Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

KHÓA LUẬN tốt NGHIỆP tư tưởng triết học phật giáo của trần thái tông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.68 KB, 66 trang )

MỞ ĐẦU
Phật giáo ra đời khoảng thế kỷ thứ VI, thứ V TCN ở Ấn Độ, đáp ứng
những đòi hỏi căn bản của cuộc sống tinh thần và cả những đòi hỏi của xã hội
Ấn Độ nhằm khắc phục thái cực xuất thế (thần quyền) của Bà La Môn giáo
lúc đó. Khi đã trở thành quốc giáo dưới thời Asoka (thế kỷ III TCN), Phật
giáo bắt đầu lan ra ngoài Ấn Độ và phát triển thành tôn giáo khu vực. Có lẽ
cũng khoảng thời gian vua Asoka cử chín phái đoàn truyền giáo sang các
nước Đông Nam Á, Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam. Trong buổi đầu du
nhập, Phật giáo đã góp phần bổ sung tôn giáo, giải thoát hướng nội cho hệ
thống tín ngưỡng bản địa của Việt Nam lúc đó còn khá đơn giản và chưa phát
triển tới hình thức quốc giáo. Qua những thế kỷ đầu tiên này, văn hóa dân tộc
Lạc Việt đã tiếp thu Phật giáo từ hai ngả, Ấn Độ và Trung Quốc. Có thể thấy
ngay từ thời kỳ đầu du nhập, lúc chưa là tôn giáo chính thống, Phật giáo đã có
khuynh hướng nhập thế, đồng hành cùng dân tộc Việt.
Khi đất nước độc lập (thế kỷ thứ X) cho đến thời kỳ nhà Trần (thế kỷ
XIII), Phật giáo tiếp tục khẳng định uy tín và vai trò xã hội của nó đối với nhà
nước non trẻ, như một điểm tựa ý thức tự cường và như một công cụ tinh thần
dân tộc khi tích hợp kiến thức với Nho và Lão nhằm kiến thiết, quản lý và
phát triển đất nước. Với vị thế như vậy, Phật giáo đã trở thành quốc giáo, phát
triển rộng khắp và thấm vào đời sống tinh thần của người Việt. Trong thời kỳ
này, các triều đại đều xuất hiện nhiều nhà sư nổi tiếng uyên bác cả tam giáo,
thông thạo cả Hán và Phạn ngữ, đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển đất nước
không chỉ về tín ngưỡng, tâm linh, mà cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn
hóa. Phật giáo bác học được khẳng định và chính thức hóa nhưng luôn gắn
liền với các vấn đề thế sự của dân tộc. Nhiều nhà sư trở thành cố vấn cho nhà
vua về đường lối chính trị, quân sự, văn hóa với các chức năng như tăng
thống, tăng lục hay tước hiệu như Khuông Việt, Quốc Sư… Sự toàn thịnh của
Phật giáo đạt tới đỉnh cao vào thời Lý và Trần là một tất yếu lịch sử của Phật
giáo Việt Nam, và khuynh hướng nhập thế cũng tiếp tục được khẳng định. Vị
1



vua - Phật Trần Nhân Tông là một điển hình hội tụ của sự toàn thịnh đó và
tinh thần nhập thế của Phật giáo được thể hiện cô đọng trong “Cư trần lạc đạo
phú” của Người.
Ông vua đầu tiên của nhà Trần và cũng là một thiền sư cư sỹ, Trần
Cảnh (Trần Thái Tông) (1218-1277) đã để lại một sự nghiệp chính trị, một
dòng văn học bất hủ, đến bây giờ vẫn mãi là kim chỉ nam, ngọn đuốc soi
đường trong đêm dài tăm tối, cho những ai tìm phương vượt thoát, lộ trình
cho những ai muốn đưa dân tộc tìm tới đỉnh cao của nhân bản và an lạc.
Chính vì vậy, nghiên cứu “Tư tưởng triết học Phật giáo của Trần Thái
Tông” có ý nghĩa to lớn về mặt lịch và thực tiễn ngày ngay. Chính vì vậy em
đã chọn chủ đề này làm khóa luận tốt ghiệp của mình.

2


NỘI DUNG
Chương 1: ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI, TIỀN ĐỀ VĂN HÓA TƯ
TƯỞNG HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO CỦA
TRẦN THÁI TÔNG
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam (thế kỷ XI - XIII)
Tư tưởng triết học Trần Thái Tông phản ánh và bị chi phối bởi đặc
điểm, nhu cầu của điều kiện xã hội Việt Nam thời kỳ nhà Trần; bên cạnh đó là
sự kế thừa từ những tiền đề tư tưởng, tôn giáo trước đó. Đúng như C.Mác đã
nói: “Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời
đại mình, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý giá và vô hình
được tập trung lại trong những tư tưởng triết học” [5, tr.156]. Do đó, nghiên
cứu tư tưởng triết học Phật giáo Trần Thái Tông không thể không tìm hiểu
điều kiện lịch sử, kinh tế - xã hội và những tiền đề lý luận hình thành tư tưởng
triết học của ông.

Bối cảnh lịch sử:
Sau một thời kỳ hưng thịnh, từ khoảng giữa thế kỷ thứ XII trở đi, triều
đình nhà Lý bước vào giai đoạn suy tàn, đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế
- xã hội trần trọng. Bên cạnh đó thiên tai, dịch bệnh, mất mùa, đói kém,… ở
khắp nơi làm cho nền kinh tế của nhà Lý ngày càng sa sút. Bộ máy chính
quyền nhà Lý từ trung ương đến địa phương bắt đầu có hiện tượng lỏng lẻo,
tỏ ra quan liêu, trong việc quản lý xã hội. Nhiều địa phương, các thế lực địa
chủ, phong kiến tập hợp lực lượng nổi dậy chống phá triều đình, gây nên tình
trạng cát cứ phân quyền khắp mọi nơi. Nổi bật trong số các thế lực cát cứ thời
bấy giờ là tập đoàn quân sự của anh em họ Trần ở vùng Hải Ấp, Thái Bình.
Do có công giúp nhà Lý đẹp loạn lập lại trật tự, gia tộc họ Trần được triều
đình coi trọng, từ đó dần dần thao túng quyền bính và thâu tóm mọi quyền
lực trong tay. Tập đoàn quý tộc họ Trần đã khôn khéo, đi từng bước vững
chắc và cuối cùng chuyển chính quyền từ dòng họ Lý sang dòng họ Trần một
3


cách êm thấm trong hoàng cung và hầu như không có tác động gì làm xáo
trộn xã hội.
Năm 1225 Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái là Chiêu Thánh (7
tuổi) rồi lên làm Thái thượng hoàng và sau đó xuất ra đi tu ở chùa Chân Giáo
lấy hiệu là Huệ Quang đại sư. Theo sự dàn xếp của Trần Thủ Độ, Chiêu
Hoàng đã kết hôn với Trần Cảnh. Năm Ất Dậu (1225) nhận thiền vị của Chiêu
Hoàng lên ngôi hoàng đế đổi tên niên hiệu là Kiến Trung. Nhà Trần từ đây
chính thức bắt đầu. Dưới sự giúp đỡ, ủng hộ của Trần Thủ Độ và họ hàng nhà
Trần, trải qua các triều vua, nhà Trần đã tiến hành nhiều biện pháp cứng rắn
và có hiệu quả nhằm phát triển các mặt chính trị - xã hội, nhất là kinh tế, thúc
đẩy xã hội tiến lên một bước đáng kể, đánh đuổi quân Mông Nguyên xâm
lược.
Về tổ chức hành chính và bộ máy quan lại:

