu vực và trên thế giới cho thấy nguồn nhân lực
cho phát triển ngành dệt may nói chung và ngành dệt nhuộm nói riêng
luôn có sẵn, có thể nói đây là một trong những lợi thế đáng kể của ngành.
™ Nguy cơ:
¾ Xu hướng tiêu dùng thò trường trong nước luôn luôn có tình trạng ưa
chuộng hàng ngoại nhập, trong khi một số sản phẩm trong nước có chất
lượng tương đương hoặc vượt trội phải rất vất vả để tìm chổ đứng trên thò
trường.
¾ p lực xã hội đòi hỏi các doanh nghiệp phải quan tâm thực hiện các biện
pháp bảo vệ môi trường. Dệt nhuộm và hoàn tất vải là một ngành có khả
năng gây ô nhiễm môi trường cao nên đây cũng là một yếu tố có nhiều
ảnh hưởng trong việc phát triển ngành.
2.2.1.4 Các yếu tố tự nhiên:
™ Cơ hội:
Việt Nam có các điều kiện đất đai, thời tiết khí hậu phù hợp để trồng bông
như vùng đất Tây nguyên: Gia Lai, Đắc lắc; vùng đất Đông nam bộ: Đồng
nai, Bình phước… Nếu khai thác tốt sẽ cho năng suất cao, chất lượng bông tốt
đáp ứng nguyên liệu của ngành công nghiệp kéo sợi, dệt vải, thay thế dần
bông xơ nhập khẩu.
™ Nguy cơ:
Đòa hình đất nước dàn trãi, các đòa bàn thuộc vùng sâu, vùng xa, điều kiện


-Trang 23 -


hạ tầng còn thấp: đường giao thông không thuận tiện,… nên việc vận
chuyển, cung ứng nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm còn khó khăn.
2.2.1.5 Các yếu tố công nghệ:
™ Cơ hội:
Từ kinh nghiệm của các nước trong khu vực, Việt Nam đã chú trọng và
khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng các công nghệ tiên tiến thay cho
công nghệ cũ, lạc hậu, nhằm tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao.
Ngoài ra chú trọng phát triển công ghệ thông tin trong ngành dệt nhuộm được
sự quan tâm đáng kể của các doanh nghiệp. Việc thiết kế mẫu vải, kiểm soát
quá trình sản xuất, dần dần đã được vi tính hóa, tự động hóa. Ứng dụng công
nghệ thông tin giúp các doanh nghiệp trong ngành giảm chi phí, rút ngắn
thời gian thiết kế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, cập nhật thông tin
mới nhất trong ngành.
™ Nguy cơ:
Ngân sách dành cho nghiên cứu và phát triển công nghệ chủ yếu được tài trợ
bởi Nhà nước. Tuy nhiên, ngân sách Nhà nước vốn rất hạn hẹp, lại bò phân
tán dẫn đến chỉ có những khoản ngân sách nhỏ cho những công trình nghiên
cứu đơn lẻ, do vậy phần nhiều công nghệ được ứng dụng trong ngành có
được nhờ chuyển giao, đầu tư, hợp tác với nước ngoài. Với nguồn ngân sách
hạn chế như vậy dẫn đến nhiều công nghệ sản xuất vẫn còn lạc hậu so với
các nước trong khu vực.
2.2.2 Phân tích môi trường vi mô
2.2.2.1 Tình hình cạnh tranh:
Cạnh tranh là yếu tố không thể thiếu được trong nền kinh tế thò trường. Đối
với ngành dệt nhuộm, cạnh tranh chỉ thự sự bắt đầu diễn ra vào những năm 19891990 khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thò trường, và đặc biệt với xu thế
tự do hóa thương mại, hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế thế giới sự cạnh tranh
càng quyết liệt hơn nữa. Nhận thức được vai trò quan trọng của thò trường là yếu tố

đònh sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, các doanh nghiệp đã chú trọng hơn
việc đưa sản phẩm ra thò trường và do đó trong ngành luôn có sự cạnh tranh giữa
các thành phần kinh tế: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và doanh
nghiệp liên doanh hoặc có vốn đầu tư nước ngoài.
Các mặt hàng được sản xuất và gia công của ngành dệt nhuộm tương đối đa
dạng: vải để may áo sơ mi, quần tây từ sợi: cotton 100%, PES 100% (spun),
viscose…, vải dệt thoi phục vụ sinh hoạt: vỏ chăn, áo gối, màn, rèm , khăn trải

-Trang 24 -


×