Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trong thi hành án dân sự (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 84 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐẶNG ĐÌNH TRUNG

CƯỠNG CHẾ CHUYỂN GIAO QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT VÀ TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2020
i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐẶNG ĐÌNH TRUNG

CƯỠNG CHẾ CHUYỂN GIAO QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT VÀ TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN CƯƠNG


Hà Nội – 2020
ii


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đặng Đình Trung

3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 8
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ
CHUYỂN GIAO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI
ĐẤT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ................................................... 14
1.1. Khái quát về biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất trong thi hành án dân sự .............................................. 14
1.1.1. Khái quát chung về thi hành án dân sự ............................................. 14
1.1.2. Cưỡng chế trong thi hành án dân sự ................................................. 15
1.1.3. Cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

trong thi hành án dân sự ............................................................................ 16
1.2. Đặc điểm biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất trong thi hành án dân sự .................................................... 17
1.3. Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất .......................................................................... 21
1.4. Nguyên tắc áp dụng biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất .......................................................................... 23
1.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng biện pháp cưỡng chế chuyển
giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ...................................... 26
1.6. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định biện pháp cưỡng chế chuyển
giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ...................................... 28
1.6.1. Cơ sở lý luận ................................................................................... 28
1.6.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................ 29
1.7. Ý nghĩa của biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự ........................... 29
Kết luận chương I ..................................................................................... 30

4


CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ
BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ CHUYỂN GIAO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ
TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT ............................................................... 31
2.1. Chủ thể tham gia cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất ......................................................................................... 31
2.1.1. Chấp hành viên ............................................................................... 32
2.1.2. Người được thi hành án ................................................................... 33
2.1.3. Người phải thi hành án .................................................................... 34
2.1.4. Viện kiểm sát nhân dân.................................................................... 35
2.1.5. Ủy ban nhân dân ............................................................................. 36
2.1.5.1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện............................................. 36

2.3.1. Tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án 38
2.3.1.1. Xác minh hiện trạng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và
người quản lý, sử dụng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất phải
chuyển giao .............................................................................................. 39
2.3.1.2. Xác minh về nhân thân của người phải thi hành án và gia đình người
phải thi hành án ........................................................................................ 40
2.3.1.3. Xác minh quan hệ, quan điểm của địa phương, thái độ của dư luận đối
với vụ án và đối với người phải thi hành án................................................ 40
2.3.1.4. Xác minh điều kiện địa hình và giao thông nơi tổ chức cưỡng chế .. 42
2.3.1.5. Xác minh nơi ở khác của người phải thi hành án ............................ 43
2.3.2. Ban hành quyết định cưỡng chế ....................................................... 43
2.3.3. Thông báo cưỡng chế ...................................................................... 46
2.3.4. Xây dựng kế hoạch cưỡng chế ......................................................... 50
2.3.4.1. Căn cứ xây dựng kế hoạch cưỡng chế............................................ 51
2.3.4.2. Nội dung bản án, quyết định.......................................................... 51
2.3.4.3. Điều kiện thi hành án của người phải thi hành án ........................... 51

5


2.3.4.4. Đặc điểm, thái độ của người phải thi hành án ................................. 51
2.3.4.5. Yêu cầu về thành phần tham gia cưỡng chế ................................... 51
2.3.4.6. Nội dung kế hoạch cưỡng chế ....................................................... 52
2.3.5. Thực hiện cưỡng chế ....................................................................... 55
2.3.5.1. Trước khi đến địa điểm cưỡng chế................................................. 55
2.3.5.2. Tại địa điểm cưỡng chế................................................................. 55
2.3.6. Dự kiến tình huống .......................................................................... 56
Kết luận chương II .................................................................................... 58
CHƯƠNG III. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THI HÀNH, NHỮNG KHÓ
KHĂN, VƯỚNG MẮC VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