Năm 1240 nhà Trần lập nước ta thành 12 lộ, dưới lộ, phủ có châu,
huyện, xã. Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Năm Thiên Ứng (1242) Tống Thuần
Hưu năm thứ hai, mùa xuân tháng 2 chia nước ra làm 12 lộ. Trấn Phủ có 2
viên tránh phó để cai trị, các xã thì đặt chức đại tiểu thư xã, đã có người làm
kiêm cả 2,3,4 xã cùng xã chính, xã sử, xã dám gọi là xã quan [35, tr.19].
Nhà vua nắm mọi quyền lực tối cao và quyết định tất cả, tuy nhiên để
tránh tình trạng vua hiện còn nhỏ tuổi, nhà Trần đặt chế độ Thái Thượng
Hoàng. Các vua đã thường truyền ngôi sớm cho con, tuy nhiên vẫn trông coi
chính sự. Chế độ quan lại nhà Trần nói chung cũng giống như nhà Lý nhưng
có quy củ và đầy đủ hơn. Các chức quan trọng yếu trong triều đều giao cho
vương hồ quý tộc nắm giữ, nhằm tập trung mọi quyền lực vào dòng họ mình.
Ở địa phương, nhà Trần cũng phong cho một số Vương hầu đi chấn thị ở các
vùng quan trọng (ví như Trần Quốc Khang coi Diễn Châu, Trần Nhật Duật coi
Thanh Hóa, Trần Khánh Dư coi Vân Đồn…).
4


Để tạo điều kiện cho vương hồ, tôn thất làm việc, nhà nước cấp cho
mỗi người một vùng đất nhỏ tùy theo thứ bậc gọi là Thái ấp, nhà nước cũng
cho phép các quan lại tôn thất cao cấp được xây dựng dinh thự, phủ để ở riêng
khi có việc mới phải vào chầu và làm việc ở kinh sư. Năm 1266, do yêu cầu
mới về kinh tế và chính trị, vua Trần ra lệnh cho các vương hầu, công chúa
chiêu mộ dân lưu vong đi lang thang, khai hoang lập trang trại riêng tạo thành
một mạng lưới tôn thất nhà Trần trấn thị khắp nơi ở trong nước. Trong buổi
đầu chủ trương này có lợi cho việc củng cố chính quyền trung ương của nhà
Trần, nhưng về sau lại dẫn đến xu hướng cát cứ.
Tuy nhiên, nhà Trần không thể phá vỡ được quy luật phát triển của nhà
nước quân chủ tập quyền, ngay khi tập trung những quyền lực trong triều vào tay
các vương hầu quý tộc họ Trần, các vua Trần phải dùng một số quan chức không
phải họ Trần giữ chức vụ quan trọng trong triều như trạng nguyên Mạc Đĩnh

Chi, hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Lê Quát sau này…
Trong thời kỳ đầu của nhà Trần quan lại không được cấp ruộng đất, sau
kháng chiến chống giặc Nguyên mới phát triển chế độ này. Quan lại được
phép nuôi người hầu với mức nuôi nhiều nhất là 1.000 người. Vương hầu thì
được phép nuôi gia đồng, bên cạnh đó khi cần được tổ chức quân đội riêng.
Thời chiến, các vương hầu được lệnh thống nhất xuất quân lính ở thái ấp của
mình. Năm 1283, để chuẩn bị chống giặc ngoại xâm nhà vua giao cho Trần
Quốc Tuấn đốc xuất vương hầu, sắm sửa vũ khí, chiêu mộ binh lính, tham gia
kháng chiến.
Nói chung, bộ máy quan lại thời Trần được tổ chức quy mô hơn thời
Lý, bộ máy Nhà nước đã góp phần củng cố sức mạnh của nhà nước quân chủ
chuyên chế trung ương tập quyền.
Về tổ chức quân đội:

5


Cùng với việc hoàn thiện bộ máy nhà nước chuyê chế từ trung ương
đến địa phương, để ổn định xã hội, củng cố chính quyền phong kiến trung
ương tập quyền, nhà Trần đã ra sức xây dựng một tổ chức quân đội hùng
mạnh đủ sức bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Quân đội chủ lực của nhà Trần
được chia thành hai bộ phận như nhà Lý đó là Cấm quân và quân ở các lộ (ở
đồng bằng gọi là chính binh, ở miền núi gọi là thiên binh). Quân đội nhà Trần
là một đội quân thiện chiến, tổ chức và huấn luyện tốt, được trang bị, có nhiều
kinh nghiệm trận mạc bởi đã trải qua các cuộc kháng chiến chống giặc
Nguyên Mông. Ngoài ra, còn có lực lượng quân sự ở các phủ, châu, quân của
quý tộc tôn thất, lực lượng dân binh, thương binh trong làng, xã, động, bản…
Trong chiến tranh, nhà Trần có thể tập hợp lực lượng quân đội lớn
mạnh, đông đảo, chủ yếu còn do thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự theo
chính sách “Ngụ binh ư nông”. Quân số thời bình theo sử gia Phan Huy Chú

thì cả Cấm quân và quân ở các lỗ là khoảng 10 vạn người. Có thể xem đây là
chủ trương kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp và tổ chức vũ trang khá sáng
tạo và độc đáo của thời đại đó.
Do đặc điểm, yêu cầu của điều kiện lịch sử thời bấy giờ nên nhà Trần là
triều đại rất coi trọng binh pháp, kỹ thuật quân sự, đặc biệt luôn chú trọng
nâng cao chất lượng binh lính bằng các biện pháp tuyển quân tuyển tướng,
huấn luyện, binh pháp, rèn luyện tư tưởng và đặc biệt việc coi võ thuật đã trở
thành lối sống của trai tráng và trong các tầng lớp xã hội từ quý tộc, nô tì thời
kỳ nhà Trần. Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông đã thể hiện tổ chức quân
đội và chính sách xây dựng lực lượng vũ trang của nhà Trần trong thế kỷ XIII
là đúng đắn, sáng tạo. Đó là quân đội có số lượng đông, khi cần thiết có chất
lượng tinh thần vào loại mạnh nhất thế giới đương thời, hàng loạt các chiến
thắng Đông Bộ Đầu 1258, Hàm Tử, Tây Kết 1285 và đặc biệt là Bạch Đằng
1288 là hình ảnh tiêu biểu của quân đội Đại Việt thời Trần trong thời kỳ hưng
thịnh.
6


Về luật pháp:
Nhà Trần đã ban hành Quốc Triều thông chế 20 quyển, quy định về tổ
chức chính quyền. Sau đó qua vài lần sửa chữa và bổ sung, nhà Trần lại ban
hành Quốc Triều hình luật, cơ quan luật pháp thời Trần cũng được tăng cường
và hoàn thiện hơn, pháp luật và tổ chức tư pháp thời Trần có mấy đặc điểm
sau:
Trước kết, pháp luật thời nhà Trần khẳng định và củng cố sự phân chia
đẳng cấp đại quý tộc hoàng gia, vua được pháp luật bảo vệ, có các đặc quyền,
đặc lợi riêng với họ hàng nhà Trần, nếu phạm tội thì bị xử nhẹ hơn. Luật bắt
buộc các nô tì phải thích chữ vào trán mang hàng hiệu của chủ. Nếu không bị
coi là giặc cướp, nhẹ thì sung làm con lô, nặng thì đi tù. Nô tì không có quyền
kết hôn với quý tộc.

