Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH VỚI VIỆC PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU CUNG ỨNG VẬT TƯ THIẾT BỊ ĐƯỜNG SẮT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.13 KB, 8 trang )

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG BÁO
CÁO TÀI CHÍNH VỚI VIỆC PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG
TY XUẤT NHẬP KHẨU CUNG ỨNG VẬT TƯ THIẾT BỊ ĐƯỜNG SẮT
(VIRASIMEX)
2.1 SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH
2.1.1. Hoàn thiện để cung cấp thông tin tài chính:
Giao thông vận tải là một trong những ngành trọng yếu của nền kinh tế
quốc dân. Ngành vận tải Đường Sắt Việt Nam đã góp phần tích cực vào việc
phát triển kinh tế đất nước, củng cố an ninh quốc phòng.
Trong thực tế hoạt động kinh doanh và qua đánh giá thực trạng lập và
phân tích báo cáo tài chính của Công ty Xuất nhập khẩu cung ứng vật tư thiết
bị đường sắt ta thấy bộc lộ một số điểm yếu kém. Các điểm yếu chủ yếu về mặt
quản lý tài chính thể hiện ở việc lập và phân tích một số chỉ tiêu trên các báo
cáo tài chính này. Khi các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính thiếu, thừa hoặc đặt ở
vị trí không phù hợp sẽ làm giảm hiệu quả của việc lập và phân tích chúng.
Nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường, đối tượng sử dụng thông tin tài
chính - kế toán không chỉ bó hẹp trong phạm vi những người quản lý doanh
nghiệp, những nhà quản lý Nhà nước mà còn gồm cả đối tượng bên ngoài
như: các nhà đầu tư, các chủ nợ hiện tại và tương lai... Những đối tượng này
phải đưa ra những quyết định có tính chất khác biệt nhau, ví dụ như:
- Nhà đầu tư và cho vay có nên quyết định đầu tư hoặc cho vay hay không?
- Nhà quản trị có cơ hội để cải thiện hiệu quả hoạt động của công ty hay
không?
- Các cơ quan quản lý Nhà nước có cần điều tiết hoạt động của doanh nghiệp
hay không?
Mỗi loại quyết định cần những thông tin khác nhau, vì vậy cần phải sử
dụng các phương pháp phân tích khác nhau và các dữ liệu phân tích khác nhau
để cung cấp thông tin hữu ích cho việc ra quyết định.
Quyết định về đầu tư và cung cấp tín dụng:
Những người chủ sở hữu và chủ nợ, và nhất là những người dự kiến có ý
định đầu tư hay cho vay, đều mong muốn dự đoán khả năng sinh lợi cũng như


mức độ rủi ro trong công việc của mình. Mức sinh lợi mong muốn và mức rủi
ro chấp nhận được sẽ thay đổi khác nhau tuỳ theo đối tượng là nhà đầu tư,
người cho vay ngắn hạn hay dài hạn.
Đối với các cổ đông, mục đích của việc đầu tư là hưởng tiền lãi cổ phần và
lãi do bán lại cổ phần khi tăng giá. Họ muốn dự đoán lợi tức tương lai của
doanh nghiệp vì khả năng sinh lợi của doanh nghiệp là căn cứ tốt nhất để đánh
giá khả năng chia lãi cổ phần và giá thị thường của cổ phiếu. Như vậy câu hỏi
đầu tiên mà các cổ đông muốn giải đáp là: thu nhập hiện hành được thoả mãn
như thế nào và giá cổ phiếu công ty hiện tại trên thị trường ra sao?
Đối với các nhà cung cấp tín dụng ngắn hạn, thì quan tâm đến việc khách
hàng nhanh chóng trả nợ khi đến hạn, vì vậy họ quan tâm đến khả năng thanh
toán ngắn hạn của doanh nghiệp, tức là khả năng trả nợ ngắn hạn bằng tiền
và các tàI sản có thể chuyển đổi thành tiền.
Đối với những nhà cung cấp tín dụng dài hạn, lại muốn tiên đoán khả năng
chi trả tiền lãi định kỳ một cách đều đặn trong một thời gian dài và trả nợ gốc
đúng hạn, đó là khả năng trả nợ dài hạn của doanh nghiệp.
Quyết định của nhà quản trị:
Những nhà quản trị doanh nghiệp có trách nhiệm trước tất cả những
người sử dụng báo cáo tài chính. Họ phải thường xuyên theo dõi tình hình tài
chính và kết quả hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời áp dụng các biện
pháp điều chỉnh ở các khâu cần thiết. Nhưng trước khi hành động họ phải tìm
hiểu những điểm yếu và điểm mạnh của chính doanh nghiệp. Từ những thông
tin rút ra qua phân tích báo cáo tài chính sẽ giúp các nhà quản trị xác định các
vấn đề liên quan đến hiệu quả hoạt động, sử dụng tài sản, cân đối nợ-vốn, đó là
những vấn đề cần phải giải quyết nhằm đạt được những mục tiêu trước mắt
và lâu dài về khả năng sinh lợi và khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Nếu không tiến hành các giải pháp cần thiết để hoàn thiện lập và phân tích
báo cáo tài chính hiện hành trong thực tế hoạt động của Công ty Xuất nhập
khẩu cung ứng vật tư thiết bị đường sắt thì các thông tin trong hệ thống báo
cáo tài chính sẽ trở nên vô nghĩa và không đạt được các mục tiêu đề ra.