ÁP DỤNG BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ CHUYỂN GIAO QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT VÀ TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT TRONG THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ .................................................................................................. 60
3.1. Thực trạng tổ chức thi hành, những khó khăn, vướng mắc trong việc áp
dụng biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất ...................................................................................................... 60
3.1.1. Thực trạng áp dụng biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất .................................................................... 60
3.1.2. Những khó khăn, vướng mắc gặp phải trong quá trình áp dụng biện pháp
cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.............. 63
3.1.2.1. Khó khăn trong việc xác định tài sản phải chuyển giao ................... 63
3.1.2.2. Sự chống đối của người phải thi hành án và thân nhân của người phải
thi hành án................................................................................................ 65
3.1.2.3. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức của một bộ phận chấp hành
viên còn hạn chế ....................................................................................... 67
3.1.2.4. Công tác phối hợp trong tổ chức cưỡng chế ................................... 68
3.1.2.5. Khó khăn, vướng mắc trong quy định của pháp luật ....................... 69

6


3.1.2.6. Cơ sở vật chất, công cụ hỗ trợ chấp hành viên trong quá trình tổ chức
thi hành .................................................................................................... 72
3.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp cưỡng chế chuyển
giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ...................................... 72
3.2.1. Xây dựng, hoàn thiện pháp luật ........................................................ 73
3.2.2. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức của cán
bộ làm công tác thi hành án ....................................................................... 75
3.2.3. Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát .................. 76
3.2.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo thi hành án dân sự ...... 76

3.2.5. Tăng cường công tác phối hợp trong thi hành án dân sự .................... 77
3.2.6. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành án
dân sự ...................................................................................................... 77
3.2.7. Hoàn thiện cơ sở vật chất, công cụ hỗ trợ chấp hành viên trong quá
trình tổ chức thi hành án............................................................................ 78
Kết luận chương III................................................................................... 78
KẾT LUẬN.............................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 81

7


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ nguyên tắc Hiến định “Bản án, quyết định của Tòa án
nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng;
cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh ch1ấp hành”, hoạt
động thi hành án nói chung và hoạt động thi hành án dân sự nói riêng có ý
nghĩa rất quan trọng đảm bảo các bản án, quyết định của Tòa án được thi hành
trên thực tế nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cá nhân và
tổ chức, góp phần nâng cao hiệu lực của các bản án, quyết định, bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa, duy trì ổn định, trật tự kỷ cương xã hội.
Nhận thức được vai trò quan trọng của công tác thi hành án dân sự,
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số
49-NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 đã nhấn mạnh đến nội dung cải cách về thi hành án dân sự.
Trên tinh thần đó, để thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng đối

với công tác thi hành án dân sự, Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã
ban hành các văn bản có hiệu lực pháp lý cao như: Pháp lệnh Thi hành án dân
sự năm 2004, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp, tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, các vụ việc thi hành án ngày
càng khó khăn, phức tạp, đặc biệt số vụ việc có giá trị thi hành lớn ngày càng

8


nhiều. Thêm vào đó, việc tổ chức thi hành án trực tiếp tác động đến lợi ích
của người phải thi hành án nên người phải thi hành án mặc dù có điều kiện để
thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng luôn có thái độ
chây ỳ, trốn tránh thi hành nghĩa vụ thi hành án. Đối với những đối tượng
chây ỳ, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, để đảm bảo tính nghiêm minh của
pháp luật cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành
án, việc cơ quan Thi hành án dân sự áp dụng các biện pháp cưỡng chế để
buộc họ thi hành án là cần thiết.
Qua thực tiễn công tác thi hành án dân sự, các biện pháp cưỡng chế thi
hành án được các cơ quan thi hành án áp dụng thường xuyên. Mặc dù, Luật
Thi hành án dân sự năm 2008, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thi
hành án dân sự năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định về các
biện pháp cưỡng chế thi hành án, điều kiện, trình tự, thủ tục áp dụng khá cụ
thể, chặt chẽ, đã khắc phục một số điểm hạn chế của Luật Thi hành án dân sự
năm 2008. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số bất cập trong các quy định của pháp
luật về các biện pháp cưỡng chế thi hành án. Trong thực tiễn áp dụng, các cơ
quan thi hành án vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, từ đó, dẫn đến việc
khiếu kiện của công dân đối với việc tổ chức thi hành án của các cơ quan thi

hành án, hiệu quả của các biện pháp cưỡng chế thi hành án chưa cao, ảnh
hưởng không nhỏ đến kết quả tổ chức thi hành án của cơ quan thi hành án.
Trong các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, biện pháp cưỡng
chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất là biện pháp
cưỡng chế rất khó khăn, phức tạp, hay xảy ra sai phạm. Vì vậy, với mục đích
nghiên cứu sâu hơn về biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất, tìm ra những bất cập, hạn chế trong lý luận và thực
tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế này, đồng thời đề xuất các giải pháp để
khắc phục những bất cập, hạn chế nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành

9


án của các cơ quan thi hành án, tôi lựa chọn đề tài “Cưỡng chế chuyển giao
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trong thi hành án dân sự” là
đề tài luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, chưa có một đề tài nghiên cứu cụ thể về biện pháp cưỡng chế
chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trong thi hành án
dân sự. Tuy nhiên, liên quan đến nội dung các biện pháp cưỡng chế trong thi
hành án dân sự đã có một số giáo trình, đề tài khoa học, luận văn, bài viết trên
các tạp chí.
- Giáo trình Luật Thi hành án dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội,
do TS.Nguyễn Công Bình, TS.Bùi Thị Huyền chủ biên, Nhà xuất bản Công
an nhân dân, năm 2018.
- Giáo trình nghiệp vụ thi hành án dân sự phần kỹ năng của Học viện
Tư pháp, do TS.Nguyễn Xuân Thu, ThS.Nguyễn Thị Phíp (chủ biên), Nhà
xuất bản Tư pháp, năm 2016.
- Đề tài “Những điểm mới của Luật Thi hành án dân sự năm 2008” của
tác giả Trần Anh Tuấn, đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại

học Luật Hà Nội năm 2010;
- Đề tài “Biện pháp cưỡng chế kê biên và xử lý tài sản của người phải
thi hành án dân sự”, của tác giả Nguyễn Anh Tuấn, luận văn thạc sĩ năm
2015, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Đề tài “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự liên quan đến đất
ở theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương”,
của tác giả Nguyễn Đình Kiên, luận văn thạc sĩ năm 2016, Học viện Khoa học
xã hội.
- “Những vướng mắc từ thực tiễn thi hành Luật Thi hành án dân sự”,
của tác giả Nguyễn Thị Khanh, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 05/2010;

10


3. Phạm vi và mục đích nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu.
Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, trên cơ sở các quy định của pháp
luật hiện hành về thi hành án dân sự như: Luật Thi hành án dân sự, các Nghị
định, Thông tư hướng dẫn Luật Thi hành án dân sự; thực tiễn nghiên cứu về
các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, luận văn tập trung nghiên cứu
các vấn đề lý luận, thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trong thi hành án dân sự như: Khái
niệm, đặc điểm, nguyên tắc, ý nghĩa, nội dung các quy định của pháp luật và
thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất tại các cơ quan thi hành án dân sự.
- Mục đích nghiên cứu.
Đánh giá được sự cần thiết, những điểm hợp lý và chỉ ra một số điểm
bất cập trong các quy định của pháp luật về biện pháp cưỡng chế chuyển giao
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, những khó khăn, vướng mắc
các cơ quan thi hành án thường gặp trong thực tiễn áp dụng. Trên cơ sở đó,

đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện các quy định của pháp luật và hướng
khắc phục những tồn tại, hạn chế góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện
pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Thứ nhất; khái quát các vấn đề lý luận về biện pháp cưỡng chế chuyển
giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trong thi hành án dân sự
như: Khái niệm, đặc điểm, điều kiện và nguyên tắc áp dụng, cơ sở lý luận, cơ
sở thực tiễn của biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất.
Thứ hai; phân tích, đánh giá nội dung các quy định của pháp luật, thực
tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản

11


gắn liền với đất, đồng thời nêu một số khó khăn, vướng mắc gặp phải trong
thực tiễn áp dụng.
Thứ ba; đưa ra một số giải pháp để khắc phục những tồn tại, khó khăn,
vướng mắc trên.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí
Minh và chủ trương, đường lối của Đảng về Nhà nước và pháp luật.
Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương
pháp thống kê, tổng hợp …
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Trên cơ sở phân tích các khái niệm, đặc điểm, ý
nghĩa và nội dung biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất, luận văn đánh giá thực trạng tổ chức thi hành án, những
khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế chuyển giao

quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Góp phần hoàn thiện pháp luật
về thi hành án dân sự, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, cung
cấp thêm các nguồn tài liệu cho việc giảng dạy, nghiên cứu.
- Ý nghĩa thực tiễn: Từ những phân tích, đánh giá trên cơ sở lý luận,
thực tiễn, luận văn đưa ra các giải pháp khắc phục những tồn tại, khó khăn
vướng mắc góp phần nâng cao hiệu quả việc tổ chức thi hành các bản án,
quyết định, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền, lợi ích hợp
pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm 3 chương, cụ thể:

12


Chương 1: Những vấn đề lý luận về biện pháp cưỡng chế chuyển giao
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trong thi hành án dân sự.
Chương 2. Thực trạng quy định pháp luật về biện pháp cưỡng chế
chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.
Chương 3. Thực trạng tổ chức thi hành, những khó khăn, vướng mắc và
những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp cưỡng chế chuyển giao
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trong thi hành án dân sự.

13


CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP
CƯỠNG CHẾ CHUYỂN GIAO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ TÀI SẢN
GẮN LIỀN VỚI ĐẤT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái quát về biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng

đất và tài sản gắn liền với đất trong thi hành án dân sự
1.1.1. Khái quát chung về thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, người
được thi hành án, người phải thi hành án và các chủ thể khác trong việc thực
hiện các bản án, quyết định dân sự; hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu
tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định
dân sự trong bản án, quyết định hình sự; phần tài sản trong bản án, quyết định
hành chính của Tòa án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định
xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan
đến tài sản của bên phải thi hành án và phán quyết, quyết định của Trọng tài
thương mại (Sau đây gọi chung là bản án, quyết định) [18, Điều 1].
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về hoạt động thi hành án dân
sự. Quan điểm thứ nhất cho rằng thi hành án dân sự là một dạng của hoạt
động hành chính; quan điểm thứ hai cho rằng thi hành án dân sự là một dạng
của hoạt động hành chính - tư pháp; quan điểm thứ ba cho rằng thi hành án
dân sự là một dạng của hoạt động tư pháp.
Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân, thi hành án dân sự là một dạng
hoạt động hành chính- tư pháp bởi lý do:
- Tính hành chính thể hiện ở chỗ: Thi hành án là dạng hoạt động mang
tính chấp hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án,
Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, toàn bộ quá trình thi hành án
với những hoạt động, biện pháp, cách thức khác nhau đều nhằm thực hiện
những nội dung đã được thể hiện trong các bản án, quyết định của Tòa án và

14


theo các quy định cụ thể của pháp luật. Bên cạnh đó, thi hành án là dạng hoạt
động quản lý vì thi hành án là sự tác động của pháp luật, của các cơ quan thi
hành án tới đối tượng phải thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các

biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong các bản án,
quyết định của Tòa án; phải tuân theo các quy định của pháp luật.
- Tính tư pháp thể hiện ở chỗ: Thi hành án dân sự gắn liền với hoạt
động xét xử, giải quyết tranh chấp vì xét xử, giải quyết tranh chấp và thi hành
án dân sự là hai mặt của quá trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương
sự, thi hành án dân sự mang tính độc lập đặc trưng của hoạt động tư pháp và
do cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thực hiện.
1.1.2. Cưỡng chế trong thi hành án dân sự
Theo quy định của pháp luật, bản án, quyết định của Tòa án là nhân
danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thể hiện quyền lực nhà
nước. Khi bản án, quyết định được ban hành và có hiệu lực pháp luật thì tất cả
các chủ thể có liên quan có nghĩa vụ phải chấp hành nghiêm chỉnh phán quyết
đó. Tuy nhiên, không phải lúc nào các phán quyết đều được các chủ thể chấp
hành trên thực tế. Vì vậy, để đảm bảo các phán quyết được thi hành trên thực
tế, bảo vệ lợi ích của các chủ thể cần thiết phải quy định các biện pháp cưỡng
chế cụ thể và trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Việc thực
hiện các quy định này là phương tiện để thực hiện quyền lực nhà nước đồng
thời là phương tiện để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể liên quan
trong thi hành án.
Thi hành án dân sự là quá trình thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự
của các đương sự đã được xác định trong các bản án quyết định được đưa ra
thi hành. Do vậy, trong thi hành án dân sự, động viên, thuyết phục các đương
sự tự nguyện thi hành án được coi là biện pháp quan trọng trong hoạt động thi
hành án dân sự. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, người phải thi hành án