Pháp luật thời nhà Trần bảo vệ quyền tư hữu tài sản, đặc biệt là quan hệ
tiền tệ, đã công khai chuộc tội bằng tiền, quy định cụ thể việc mua bán chuyển
nhượng, việc gán vợ, gán con làm nô tỳ là công khai và hợp pháp.
Tiếp tục xu hướng pháp luật thời Lý, pháp luật thời Trần cũng đã chú
trọng đến việc bảo vệ sản xuất nông nghiệp, trong đó đã có những điều luật
bảo vệ trâu bò và các công trình thủy lợi, luật Nhà nước coi việc xây dựng và
sửa chữa đê, điều là công việc của toàn dân kể cả triều đình [36, tr.186].
Về sự phân chia đẳng cấp xã hội:
Đất nước ta bước vào thời kỳ nhà Trần xã hội đã được xây dựng tương
đối ổn định và vững chắc từ thời nhà Lý. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng
nhà nước, chính quyền quý tộc quân chủ vững mạnh, củng cố phát triển kinh
tế - văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, xã hội nước ta nhà Trần đã diễn ra sự
phân hóa mạnh mẽ và sâu sắc, trong xã hội hình thành những đẳng cấp, một
số đẳng cấp mới dần được hình thành. Nhìn chung trong gần hai thế kỷ xã hội
nhà Trần đã hình thành và tồn tại ba đẳng cấp: quý tộc tôn thất, quan lại trong
7


chính quyền quân chủ, những người bình dân chủ yếu là nông dân các làng
xã, thợ thủ công và thương nhân, địa chủ và nô tì.
Đẳng cấp thứ nhất chính là giai cấp quý tộc, vương hồ tôn thất nhà
Trần, các vua Trần giữ một vai trò đặc biệt, vua là người có quyền lực tối cao
trong mọi lĩnh vực của nhà nước và xã hội, là người chủ thể trong các nghi lễ
tôn giáo, có quyền sở hữu tối cao về danh nghĩa đối với toàn bộ ruộng đất tài
sản của đất nước. Những chính sách của nhà nước như mở rộng khoa cử,
tuyển chọn quan lại, người tài bổ sung cho bộ máy nhà nước, khuyến khích
khai hoang lập điền đã tạo cho nhiều người thuộc tầng lớp bình dân có điều
kiện tham gia vào quan trường, tham gia đội ngũ cầm quyền, có được ưu đãi
những đặc quyền, đặc lợi, những ưu đãi này được pháp luật Nhà nước bảo vệ
và thừa nhận. Chính tầng lớp này đã góp phần pha loãng tính chất quý tộc của

nhà nước Trần, tạo nên những biến động trong đẳng cấp cầm quyền vào cuối
thời Trần.
Đẳng cấp thứ hai bao gồm chủ yếu là nông dân làng xã ở nông thôn,
thợ thủ công, thương nhân, dân địa chủ không tham gia quan chức và địa chủ
bình. Đây là đẳng cấp đông đảo nhất trong xã hội, lực lượng chủ yếu tham gia
sản xuất và cũng là đẳng cấp quan trọng gánh vác nhiều nghĩa vụ nhất trong
xã hội. Trong pháp luật của nhà nước và trong các chiếu chỉ của nhà vua đẳng
cấp này được gọi chung một từ dân hoặc bách tính.
Tóm lại xét về cơ cấu đẳng cấp xã hội thời Trần, người nông dân làng
xã là một đẳng cấp bên dưới bị đẳng cấp quý tộc, quan lại thống trị và xét về
mặt quan hệ giai cấp họ là một giai cấp bị bóc bột bởi một nhà nước phong
kiến tập quyền với chế độ thuế khóa chặt chẽ.
Về ngoại giao:
Bên cạnh việc xây dựng đất nước, một vấn đề lớn đặt ra cho nhà Trần
là phải thường xuyên đối phó với mưu đồ xâm lược của đế quốc Nguyên
8


Mông ở phía Bắc. Tuy nhiên, từ sớm nhà Trần đã biết giữ quan hệ hòa hảo với
nhà Tống và theo lệ cũ sang triều cống cho đến khi nhà Tống mất. Từ năm
1285 nhà Trần bắt đầu cử xứ sang Mông Cổ và định lệ 3 năm một lần. Tuy
nhiên mưu đồ xâm lược của nhà nước Nguyên Mông ngày một tăng, mối
quan hệ giữa hai nước ngày càng diễn ra căng thẳng và tất yếu bùng nổ cuộc
chiến tranh xâm lược vào cuối thế kỷ thứ XII. Sau kháng chiến chống Nguyên
Mông thắng lợi, quan hệ Trần - Nguyên trở lại hòa hảo, nhà Trần tìm mọi
cách giữ vững địa vị độc lập, tự chủ của mình. Khi nhà Trần suy thì nhà
Nguyên cũng đang suy thoái, tiếp đó lại bị Nhân dân Trung Hoa lật đổ nên
không còn điều kiện dòm ngó nước ta nữa.
Về kinh tế:
Ruộng đất. Cũng như thời nhà Lý, các vua Trần quan tâm thúc đẩy sự

phát triển kinh tế, từng bước thiết lập chế độ sở hữu ruộng đất, các hình thức
sở hữu ruộng đất thời nhà Trần là: ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước thông qua
công xã nông thôn, ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân. Chính quyền nhà Trần đặt
sự thống trị trong phạm vi cả nước và uy quyền chuyên chế của hoàng đế là
trên hết đã tạo thành một quan niệm đất của vua, chùa của phật, một quan
niệm đã xác nhận ché độ đặc quyền, đặc lợi sự tồn tại tự nhiên chế độ sở hữu
ruộng đất nhà nước.
Có hai bộ phận cấu thành ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước, một là
ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý, nó tồn tại như tài sản của bản thân
của nhà vua và của hoàng cung, đây là loại tư hữu đặc biệt, những hoa lợi bóc
lột là của riêng hoàng đế. Một bộ phận đất do Nhà nước trực tiếp quản lý có
Sơn Đăng, Tịch điền của quốc phố hay là ruộng đất công của thôn, làng, bản,
ruộng công các làng xã lúc bây giờ được gọi là “Quan điền” [6, tr.25]. Thời
bây giờ, theo quan niệm dân gian đất của vua, tô thế ruộng đất vào thời kỳ
này chủ yếu là đánh vào ruộng, người dân định cày ruộng công làng xã phải
nộp bằng cấp theo diện tích và phải thêm một số tiền nhất định, như vậy số
9


tiền và số thóc mà nông dân làng xã đóng góp cho nhà nước đã mang một ý
nghĩa tổng hợp vừa là thuế vừa là địa tô. Về sở hữu ruộng đất tư nhân có Tháo
ốc, Điền trang của vua quan, quý tộc nhà Trần, ruộng của địa chủ và ruộng đất
sở hữu riêng của tiểu nông.
Thời Lý, các quan trong, quan ngoài đều không được cấp bổng, đến
thời nhà Trần mới định lệ cấp bổng cho các quan văn, quan võ trong, ngoài.
Đây là nét khác biệt rất cơ bản về tổ chức nhà nước của hai triều đại, có thể
thấy thêm chính sách ban hành cấp ruộng đất và bổng lộc của nhà Trần dưới
một hình thức tiêu biểu nhất là Thái ấp. Ban cấp Thái ấp là chính sách kinh tế
quan trọng nhằm tạo ra cơ sở xã hội cho chính quyền nhà Trần, nguồn đất ban
đầu của Thái ấp thuộc quyền sở hữu nhà nước nhưng khi ban cấp thành Thái

ấp thì Thái ấp thuộc quyền sở hữu tư nhân của các quý tộc. Thái ấp thời Trần
cũng là nơi ở bền vững của quý tộc và mãi mãi được lưu truyền như thời Trần
Hưng Đạo đã nói trong Hịch tướng sĩ rằng: “Thái ấp của ta mãi mãi bền vững
mà của các người cũng suốt đời tận hưởng” [1, tr.392].
Kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp. Nhà Trần vẫn tiếp tục cho
xây dựng nhiều quan xưởng thủ, công nghiệp nhà nước. Bao gồm có nhiều
ngành, nghề. Một trong những nghề sản xuất quan trọng là đồ gốm. Nhà nước
chú ý phát triển và đặt ngay trong cung đình, đặc biệt trong thủ công nghiệp
nhà nước còn có xưởng chế tạo vũ khí. Thủ công nghiệp nhân dân cũng là bộ
phận quan trọng và phổ biến của tiểu thủ công, kinh thành Thăng Long là nơi
trao đổi sản phẩm. Các nghề thiết yếu của thủ công nghiệp nhân dân thời Trần
là nghề gốm, nghề rèn luyện, đúc đồng, nghề làm giấy và khắc in, nghề mộc,
xây dựng và nghề khai khoáng.
Mạng lưới thương nghiệp và thành thị ngay từ đầu đã được nhà Trần
quan tâm, qua việc xây dựng một hệ thống đường giao thông trên thủy, bộ
trong cả nước, hệ thống giao thông biển và trên bộ thời nhà Trần nhằm đáp ứng
yêu cầu quân sự cũng như nhiều tác dụng cho thương nghiệp. Đường bộ,
10