2.1.2. Phản ánh trung thực tình hình sản xuất kinh doanh của các công
ty:
Hoạt động tài chính có mối quan hệ trực tiếp với hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Do đó, tất cả các hoạt động sản xuất, kinh doanh đều có ảnh hưởng đến
tình hình tài chính của công ty. Ngược lại, tình hình tài chính tốt hay xấu đều
có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm đối với quá trình sản xuất, kinh doanh. Vì
vậy, các công ty có thể kiểm soát chặt chẽ hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình bằng sử dụng các công cụ tài chính doanh nghiệp thông qua những hoạt
động của nó. Điều này cho phép các công ty kịp thời phát hiện những tồn tại,
thiếu sót cũng như ưu điểm trong đầu tư kinh doanh, từ đó đưa ra những
quyết định, những biện pháp cần thiết nhằm điều chỉnh hoạt động hoặc phát
huy thế mạnh, tiềm năng của công ty.
Kết quả và tình hình các mặt hoạt động của công ty được phản ánh bằng
các chỉ tiêu kinh tế - tài chính trên các báo cáo tài chính. Nếu các chỉ tiêu về
mặt tài sản như vốn bằng tiền, các khoản phải thu, tài sản cố định, các khoản
đầu tư tăng thể hiện công ty mở rộng quy mô kinh doanh. Nếu các chỉ tiêu về
mặt công nợ và nguồn vốn chủ sở hữu như các khoản vay ngắn hạn, dài hạn,
các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả khác, vốn và quỹ công ty
tăng thể hiện công ty đã tăng việc huy động từ bên ngoài và từ các nguồn vốn
tự có vào việc mở rộng quy mô hoạt động. Tuy nhiên, để đánh giá một cách
trung thực hiệu quả của tình hình sản xuất, kinh doanh của công ty thì phải dựa
trên việc đánh giá mối liên hệ tương quan giữa các chỉ tiêu đó.
Mối quan hệ giữa các số liệu chủ yếu trong bảng cân đối kế toán, báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và mối quan hệ số
liệu trong các báo cáo của nhiều kỳ liên tiếp nhau, không hiển thị rõ ràng nếu
không có phân tích. Vì vậy, những nhà chuyên môn đã thiết lập những hệ số, tỷ
lệ ... biểu thị ý nghĩa các mối quan hệ và phản ánh các khuynh hướng có thể kết
luận được. Người sử dụng báo cáo tài chính có thể cần so sánh hiệu quả hoạt
động của một doanh nghiệp đối với các tiêu chuẩn khách quan định trước, hay
đối với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành hoạt động hay đối với các cơ