15


mặc dù có điều kiện thi hành án nhưng vẫn không tự nguyện thi hành trong
thời gian mà cơ quan thi hành án đã ấn định, tìm cách trì hoãn, trốn tránh việc

thi hành án. Trong trường hợp này để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người được thi hành án, bảo đảm cho bản án, quyết định được thi hành
nghiêm chỉnh thì việc cưỡng chế thi hành án là hết sức cần thiết. Theo quy
định tại Điều 45 Luật Thi hành án dân sự 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm
2014), sau khi hết thời gian tự nguyện thi hành án do Chấp hành viên ấn định,
nếu người phải thi hành án có điều kiện thi hành mà không thi hành án, hoặc
trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán,
hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên có quyền
áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án.
Cưỡng chế là dùng quyền lực nhà nước bắt buộc cá nhân, tổ chức phải
thực hiện những việc trái với ý muốn của họ. Cưỡng chế gắn liền với hoạt
động quản lý nhà nước và là một trong những phương pháp chủ yếu của hoạt
động quản lý nhà nước. Trong nhà nước pháp quyền, việc cưỡng chế nhằm
mục đích thi hành pháp luật của nhà nước, duy trì trật tự xã hội. [2,tr 232]
Như vậy, cưỡng chế thi hành án dân sự là một biện pháp thi hành án
dân sự dùng quyền lực nhà nước buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa
vụ thi hành án dân sự của họ được xác định trong bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật, do Chấp hành viên áp dụng trong trường hợp mặc dù
người phải thi hành án có điều kiện thi hành mà không tự nguyện thi hành án
hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu
tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án.
1.1.3. Cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất trong thi hành án dân sự
Khoản 1 Điều 104 Luật Đất đai năm 2013 quy định về cấp Giấy chứng
nhận đối với tài sản gắn liền với đất, như sau: “Tài sản gắn liền với đất được

16


cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác

gắn liền với đất bao gồm nhà ở, công trình xây dựng khác, rừng sản xuất là
rừng trồng và cây lâu năm có tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” .
Như vậy, theo quy định của pháp luật, tài sản gắn liền với đất bao gồm
nhà ở, công trình xây dựng khác, rừng sản xuất là rừng trồng và cây lâu năm
có tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất.
Từ những quy định trên có thể hiểu: Cưỡng chế chuyển giao quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất trong thi hành án dân sự là biện pháp
cưỡng bức bắt buộc do Chấp hành viên thực hiện khi người phải thi hành án
có nghĩa vụ chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, mặc dù
có điều kiện thi hành nhưng không tự nguyện thi hành, nhằm chuyển quyền
quản lý, sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất từ người phải thi hành án sang
người được thi hành án để thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực.
1.2. Đặc điểm biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất trong thi hành án dân sự
Thứ nhất; cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất thể hiện quyền lực của Nhà nước và được đảm bảo thực hiện bằng sức
mạnh của Nhà nước [2, tr 233].
Việc cưỡng chế thi hành án nói chung và cưỡng chế chuyển giao quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất nói riêng là nhân danh nhà nước buộc
người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án của mình, nên phải
được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các tổ chức, cá
nhân khác không có quyền tự mình dùng sức mạnh để buộc người phải thi
hành án thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định. Ở nước
ta, trước đây thẩm quyền tổ chức thi hành án dân sự được giao cho các cơ

17



quan thi hành án dân sự. Trong quá trình tổ chức thi hành án chỉ có Chấp
hành viên đại diện cho cơ quan thi hành án dân sự là chủ thể có thẩm quyền
lựa chọn các biện pháp cưỡng chế và ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng
chế thi hành án dân sự phù hợp.
Hiện nay, theo xu thế xã hội hóa thi hành án dân sự, hoạt động thi hành
án nói chung và tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng còn được giao
cho Thừa phát lại. Điều 3 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24 tháng 7 năm
2009 quy định như sau:
“Điều 3. Công việc Thừa phát lại được làm.
1. Thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa án hoặc Cơ quan thi
hành án dân sự.
2. Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
3. Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự.
4. Trực tiếp tổ chức thi hành án các bản án, quyết định của Tòa án theo
yêu cầu của đương sự. Thừa phát lại không tổ chức thi hành án các bản án,
quyết định thuộc diện Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra
quyết định thi hành án.”
Tuy nhiên, từ khi Thừa phát lại được tổ chức thí điểm và đi vào hoạt
động trên cả nước thì hoạt động tổ chức thi hành án dân sự của Thừa phát lại
còn rất hạn chế. Theo số liệu thống kê, từ ngày 01/01/2016 đến ngày
30/07/2018, các Văn phòng Thừa phát lại mới thực hiện xác minh điều kiện
thi hành án 70 vụ và trực tiếp tổ chức thi hành án 195 vụ việc.
Thứ hai; biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất được Chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải
thi hành án có nghĩa vụ chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với
đất theo quy định của pháp luật hoặc theo bản án, quyết định mặc dù có điều
kiện thi hành nhưng không tự nguyện thi hành án [2, tr 234].