đường thủy cho yêu cầu quân sự không còn do các địa phương và nhân dân tự
phát xây dựng mà là công tác của chính quyền địa phương, của triều đình trực
tiếp tổ chức xây dựng. Đây là bước tiến lớn so với thời Lý.
Thương nghiệp. Ở thời nhà Trần tuy có bước phát triển hơn thời kỳ
trước nhưng chủ yếu vẫn là nền kinh tế tự cấp, tự túc. Tổ chức các phường
sản xuất thủ công ở kinh thành Thăng Long còn rất đơn giản, thô sơ, gắn chặt
với sản xuất nông nghiệp. Ngoại thương cũng do nhà nước độc quyền trao
đổi, sản xuất hàng hóa chủ yếu vẫn là sản phẩm của kinh tế tự nhiên ít có sản
phẩm thủ công. Đến cuối thế kỷ thứ XIV, khi nông nghiệp sa sút, nhà nước
kiểm soát việc buôn bán, sản xuất thủ công thì nền kinh tế hàng hóa rơi vào

chỗ bế tắc.
Về văn hóa:
Bên cạnh các mặt kinh tế, xã hội, nhà Trần cũng có nhiều biện pháp
thúc đẩy sự lớn mạnh về chính trị. Bên cạnh đó các vương triều nhà Trần đã
có nhiều biện pháp để phát triển rực rỡ về văn hoá, đời sống xã hội. Đây là
thời kỳ thịnh đạt, phát triển của nền văn hóa Đại Việt ta. Nhà khoa học, sử học
Lê Quý Đôn đã nhận định “Nước Nam Ở hai triều Lý, Trần nổi tiếng là văn
minh” [7, tr.367].
Đây có thể coi là thời kỳ phục hưng của nền văn hóa Việt cổ trên nền
tảng của sự khôi phục nền độc lập dân tộc, giữ vững chủ quyền quốc gia qua
những cuộc kháng chiến của nước ta chống nhà Tống, nhà Nguyên thắng lợi.
Từ vị thế của một nước độc lập về chính trị, kinh tế dẫn đến ý thức độc lập về
nền văn hóa “Nam Bắc đều chủ nước mình, không phải noi nhau” (lời của vua
Trần Nghệ Tông). Tinh thần độc lập dân tộc, ý thức về cội nguồn của đất nước
đã thấm đậm trong đời sống xã hội và môi trường văn hóa thời Lý, Trần.
Cùng với sự phục hưng văn hóa Đại Việt thời nhà Trần, văn hóa đã trở
nên phong phú và có bước phát triển ở một tầm cao mới so với thời nhà Lý
qua một quá trình tiếp biến văn hóa và tích hợp của nền văn hóa. Trên cơ sở
11


nền văn hóa người Việt cổ, với tư cách là nhà nước phong kiến độc lập, các
triều đình nhà Trần đã chủ động tiếp thu và cải biến, tự nguyện những yếu tố
của văn hóa Đông Á, nền văn hóa Chămpa ở phương Nam, văn hóa Ấn Độ…
để tích hợp với nền văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, những ảnh hưởng của quá
trình sâm nhập văn hóa ngoại sinh còn ở mức độ hạn chế, được nhân dân gạn
lọc, tôi luyện hợp thành những yếu tố nội sinh của văn hóa dân tộc.
Văn hóa nước ta thời Trần đã có sự pha trộn và hỗn dung giữa những
yếu tố văn hóa Nam Á và văn hóa Đông Á trong một vị thế cân bằng của nền
văn hóa. Sự cân bằng đó của nền văn hóa thể hiện trong đối trọng lưỡng

nguyên, đan xen giữa Phật - Đạo - Nho, giữa văn hóa dân gian làng xã - văn
hóa quan liêu ở cung đình. Xu hướng phát triển chung là từ những yếu tố vượt
trội của văn hóa dân gian, Phật giáo dần sang sắc thái văn hóa quan liêu Nho
giáo trong giai đoạn cuối.
Về tôn giáo - tín ngưỡng:
Về tôn giáo - tín ngưỡng nhà Trần đã chủ trương thực hiện chính sách
khoan dung và hòa hợp, chung sống hòa bình giữa các tôn giáo tín ngưỡng
như tín ngưỡng dân gian, Phật - Đạo - Nho. Đó chính là hiện tượng đặc biệt
tam giáo đồng nguyên cùng tồn tại. Nói như Phan Huy Chú, “thời Lý - Trần, dù
là chính đạo hay dị đoan đều được tôn chuộng, không phân biệt” [4, tr.298].
Nhìn chung, các tín ngưỡng dân gian cổ truyền, Đạo giáo, đặc biệt là Phật giáo
đã được người dân tôn sùng.
Ben cạnh đó, các tín ngưỡng dân gian cổ truyền của dân tộc như thờ
thần linh, tục thờ Mẫu, vật linh, tục sùng bái anh hùng,… pha trộn với Đạo
giáo đã được phát triển và khuyến khích. Trong hai tác phẩm “Việt điện u
linh” và “Lĩnh Nam chích quái”, rất nhiều các vị thiên thần, nhân thần, các
anh hùng đã giúp công giúp nước, danh nhân đã được truyền thuyết hóa và
được nhân dân tôn vinh.
Các đạo sĩ của Đạo giáo giữ một vai trò quan trọng đặc biệt trong đời
sống tâm linh của nhân dân, họ được triều đình mời đi trấn yểm, trừ tà ở các
12


núi, sông trong nước, ở các cung, đình, được nhà vua cho vào làm lễ tống trừ
ma quỷ đêm 30 tháng Chạp, làm phép để chống hạn, trừ tà, diệt sâu lúa, giảng
giải cho vua về các phép tu luyện. Một số đạo sĩ nổi tiếng, có tiếng vang lớn
là là Hứa Tông Đạo Huyền Vân, Thông Huyền. Một số đạo sĩ nhưng kiêm
thiền tăng nổi tiếng như Trần Tuệ Long, Nguyễn Bình An, Trịnh Trí Không.
Một số Đạo quán đã được nhà nước cho xây dựng như: Thái Thanh cung, Ngã
Nhạc quán, Cảnh Linh cung. Cùng với Phật học và Nho học, Đạo học đã được

đưa vào nội dung các kỳ thi tuyển nhân tài cho đất nước, thi Tam giáo.
Đạo Phật là tôn giáo phát triển nhất trong xã hội thời nhà Lý - Trần,
được coi như một Quốc giáo. Hầu hết các vua nhà Lý như Lý Thái Tổ, Lý
Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông, Lý Anh Tông và
nhiều vua Trần như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông đều
sùng Phật, dịch kinh Phật, soạn sách Phật, dựng chùa tháp, tô tượng, đúc
chuông... Như năm 1031, nhà Lý xuống chiếu phát tiền, thuê thợ làm chùa
quán ở các hương ấp, tất cả 150 chỗ. Nhiều quý tộc, tôn thất cũng đã quy Phật
như Tuệ Trung thượng sĩ Trần Tung; Hoàng hậu Ỷ Lan. Khắp mọi nơi, nhiều
chùa chiền đã được xây dựng, tu bổ như các chùa Long Đội, Diên Hựu (Một
Cột), Bối Khê, Phật Tích, Báo Thiên, Thái Lạc, Phổ Minh… cụm quần thể
chùa tháp ở Yên Tử. Phần lớn những công trình này đã được nhà nước cho
xây dựng. Đông đảo quần chúng bình dân trong các làng, xã, các vùng nô nức
theo đạo Phật. Lê Quát sống vào cuối đời nhà Trần, nhận xét như sau: “Từ
trong kinh thành cho đến ngoài châu phủ, kể cả những nơi thôn cùng ngõ
hẻm, không bảo mà người ta cứ theo, không hẹn mà người ta cứ tin, hễ nơi
nào có nhà ở là ắt có chùa chiền… Dân chúng quá nửa nước là sư…” [2,
tr.298].
Nho giáo được du nhập vào Việt Nam ngay từ đầu thời kỳ Bắc
thuộc,dưới một phương thức là giao lưu văn hóa và cưỡng chế. Vì vậy, trong
hơn 10 thế kỷ phương Bắc đô hộ, nó vẫn chỉ là một lớp váng rất mỏng đọng
lại trong tầng lớp ưu tú, ảnh hưởng đến xã hội rất nhỏ bé. Đến thời nhà Lý,
13