hội đầu tư khác.
2.1.3. Giúp cho công ty có cơ sở thực tế xây dựng chiến lược phát triển:
Công ty muốn tồn tại trong nền kinh tế thị trường thì cần phải có các chiến
lược phát triển. Các chiến lược phát triển này cần được xây dựng từng bước
cụ thể vừa phù hợp với thực trạng của công ty vừa có những dự báo về tình
hình chung của nền kinh tế, của môi trường kinh doanh. Chiến lược kinh doanh
của công ty phải nhằm vào mục đích tăng thế lực của công ty và giành lợi thế
cạnh tranh, phải khai thác triệt để lợi thế so sánh của công ty, tập trung vào các
biện pháp để tận dụng thế mạnh và khắc phục các yếu điểm có tính chất sống còn.
Trong khi xây dựng chiến lược kinh doanh, công ty cần xác định phạm vi kinh
doanh, mục tiêu và những điều kiện cơ bản để thực hiện mục tiêu. Xác định phạm
vi kinh doanh đòi hỏi chiến lược kinh doanh phải đảm bảo không sử dụng dàn
trải nguồn lực hoặc sử dụng không hết nguồn lực.
Căn cứ chủ yếu hay tam giác chiến lược để xây dựng chiến lược kinh doanh
là: khách hàng, khả năng của công ty và đối thủ cạnh tranh. Cơ sở để lập kế
hoạch kinh doanh là tình hình thực tế của công ty trong kỳ và kế hoạch, nhiệm
vụ chung của công ty trong kỳ tới. Tình hình thực tế của công ty về hoạt động
kinh doanh được thể hiện thông qua các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính và sử
dụng hệ thống báo cáo để phân tích tài chính và hoạt động kinh doanh. Do vậy,
muốn có được cơ sở cho việc xây dựng chiến lược phát triển công ty, có được
kế hoạch sản xuất kinh doanh đúng đắn, phù hợp với thực tế và điều kiện phát
triển thì các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính phải thể hiện được đầy đủ các nội
dung kinh tế của nó. Nhờ có các số liệu từ các chỉ tiêu trên các báo cáo tài
chính mà các nhà lập kế hoạch có thể đưa ra các nhận xét, đánh giá một cách
khách quan về thực trạng của công ty cũng như phương hướng phát triển
trong tương lai của công ty.
2.1.4. Giúp cho cơ quan quản lý Nhà nước nắm được thực trạng sản
xuất kinh doanh của công ty:
Hoạt động tài chính luôn luôn gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty. Kết quả của hoạt động tài chính được thể hiện thông qua các chỉ

tiêu trong hệ thống báo cáo tài chính công ty. Hoạt động tài chính trong phạm
vi một công ty thể hiện rõ nét thông qua sự vận động của vốn kinh doanh, sự
vận động của các nguồn tài chính, thực hiện thu chi của các quỹ tiền tệ trong
công ty, thực hiện các chỉ tiêu tài chính và các quan hệ thanh toán với các chủ
thể có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Các cơ quan
quản lý Nhà nước có thể nắm được và kiểm soát thực trạng sản xuất kinh
doanh của công ty thông qua hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp. Các cơ
quan quản lý Nhà nước cần có các thông tin cần thiết về hoạt động kinh doanh
của công ty có đúng chính sách, chế độ hay đúng luật pháp hay không, để thu
thuế và đưa ra các quyết định cho các vấn đề xã hội ... Các thông tin về hoạt
động kinh doanh của công ty có thể được thể hiện trực tiếp trên các chỉ tiêu
trong hệ thống báo cáo tài chính của công ty như các chỉ tiêu về tài sản, công
nợ và nguồn vốn kinh doanh; các thông tin khác lại được thể hiện gián tiếp qua
việc phân tích, so sánh các chỉ tiêu đó với nhau. Việc phân tích các chỉ tiêu trên
báo cáo tài chính về mặt con số kết hợp với việc đánh giá thực trạng và
phương hướng hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty sẽ mang lại một
cái nhìn tổng thể về toàn bộ hoạt động của công ty. Chẳng hạn, các cơ quan
quản lý Nhà nước khi xem xét hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty

×