18



Theo quy định của Luật thi hành án dân sự, cưỡng chế chuyển giao quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất được áp dụng trong hai trường hợp: Bản
án, quyết định của Tòa án tuyên cụ thể nghĩa vụ chuyển giao quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất của người phải thi hành án. Hoặc theo quy định
của pháp luật, cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất theo quy định của pháp luật là nghĩa vụ của người phải thi hành án
trong bản án, quyết định của tòa án không phải là nghĩa vụ chuyển giao quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Tuy nhiên, để thực hiện nghĩa vụ của
người phải thi hành án theo bản án, quyết đã tuyên thì phải thực hiện giai
đoạn cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.
Nghĩa là, cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất là một giai đoạn trong
quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định.
Như vậy, xét về bản chất, nghĩa vụ chuyển giao quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với đất là nghĩa vụ chuyển giao về tài sản
Trong thi hành án dân sự, nhà nước luôn khuyến khích các bên đương
sự tự nguyện thi hành án, có quyền tự do thể hiện ý chí của mình, tự định đoạt
hay thoả thuận về việc thi hành án dân sự. Tuy nhiên, biện pháp động viên,
thuyết phục các bên đương sự tự nguyện thi hành án hay để các bên đương sự
tự thỏa thuận việc thi hành án không phải lúc nào cũng đạt hiệu quả. Trong
trường hợp này, để đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của người được thi
hành án và thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật trước thái độ không chấp
hành án của người phải thi hành án việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi
hành án được xem là giải pháp cần thiết nhằm buộc người phải thi hành án
phải thực hiện nghĩa vụ thi hành án của họ.
Thứ ba; đối tượng của biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất. Trong thi hành án dân sự, đối tượng của các
biện pháp cưỡng chế thi hành án gồm tài sản hoặc hành vi của người phải thi

19



hành án. Biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất có đối tượng là tài sản của người phải thi hành án, những tài sản
này thường có giá trị lớn, là nơi sinh sống, làm ăn duy nhất của người phải thi
hành án và gia đình.
Thứ tư; khi áp dụng biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất ngoài việc phải thực hiện các nghĩa vụ trong
bản án, quyết định người phải thi hành án còn phải chịu mọi chi phí cưỡng
chế thi hành án dân sự [2, tr 235].
Khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người phải thi hành án
buộc phải biết những nghĩa vụ của mình đã được xác định trong bản án, quyết
định và có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đó. Việc người phải thi hành án
không tự nguyện thực hiện các nghĩa vụ buộc cơ quan Thi hành án dân sự
phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế để buộc người phải thi hành án thực
hiện nghĩa vụ của mình là do lỗi của họ. Vì vậy, người phải thi hành án ngoài
nghĩa vụ phải thực hiện theo bản án, quyết định thì còn phải chịu các chi phí
phát sinh từ việc tổ chức cưỡng chế thi hành án.
Thứ năm; biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất được Chấp hành viên quyết định áp dụng không những có
hiệu lực đối với người phải thi hành án mà còn có hiệu lực cả đối với các cá
nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan [2, tr 236].
Quyết định cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất là quyết định cưỡng chế do Chấp hành viên ban hành nhằm mục
đích thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, nhân danh quyền
lực Nhà nước. Vì vậy, các đương sự, các cá nhân, tổ chức có liên quan đều
phải nghiêm chỉnh chấp hành.