Trần, Nho giáo đã trở thành một nhu cầu tư tưởng, văn hóa thiết yếu cho việc
xây dụng một thiết chế quân chủ trung ương tập quyền theo mô hình Trung
Hoa. Một trong những nguyên lý cơ bản của phép trị nước, trong đó là một
biện pháp chiến lược chế độ khoa cử. Do vậy, các nhà vua mặc dù sùng Phật
thời nhà Lý, Trần vẫn cần đến một sự bổ trợ đắc lực của Nho giáo. Trần Thái

Tông nói: “Bậc đại thánh và đại sư đời trước không khác gì nhau. Như thế đủ
biết đạo giáo của Đức Phật phải nhờ đến tiên thánh (chỉ Khổng Mạnh) mà
truyền lại cho đời…” [21, tr.467].
Tóm lại, trong thời kỳ nhà Trần, có nhiều hình thức tin ngưỡng, tôn
giáo khác nhau chi phối đời sống tâm linh người dân. Tuy nhiên, Phật giáo
vẫn là tôn giáo lớn, chi phối và ngày càng có vai trò to lớn trong đời sống
nhân dân và trở thành quốc giáo.
Về giáo dục, khoa cử:
Tiếp tục có sự kế thừa và phát triển khoa cử của thời nhà Lý, sang thời
kỳ nhà Trần vẫn được sự quan tâm của nhà vua, việc học, thi cử đã đi vào nền
nếp hơn, quy củ hơn. Năm 1253, nhà Trần cho lập Quốc học viện để mục đích
đào tạo nhân tài, tiếp đó ở Thăng Long và các địa phương khác trong cả nước,
trường học được xây dựng lên khá nhiều. Tuy nhiên, số lượng trường học do
nhà nước quản lý lại rất ít.
Tiếp tục những chính sách của thời Lý, nhà Trần mở khoa thi để chọn
quan lại, ngoài ra những người không đỗ đạt nhưng có tài vẫn sử dụng. Phan
Huy Trứ (sử gia thế kỷ thứ XIX) có nhận xét “triều Trần dùng người thật là
công bằng, tuy đã đạt khoa mục mà trong việc kén dùng chỉ cốt tài là được,
cho nên những nho sĩ có chỉ hướng thường được trổ tài của mình không đến
nỗi bó buộc hạn chế về tư cách chỉ cần người dùng được chứ không câu nệ ở
đường xuất thân, nhân tài văn học nhờ thế mà phát triển” [35, tr.22].

14


Trong thời gian tồn tại, trước và sau nhà Trần đã tổ chức được 14 khoa
thi, gồm các kỳ thi tuyển Thái học sinh, chế khóa, thi lại viên để tuyển lựa
trong đám nho sĩ người tài bổ vào trong các quan, các sản điện và một số khác
thi tam giáo với 273 người đỗ Thái học sinh. Hàng loạt các nho sĩ đỗ đạt từ
các khoa thi trên đã được tuyển dụng, bổ sung vào các chức vụ khác nhau

trong bộ máy chính quyền nhà nước từ trung ương đến địa phương. Ở thời
nhà Trần cũng có nhiều trường hợp khác nhau không qua thi cử mà vẫn được
tuyển dụng vào làm quan. Sử cũ chép, vào năm 1267 chọn những học sinh
hay chữ bổ vào quan các sảnh, viện. Qua đó chúng ta thấy được chính sách
dùng người tuyển dụng quan lại của nhà Trần rất năng động.
Về sử học:
Đến thời Trần, việc biên soạn những bộ sử của đất nước đã được đẩy
mạnh, nhiều bộ sử đã xuất hiện vào thời Trần như Việt sử lược, Việt sử cương
mục… đáng chú ý nhất trong đó là bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu. Đặc
biệt lúc mấy giờ ở nước ta còn xuất hiện những bộ sử chuyên ngành như dã sử
và truyền thuyết của dân tộc như tác phẩm Thiền Uyển Tập Anh, Việt Điện U
Linh và Lĩnh Nam Chích Quái.
Tóm lai, những tiền đề về kinh tế - xã hội cuối thời nhà Lý và thời nhà
Trần đã tạo ra những tiền đề vật chất để hình thành nên tư tưởng triết học Phật
giáo Trần Nhân Tông. Trong đó có vai trò to lớn của người đứng đầu đát nước
đã tác động lớn đến các tầng lớp người dân và các nhà tu hành.
1.2. Những tiền đề tư tưởng, lý luận trực tiếp ảnh hưởng đến tư
tưởng triết học Phật giáo Trần Thái Tông
1.2.1. Tư tưởng của các thiền sư thế kỷ XI - XIII
Tư tưởng triết học Phật giáo Trần Thái Tông không chỉ được hình
thành, phát triển trên cơ sở đặc điểm nhu cầu bức thiết của điều kiện lịch sử,
chính trị, kinh tế, xã hội… thời kỳ nhà Trần mà còn là sự kế thừa những tư
tưởng triết học trước đó. Đó là tính độc lập tương đối của một hình thái ý thức
15


xã hội nói chung, của hình thái ý thức triết học nói riêng trong quá trình phát
triển. Xét về mặt triết lý tôn giáo, về văn hóa, tư tưởng triết học Phật giáo
Trần Thái Tông là kết quả của sự kế thừa và dung hợp của các tiền đề tư
tưởng như: tư tưởng của tam giáo Nho, Đạo, Phật và đặc biệt là ba Thiền phái

nổi tiếng dưới triều đại nhà Lý (Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn thông, Thảo
đường).
Tư tưởng Nho giáo:
Nho giáo bắt đầu du nhập vào Việt Nam từ đầu thời Bắc thuộc (197
TCN – 938) dưới một phương thức là giao lưu và văn hóa cưỡng chế, vì vậy,
trong hơn 10 thế kỷ, nó vẫn chỉ là một lớp váng mỏng đọng lại trong tầng lớp
ưu tú, ảnh hưởng xã hội rất nhỏ bé. Đến thời Lý - Trần, nó đã trở thành một
nhu cầu tư tưởng thiết yếu cho việc xây dụng một thiết chế quân chủ tập
quyền theo mô hình Đông Á Trung Hoa, cũng như những nguyên lý cơ bản
của phép trị nước, trong đó một biện pháp chiến lược là chế độ khoa cử. Do
vậy, các nhà vua sùng Phật thời Lý - Trần vẫn cần đến một sự bổ trợ của Nho
giáo. Trần Thái Tông nói: “Bậc đại thánh và đại sư đời trước không khác gì
nhau. Như thế đủ biết đạo giáo của Đức Phật phải nhờ đến tiên thánh (chỉ
Khổng Mạnh) mà truyền lại cho đời…” [21, tr.245].
Thời Lý, Nho giáo tuy được nhà nước chấp nhận, nhưng nó vẫn giữ
một vị trí khá khiêm tốn. Đến thời cuối Trần, quá trình Nho giáo hóa mọi mặt
đời sống chính trị - xã hội đã diễn ra một cách quanh co, phức tạp. Một mặt,
một số nho sĩ đã cổ vũ, tuyên truyền cho đạo Nho và mô hình nhà nước Nho
giáo, chê bai, bài xích Phật giáo. Trương Hán Siêu tuyên bố: “Đã là kẻ sĩ đại
phu, nếu không phải đạo Nghiêu Thuấn, không bày tỏ, không phải đạo Khổng
Mạnh, không trước thuật…”. Nhóm nho sĩ như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh đã
đề nghị triều đình tiến hành cải cách thể chế, nhà nước theo hướng Nho giáo
hóa, mô phỏng giống thiết chế Trung Hoa. Mặt khác, quá trình Nho giáo hóa
cũng đã gặp sự phản ứng mạnh mẽ từ nhiều phía, trước hết là từ chính bản
thân một số vua Trần. Vua Trần Minh Tông cho rằng “nhà nước đã có phép tắt
16


nhất định, Nam Bắc khác nhau”. Nghệ Tông kiên quyết phản bác: “Triều
trước (nhà Lý) dựng nước, có luật pháp, chế độ riêng, không theo quy chế của

nhà Tống, là vì Nam Bắc, nước nào làm chủ nước đó, không phải bắt chước
nhau. Khoảng năm Đại Trị (đời Trần Dụ Tông) bọn học trò mặt trắng được
dùng, không hiểu ý nghĩa sâu xa của việc lập pháp, đem phép cũ của tổ tông
thay đổi theo tục phương Bắc như về y phục, âm nhạc… thật không kể xiết”.
Và nhà vua này chủ trương bảo lưu thể chế cũ.
Ở các thôn, làng, xã… quá trình Nho giáo hóa lại càng mờ nhạt hơn.
Dân chúng chủ yếu vẫn sống theo những phong tục cổ truyền, chưa bị rằng
buộc bởi những lễ giáo Nho giáo. Một sứ giả Trung Quốc là Trần Cương
Trung, sau khi sang Việt Nam đời Trần nhận định: “Dân chúng vẫn giữ những
phong tục rất nông nổi. Không biết đến lễ nhạc Trung Hoa” [23, tr.312]. Nho
thần Lê Quát phàn nàn: “Ta thuở trẻ đọc sách, ít nhiều hiểu đạo thánh hiền để
giáo hoá dân chúng, mà rút cuộc vẫn chưa được một hương nào tin theo. Ta
thường dạo xem sông núi, vết chân trên khắp nửa thiên hạ, đi tìm những học
cung, văn miếu mà chưa hề thấy một ngôi nào. Đó là điều khiên ta vô cùng hổ
thẹn” [27, tr.184].
Tư tưởng Phật giáo:
Đất nước Việt Nam tự hào với bề dày lịch sử hơn 4000 năm văn hiến và
khi nói đến văn hóa Việt Nam thì không thể không nhắc đến văn hóa thời Lý,
Trần, hai triều đại huy hoàng trong lịch sử Việt Nam, đã giành được độc lập tự
do sau hơn 1000 năm đô hộ của các thế lực phương Bắc. Điều đáng chú ý là
tư tưởng chủ đạo cho nền văn hóa ấy, văn minh thời ấy chính là Phật giáo, và
nổi bật trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước là những đóng
góp, công lao to lớn của Phật giáo đời nhà Trần.
Trong những buổi đầu lập quốc, thời kỳ mà các vua Lý rất cần đến các
thiền sư, không những họ cần đến các vị này không chỉ để liên kết nhân tâm,
mà còn ở học thức, công tác ngoại giao, công tác giáo dục và kế hoạch trị
nước an dân của những nhà sư nữa. Đến đời nhà Trần, tình hình này khác hẳn,
17



các vua Trần không những học rộng, hiểu nhiều mà còn đặc biệt giỏi về đạo
Phật, nên mối liên hệ giữa vua và các nhà thiền sư không phải là để nhờ cậy
về phương diện kế hoạch, học thức và công tác nữa. Các vị vua như: Trần
Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Trần Anh Tông đều có kiến
thức căn bản vững chắc về phật học. Mỗi nhà vua đời Trần đã thực sự bước
vào con đường thể nghiệm, phật pháp, dấn thân nhập thế. Trong bối cảnh lịch
sử của Việt Nam lúc ấy là một quốc gia hoàn toàn độc lập, tự chủ sau ngàn
năm đô hộ. Dân tộc ta cần thiết phải có những yếu tố chính trị tinh thần làm
nền tảng nhất định để xác dịnh nền tự chủ, tự cường của một đất nước. Vì thế,
dân tộc Việt Nam sẵn sàng chống lại bất cứ một tư tưởng nào, một sức mạnh
nào muốn phá hoại nền hòa bình hạnh phúc của mình. Phật giáo đời nhà Trần
đã thật sự tương ứng với nguyện vọng thiết tha ấy của nhân dân, góp phần vĩ
đại vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước Đại Việt.
Tư tưởng Đạo giáo:
Không ảnh hưởng lớn như Phật Giáo, Nho giáo nhưng Đạo giáo cũng
giữ một vai trò nhất định và là một trong những tiền đề lý luận của tư tưởng
triết học Trần Thái Tông. Theo các tài liệu nghiên cứu, người ta hiểu rằng Đạo
giáo du nhập vào Việt Nam thời kỳ Bắc thuộc, có lẽ cùng với Nho giáo về mặt
học thuật, cơ sở lý luận của Đạo giáo bắt nguồn từ học thuyết triết học Lão
Trang. Tuy nhiên, sau thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc, Đạo giáo đã có nhiều
sự thay đổi, bắt đầu rời bỏ siêu hình học trong tư duy lý luận, về phạm trù đạo
có tính chất trừu tượng tự nhiên vô vi và đi vào con đường tu tiên, lạc đạo, tìm
kiếm sự trường sinh bất tử, kết hợp với các hiện tượng mê tín dị đoan để trở
thành phái Hoàng Lão với tư cách là một trong những trường phái tư tưởng ở
Việt Nam.
Trong Đạo giáo lại chia thành hai khuynh hướngchính là đạo phù thủy
và đạo thần tiên. Đạo thần tiên ảnh hưởng chủ yếu đến vua quan, quý tộc ở tư
tưởng khoáng đạt, tiêu dao, sống ung dung tự tại, còn đạo phụ thủy lại hòa
18



nhập cùng với tín ngưỡng ma thuật cổ truyền của nhân dân, nhưng Đạo giáo
Việt Nam không giống với Đạo giáo ở Trung Quốc. Bởi vì, Đạo giáo Việt
Nam có tiền đề tư tưởng nguồn gốc lý luận không chỉ từ ở Trung Quốc mà đã
được Việt hóa trên cơ sở tín ngưỡng ma thuật và tư tưởng tiến trần của bản địa
điều đó được biểu hiện qua việc Đạo giáo Việt Nam ngoài việc vay mượn tiếp
nhận nhiều vị thần vốn có trong Đạo giáo đi kèm là các hình thức nghi lễ thờ
cúng riêng.
Trong tư tưởng triết học của mình, vua Trần Thái Tông cũng ảnh hưởng
quan điểm Đạo giáo, nhưng chịu ảnh hưởng chủ yếu trên cơ sở của triết lý
đạo chứ không phải chịu ảnh hưởng trên lĩnh vực tín ngưỡng tôn giáo ma
thuật trong triết lý nhân sinh quan của mình. Trần Thái Tông đề cao quan
điểm Tiêu Dao hòa hợp với tự nhiên vô vi, sống chung ung dung với thực tại
non xanh, nước biếc hoặc nơi thôn dã thanh bình ăn rau trái, vận giấy bận rồi
lãnh thị phi, danh sắc công danh chẳng trọng, phú quý chẳng màng, kiếm
chốn dưỡng thân, non cao lãnh mình sơn dã.
1.2.1.1. Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi
Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi do Tỳ Ni Đa Lưu Chi - người nam Thiên
Trúc, dòng dõi Bà La Môn sáng lập vào năm 580 tại chùa Pháp Vân, nay là
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Nó bắt đầu manh nha rồi kéo dài cho đến
cuối thời Lý và thời Trần tồn tại trong vòng sáu thế kỷ, gồm 16 thế hệ và 28 vị
thiền sư. Thiền phái chịu ảnh hưởng triết lý chung quán của Long Thọ Bồ Tát
ở Ấn Độ và đặc biệt là triết lý của Thiền Tông, trong đó nổi bật liên quan đến
vấn đề tâm ấn. Tâm ấn tức là muốn nói đến cái tâm đã hoàn toàn vắng lặng,
đã được ấn chứng tự tính của nó. Cái tâm này còn được gọi là chân tâm, là cái
đối lập với cái vọng, bản chất của cái tâm này là tròn đồng, thái hư, không
thiếu, không hư, không sinh, không diệt, không đi, không đến, không được,
không mất, chẳng một, chẳng khác… là cái vốn có tiềm ẩn trong tâm mỗi
người. Cái chân tâm ấy là có thật nhưng nó là cái không thể dùng ngôn ngữ
19