20



1.3. Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất
Thứ nhất; bản án, quyết định hoặc theo quy định của pháp luật xác định
người phải thi hành án có nghĩa vụ chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất [28, tr 411].
Biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất được quy tại khoản 5 Điều 71, Điều 117 và Điều 115 Luật thi hành án
dân sự năm 2008 (được sửa đổi bổ sung năm 2014). Biện pháp này do Chấp
hành viên áp dụng khi người phải thi hành án có trách nhiệm thực hiện nghĩa
vụ chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo bản án,
quyết định hoặc theo quy định của pháp luật.
Người phải thi hành án có nghĩa vụ chuyển giao quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với đất theo bản án, quyết định là trường hợp tại phần quyết
định của bản án, quyết định tuyên người phải thi hành án có nghĩa vụ chuyển
giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho người được thi hành án.
[28, tr 411].
Người phải thi hành án có nghĩa vụ chuyển giao quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật là trường hợp người phải
thi hành án có nghĩa vụ trả tiền theo bản án, quyết định do không tự nguyện
thi hành nên cơ quan Thi hành án dân sự đã áp dụng biện pháp cưỡng chế kê
biên, bán đấu giá quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất để thi hành án.
Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đã được bán đấu giá thành mà
người phải thi hành án không tự nguyện chuyển giao quyền sử dụng đất cho
người mua trúng đấu giá nên Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế
chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Hoặc từ sau hai lần
giảm giá, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất vẫn không có người
đăng ký tham gia đấu giá hoặc bán đấu giá không thành, người được thi hành

21



án đồng ý nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án mà người phải thi
hành án không tự nguyện chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất nên Chấp hành viên tổ chức cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất cho người mua trúng đấu giá hoặc người được thi
hành án [28, tr 411- 412].
Thứ hai; đã hết thời hạn tự nguyện thi hành hoặc người phải thi hành án
có hành vi tẩu tán, hủy hoại hoặc trốn tránh việc thi hành án [28, tr 142].
Khoản 1 Điều 45 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ
sung năm 2014) quy định:
“Thời hạn tự nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi
hành án nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết
định thi hành án.”
Chấp hành viên chỉ được tổ chức cưỡng chế chuyển giao quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho người được thi hành án hoặc người
mua trúng đấu giá sau khi đã hết thời gian tự nguyện thi hành án mà người
phải thi hành án có điều kiện thi hành nhưng không tự nguyện thi hành.
Tuy nhiên, trong trường hợp xét thấy người phải thi hành án có hành vi
tẩu tán tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án thì mặc dù chưa hết thời gian
tự nguyện thi hành án, Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp
cưỡng chế thi hành nghĩa vụ chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất.
Đối với trường hợp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật: Sau khi cơ quan thi hành án
ban hành quyết định thi hành án, người phải thi hành án đã có thời gian tự
nguyện thi hành án là 10 ngày kể từ khi nhận được quyết định thi hành án
hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án. Sau khi Chấp hành viên
thực hiện các thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, bán đấu giá quyền


22


sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của người phải thi hành án, đã có người
mua trúng đấu giá hoặc người được thi hành án nhận tài sản để đối trừ nghĩa
vụ thi hành án mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì Chấp
hành viên tiếp tục áp dụng biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất để giao tài sản. Hiện nay, pháp luật không quy
định hay hướng dẫn về việc người phải thi hành án tiếp tục có thời gian tự
nguyện để thực hiện việc giao tài sản hay không. Tuy nhiên, để đảm bảo
quyền lợi của người phải thi hành án, thực tiễn thi hành án các cơ quan Thi
hành án vẫn áp dụng thời hạn tự nguyện để người phải thi hành án tự nguyện
giao tài sản cho người được thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 45
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014).
1.4. Nguyên tắc áp dụng biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế trong thi hành án dân sự nói chung
và cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất nói
riêng là biện pháp nghiêm khắc nhất mà Chấp hành viên áp dụng, sử dụng
quyền lực nhà nước buộc người phải thi hành án thực hiện bản án, quyết định
nên không thể tùy tiện, thiếu thống nhất mà ngược lại phải tuân theo các
nguyên tắc do pháp luật thi hành án dân sự quy định. Các nguyên tắc cưỡng
chế thi hành án không được quy định trong một điều luật cụ thể mà được quy
định rải rác trong các điều luật. Theo quy định tại Điều 45, Điều 46 và Điều
71 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì
việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
Thứ nhất; chỉ Chấp hành viên mới có quyền áp dụng các biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự. [2, tr 238].
Cưỡng chế thi hành án dân sự là dùng quyền lực nhà nước để buộc
người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án của mình. Do vậy, chủ