bình thường mà chỉ ra được, khi có thể hiểu cái tâm ấy khi đã đạt đến trạng
thái giác ngộ.
Một tư tưởng cơ bản khác của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi là quan
điểm truyền tâm ấn, đó là lấy việc truyền tâm mà không thông qua bất kỳ một
người hay một vật trung gian nào cả, thầy và trò đạt đến trạng thái bằng sự
trực tuyến nhau qua tâm. Quan điểm trọng tâm là quan điểm xuyên suốt của
thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi.
Nhìn chung, Tỳ Ni Đa Lưu Chi chịu ảnh hưởng chủ yếu của Phật Giáo
Ấn Độ và Phật giáo của Tây Tạng với phương pháp chủ yếu là tọa thiền, có sử
dụng các thần chú mật ngữ thổ huyết ấn. Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi là
dòng tư tưởng tiến bộ, các thiền sư đã tham gia tích cực và đóng góp hiệu quả
trong đời sống xã hội, dòng thiền mang đậm màu sắc Ấn độ, biểu lộ được sinh
hoạt tâm linh siêu việt của Phật giáo, đồng thời biểu lộ được đời sống thực tế
là đơn giản của quần chúng nghèo của Việt Nam.
1.2.1.2. Thiền phái Vô Ngôn Thông
Thiền phái Vô Ngôn Thông do thiền sư Vương Thông, người Trung
Hoa sáng lập vào năm hạn 820 tại chùa Kiến Sư, Phù Đổng, Hà Bắc. Đây là
dòng thiền thứ hai của Phật giáo ở Việt Nam. Theo Thiền Uyển tập Anh, thiền
phái Vô Ngôn Thông còn gọi là bất cứ thông, do chích người Quảng Châu
năm 820 sang Việt Nam sáng lập nên. Bắt đầu từ Vô Ngôn Thông, Phật giáo
Việt Nam mang đậm màu sắc của Thiền Tông Trung Quốc, đặc biệt là dòng
Nam Phương của Huệ Năng. Tư tưởng cơ bản của thiền phái Vô Ngôn Thông
là tư tưởng về tâm điện và đốn ngộ. Tâm địa ở đây chính là tâm bản nguyên,
là tự tính, thật tính, thanh tịnh, tuyệt đối thường hằng vốn có ở mỗi con người,
nó chứa đựng hết hạn tất cả sự vật, hiện tượng. Thế giới này đều do tạo tác
của tâm sai biệt mà ra, chính cái tâm sai biệt đó đã khởi lên vạn vật trong thế
giới, làm biến dạng bản thân. Cho nên, muốn quay trở về cái tâm ban đầu bản
nhiên thanh tịnh, cần phải cởi bỏ buông xả tất cả những gì làm biến dạng tâm

điện, không cần tới bất kỳ một sự ấn chứng nào đó.
20


Nếu như thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi có ảnh hưởng nhiều của yếu tố
mật giáo thì ngược lại, thiền phái Vô Ngôn Thông lại chịu ảnh hưởng yếu tố
của tích độ giáo, giáo phái này dùng phương pháp quan niệm để phát triển.
Nghĩa là, giáo phái chủ trương sử dụng cách niệm phật để đạt tới nhất tâm,
tâm bất loạn đạt đến cõi niết bàn, đây cũng là một phương pháp tu tập thiền
định sau này được vua Trần Thái Tông phát triển. Các Thiền sư của thiền phái
Vô Ngôn Thông có lối sống giản dị, trong sạch, một số thiền sư còn phò vua,
giúp nước dự bàn chính sự của triều đình. Dòng thiền này tồn tại trong vòng
479 năm trải qua 15 thế hệ vào 38 thiền sư.
1.2.1.3. Thảo Đường
Thiền phải Thảo Đường ra đời ở nức ta có nguồn gốc từ thực tiễn yêu
cầu của điều kiện lịch sử, chính trị - xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Nhìn lại lịch
sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, chúng ta thấy rằng các triều đại nhà
Ngô 939 - 965, nhà Đinh 966 - 980, nhà Tiền Lê 980 - 1009 tồn tại không lâu
dài. Chỉ đến khi nhà Lý lên ngôi mới cai quản đất nước tương đối lâu dài
1010 - 1225 với sự độc lập và thống nhất về lãnh thổ, về kinh tế, chính trị, văn
hóa. Chính điều đó đã đặt ra một đòi hỏi bức thiết cần có một hệ tư tưởng độc
lập làm cơ sở cho sự thống nhất về chính trị của nhà nước Đại Việt lúc mấy
giờ. Trong khi hai thiền phái trước đó là tiền phải Tỳ Ni Đa Lưu Chi mang
màu sắc của Phật Giáo Ấn Độ và thiền phái Vô Ngôn Thông mang màu sắc
của phật giáo Trung Quốc đều không đáp ứng được yêu cầu trên. Chính vì
vậy, Lý Thánh Tông đã lập nên một thiền phái thứ 3 ở nước ta mang tên Thảo
Đường. Cái tên Thảo Đường ta thấy xuất hiện trong Thiền Uyển Tập Anh, An
Nam Chí Lược. Thảo Đường là tên một vị thiền sư thuộc phái Vân Môn, một
trong năm thiền phải Nam Trung Quốc do Văn Yển thiền sư ở núi Vân Môn
sáng lập. Vân Môn là học trò của Tuyết Phong, ngược từ Tuyết Phong lên có

Đức Sơn, Long Đàm, Đơn Hà, Thạch Đầu Thanh Nguyên, Huệ Năng. Vân
Môn nổi tiếng về những trả lời miệng mà không phí lời, trong trường hợp
khẩn thiết phải nói một điều gì thì ông chỉ nói một tiếng không hơn không
21


kém nhằm khơi tỏ tâm của môn đồ. Thiền phái Thảo Đường có khuynh hướng
tích tụ tổng hợp các yếu tố thiền tịnh, Nho, Lão, Đạo. Sự ra đời của thiền phái
Thảo Đường đã phản ánh khuynh hướng tam giáo hòa đồng trên cơ sở lấy
Phật giáo làm trung tâm cho sự dung hợp. Thiền phái Thảo Đường ngoài ra
còn theo khuynh hướng thiên trọng tri thức, triết lý thơ ca, do đó nó không
cắm dễ được trong quần chúng nhân dân lao động mà chỉ ảnh hưởng tới một
số trí thức và vua quan. Dòng thiền này được truyền năm đời và 18 thiền sư
(có 3 vị hoàng đế, 3 vị quan, một vị cư sĩ). Như vậy, để đáp ứng yêu cầu cần
có một hệ tư tưởng độc lập, một tôn giáo làm nền tảng cho tư tưởng thống
nhất về chính trị và sinh hoạt tinh thần tâm linh của người Việt thoát khỏi sự
ảnh hưởng của tư tưởng Nho Giáo phương Bắc, từ bây giờ nhà Lý đã lập nên
một thiền phái mới, thiền phái Thảo đường.
Tóm lại, thiền phải Vô Ngôn Thông, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi,
thiền phái Thảo Đường mặc dù có nhiều điểm khác nhau về triết lý, về phong
cách cách, về cách thức và về phương pháp tụ tập, cũng như vai trò của từng
thiền phái trong mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước nhưng giữa ba thiền phái
trên cũng có một số đặc điểm chung nhất định, đều dựa trên những triết lý cơ
bản Thiền Tông để bàn luận, phát triển, làm sáng rõ và phong phú hơn những
vấn đề cốt lõi của thiền như tâm, phật, kiến tính, đốn ngộ. Cả ba thiền phái
này đều có xu hướng hòa hợp mình vào cuộc sống để giúp nước, giúp đời.
Triết lý của cả ba thiền phái là những tiền đề lý luận quan trọng cho sự hình
thành một trường phái duy nhất thời Trần sau này nói chung và là tiền đề lý
luận cho tư tưởng triết học Phật giáo của Trần Thái Tông nói riêng.
1.2.2. Tư tưởng nhân văn và tư tưởng yêu nước Việt