23


thể tiến hành phải là người được nhà nước giao quyền, nhân danh nhà nước
áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Chủ thể này phải đáp ứng được các tiêu
chuẩn, điều kiện do pháp luật quy định. Theo pháp luật hiện hành, Chấp hành
viên là những người được nhà nước giao quyền để tổ chức thi hành các bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và là chủ thể có quyền quyết định áp
dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự để thi hành án. Ngoài Chấp
hành viên các chủ thể khác tự tổ chức việc cưỡng chế bằng sức mạnh để “siết
nợ”, “bắt nợ” đều bị coi là trái pháp luật.
Thứ hai; chỉ được tổ chức cưỡng chế trong thời gian pháp luật cho phép
[2, tr 239].
Việc cưỡng chế thi hành án dân sự là cần thiết nhằm đảm bảo hiệu lực
của bản án, quyết định, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi
hành án. Tuy nhiên, để việc thi hành án dân sự không ảnh hưởng tới trật tự
công cộng, vì mục đích nhân đạo và tôn trọng phong tục truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, pháp luật quy định không được tiến hành cưỡng chế thi hành án
trong thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm sau, các ngày nghỉ, ngày
lễ theo quy định của pháp luật và các trường hợp đặc biệt khác do Chính phủ
quy định [19, Điều 46].
Theo quy định tại Điều 115 Bộ luật Lao động năm 2012, các ngày nghỉ,
ngày lễ gồm:
“Người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương những ngày
lễ, tết sau đây:
- Tết dương lịch 01 ngày (Ngày 01 tháng 01 dương lịch);
- Tết âm lịch 05 ngày;
- Ngày Chiến thắng 01 ngày (Ngày 30 tháng 4 dương lịch);
- Ngày Quốc tế lao động 01 ngày (Ngày 01 tháng 5 dương lịch);

- Ngày Quốc khánh 01 ngày (Ngày 02 tháng 9 dương lịch);

24


- Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương 01 ngày (Ngày 10 tháng 3 âm lịch)”.
Ngoài ra, khoản 2, khoản 3 Điều 13 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày
18/7/2015 của Chính phủ cũng quy định:
“Ngoài những trường hợp không tổ chức cưỡng chế thi hành án do
Luật Thi hành án dân sự quy định, cơ quan thi hành án dân sự không tổ chức
cưỡng chế thi hành án có huy động lực lượng trong thời gian 15 ngày trước
và sau tết Nguyên đán; các ngày truyền thống đối với các đối tượng chính
sách, nếu họ là người phải thi hành án; các trường hợp đặc biệt khác ảnh
hưởng nghiêm trọng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, phong tục,
tập quán tại địa phương.”
Thứ ba; chỉ được áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án sau khi đã
hết thời gian tự nguyện thi hành án, trừ trường hợp cần áp dụng các biện pháp
bảo đảm hoặc biện pháp cưỡng chế theo quy định tại khoản 2 Điều 45 Luật
thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Để khuyến khích người phải thi hành án tự nguyện thi hành án, Luật
Thi hành án dân sự đã quy định thời gian tự nguyện thi hành án 10 ngày, kể từ
ngày nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án. Nếu
trong thời gian tự nguyện thi hành án không đạt được kết quả như mong muốn
thì Chấp hành viên mới được áp dụng các biện pháp cưỡng chế để buộc người
phải thi hành án thi hành theo đúng bản án, quyết định. Như vậy, Chấp hành
viên chỉ áp dụng các biện pháp cưỡng chế khi và chỉ khi đã hết thời gian tự
nguyện thi hành án.
Tuy nhiên, để đảm bảo công tác thi hành án dân sự đạt kết quả, với mục
đích ngăn chặn các hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ
thi hành án của người phải thi hành án, trong thời gian tự nguyện thi hành án,

Chấp hành viên được áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế
được quy định tại chương IV về việc áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện

25


×