Nam thế kỷ XI - XIII
Yêu nước và nhân văn là hai nội dung chủ yếu trong thời kỳ nhà Trần.
Quân Nguyên đã ba lần sang xâm lược (1258, 1285, 1287) và đã ba lần bị
đánh lui. Sức mạnh nào đã giúp người xưa làm nên những kỳ tích đó ? Chính
là nhờ ở sự đồng tâm hiệp lực, trên dưới một lòng, vì giang sơn xã tắc. Lê Quí
22


Đôn trong “Kiến văn tiểu lục” có viết: “Bởi vì nhà trần đãi ngộ sĩ phu rộng rãi
mà không bó buộc, hòa nhã mà có lễ độ, cho nên nhân vật trong một thời có
chí khí tự lập, hào hiệp, cao siêu, vững vàng, vượt ra ngoài thói thường, làm
rạng rỡ sử sách” [35, tr.371]. Như vậy, ta thấy vai trò của các vị vua Trần người nắm vận mệnh của Tổ quốc đã cố sự mẫn cảm phi thường, thấu hiểu
các yêu cầu của lịch sử, có quan điểm chính trị cởi mở, quán xuyến được triều
đại, có những chủ trương, chính sách rất uyển chuyển, lấy sự thuyết phục và
tự nhiên làm phương châm hàng đầu. Điều đó đã góp phần làm nên sự vững
chãi của triều đại. Các vua Trần đã khéo léo vận dụng tinh hoa của các tư
tưởng Nho, Phật, Lão “Làm cho chúng thâm nhập nhau đến một chừng mực
nào đấy mà có chứ không bị một lợi ích thực tiễn của một thế lực xã hội nào
chi phối, làm cho nó méo mó” [2, tr.179]. Mối quan hệ cộng hưởng ấy mặc dù
diễn ra một cách hồn nhiên, song động lực thốc đẩy để nó hài hòa theo hướng
tích cực là nhờ đức và tài của các vị vua Trần, làm cho chúng cố kết lại với
nhau, đồng thời củng cố kết được lòng dân, giải tỏa được mọi ức chế, ổn định
tâm lý xã hội, đưa các hệ thống giáo lý vốn rất xa cách kia xích lại gần nhau.
Và con người cũng xích lại gần nhau hơn. Các quan niệm từ bi, bác ái, đại
hùng, đại lực, vô úy, phá chấp, tự do, bình đẳng.... đã giúp cho triều đại nhà
Trần có một quan niệm sống đúng đắn, làm nên chất kết dính, gắn bó cả cộng
đồng, cùng hiệp lực đấu tranh, xây dựng và phục hưng dân tộc.
Theo dòng lịch sử, lòng yêu nước của nhân dân ta được định hướng,
phát triển, quy tụ dưới những tư tưởng tiến bộ, gắn với sự dẫn dắt, định
hướng, chèo lái của những người anh hùng, người có công với đất nước và

người lãnh đạo đất nước. Đó là những nhà tư tưởng lớn, đồng thời là nhà
chính trị, quân sự, văn hóa kiệt xuất của dân tộc. Từ đó, lòng yêu nước nồng
nàn đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước đó
có sức sống mãnh liệt, luôn tỏa sáng trong lịch sử. Là động lực tinh thần chủ
yếu đã tạo nên tâm hồn, trí tuệ và bản lĩnh của các thế hệ người Việt Nam
trong cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước.
23


Trên thế giới, trong các thời kỳ lịch sử khác nhau hiếm có một dân tộc
nào như nước ta phải liên tục trải qua những cuộc chiến tranh, những cuộc
chiến tranh điển hình về tính chất ác liệt và sự gian khổ hy sinh mất mất to
lớn; phải đương đầu với các thế lực giặc xâm lược hung bạo, hiếu chiến, có
tiềm lực kinh tế - quân sự mạnh hơn nước ta gấp nhiều lần. Song, vượt lên tất
cả, với lòng yêu nước nồng nàn, dân tộc ta đã kiên cường đấu tranh giữ nước,
dựng nước, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc Việt, không để bị đồng hóa vào
các dân tộc hay văn hóa khác. Đây là một hiện tượng kỳ diệu trong lịch sử
nhân loại. Chủ nghĩa yêu nước đã rực cháy trong tâm hồn người Việt, tài thao
lược “đánh bằng mưu kế, thắng bằng thế, thời” và nghệ thuật quân sự “lấy
nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều” của dân tộc đã được phát huy cao độ, đầy sức
sáng tạo, quân xâm lược không thể lường hết. Với sức mạnh “lấy đại nghĩa
thắng hung tàn, đem chí nhân thay cường bạo”, kết hợp chặt chẽ đấu tranh
quân sự với chính trị và ngoại giao, hội tụ được các yếu tố “thiên thời, địa lợi,
nhân hòa”, trong đó quan trọng nhất là “nhân hòa”.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam luôn mang đậm tư tưởng dân chủ, mang
tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc, yêu nước là gắn liền với yêu dân và luôn có
ý thức cộng đồng, phản ánh những tư tưởng chủ đạo “Nước lấy dân làm gốc”
trong văn hóa chính trị Việt Nam. Năm 1010, với ý chí quyết tâm xây dựng
một quốc gia hùng cường, độc lập và bằng tầm nhìn chiến lược, Lý Thái Tổ
đã quyết định dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La và đổi tên là Thăng Long “để

mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa làm kế cho con cháu muôn đời, trên kính
mệnh trời, dưới theo ý dân”. Trong thế kỷ XIII, với tư tưởng tiến bộ của Trần
Hưng Đạo “khoan thư sức dân, làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách để
giữ nước”, nhà Trần đã thực hiện “cử quốc nghênh địch”, phát huy cao độ
lòng yêu nước của toàn nhân dân để 3 lần đánh thắng quân xâm lược hung
hãm, tàn ác Nguyên Mông.
Xã hội Việt Nam vốn là một xã hội nông nghiệp, người Việt Nam với
lối sống định canh, định cư nên tâm tư tình cảm chặt với mảnh đất, với mồ mả
24


cha công, với phong tục tập quán nơi mình sinh sống. Đó là yếu tố để hình
thành tình yêu đất nước một cách tự nhiên. Tình yêu Tổ quốc là dòng chảy
mãnh liệt trong văn học Việt Nam. Ngay trong văn học dân gian, truyền
thuyết về Thánh Gióng - Cậu bé ba tuổi cất tiếng nói đầu tiên đã thể hiện một
tinh thần yêu nước sâu sắc. Qua bao biến thiên lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn
đứng trước nguy cơ xâm lược của kẻ thù, tinh thần yêu nước càng được hun
đúc và trở thành nét đẹp văn hóa, là nếp sống, là thước đo nhân phẩm tốt đẹp
của con người Việt Nam. Trong văn học, dòng chủ lưu xuyên suốt từ thế kỉ X
đến thế kỉ XV đã phản ánh lòng yêu nước nồng nàn qua những áng văn thơ
muôn đời bất hủ của dân tộc.
Đọc lịch sử Việt Nam có ai lại không khâm phục Lý Thường Kiệt, vị
anh hùng dân tộc đã có nhiều chiến công trong việc phạt Tống, bình Chiêm,
chặn đứng các cuộc xâm lăng nước ngoài. Sự nghiệp anh hùng đó tương
truyền gắn liền với một bài thơ bất hủ được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu
tiên mang tính chất trọng đại trong lịch sử Việt Nam:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”

(Nam quốc sơn hà)
Tương truyền, trong cuộc kháng chiến vô cùng gian khó mà oanh liệt
ấy, một đêm tướng sĩ nghe thấy tiếng bài thơ ấy vang lên từ ngôi đền Trương
Hống, Trương Hát - hai vị danh tướng của Triệu Quang Phục. Có lẽ, Lý
Thường Kiệt đã tạo ra câu chuyện thần linh để khích lệ tinh thần chiến đấu
của binh sĩ. Bài thơ với giọng điệu khẳng khái hùng hồn đã khẳng định nước
25


×