Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Một số giải pháp để phát triển công tác đào tạo nghề ở tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.24 KB, 27 trang )

Một số giải pháp để phát triển công tác đào tạo nghề ở tỉnh Phú
Thọ
I. Quan điểm, phương hướng chung, mục tiêu công tác đào tạo nghề

1. Một số quan điểm chủ đạo:
1.1. Nâng cao vai trò đào tạo nghề.
- Phải thực sự coi đào tạo nghề là một nhiệm vụ trọng tâm trong việc
phát triển nguồn nhân lực, đồng thời coi đào tạo nghề cũng là nâng cao dân
trí, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Đào tạo nghề phải được tăng nhanh cả
về quy mô, chất lượng, hiệu quả và tạo ra cơ cấu lao động hợp lý hơn cho
thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Phát triển đào tạo nghề phải gắn với
chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn, gắn
với nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, vùng dân cư,
với từng địa phương, gắn với thị trường sức lao động theo quan hệ cung
cầu.
- Nhà nước thống nhất quản lý về mục tiêu, nội dung, chương trình
đào tạo nghề, quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống trường và trung tâm
dạy nghề, cấp phát bằng, chứng chỉ, định hướng và hướng dẫn đối với các cơ
sở dạy nghề quy mô nhỏ.
1.2. Xã hội hoá đào tạo nghề.
- Thực hiện xã hội hoá đào tạo nghề nhằm thu hút mọi nguồn nhân lực
trong và ngoài tỉnh cho các hoạt động đào tạo nghề. Khuyến khích mọi thành
phần kinh tế tham gia đào tạo nghề và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người
lao động có cơ hội học nghề, tìm kiếm việc làm. Đa dạng hố các loại hình
đào tạo, loại hình trường lớp. Người học nghề và người sử dụng lao động

1
1


phải có trách nhiệm đóng góp theo phương châm Nhà nước và nhân dân


cùng làm.
- Bên cạnh việc thực hiện công bằng xã hội trong đào tạo nghề, đáp
ứng yêu cầu đào tạo cho đông đảo người lao động, cần đầu tư có trọng điểm
để tạo nên một bộ phận đào tạo nghề chất lượng cao làm chuẩn mực và đẻ
đào tạo tđội ngũ công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ có khả năng tham
gia cạnh tranh trong thị trường lao động trong nước.
- Song song với việc đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động công nghiệp
và dịch vụ, phải coi trọng và tăng cường lãnh đạo nghề cho lao động nông
thôn mà chủ yếu là đào tạo ngắn hạn các nghề trồng trọt, chăn nuôi, đánh
bắt thuỷ sản, sơ chế, chế biến và bảo quản nông, lâm, ngư nghiệp và các nghề
truyền thống.
1.3. Đào tạo gắn với sử dụng.
Đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm cho người lao động chưa có
việc làm, tạo việc làm mới cho những người lao động mất việc làm trong q
trình sắp xếp lại lao động và cổ phần hố các doanh nghiệp Nhà nước.
1.4. Tăng cường ngân sách cho đào tạo nghề.
Nhà nước và địa phương các cấp tăng ngân sách đầu tư cho đào tạo
nghề đồng thời có chính sách, cơ chế hợp lý, đẩy mạnh xã hội hố để huy
động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Nguồn ngân sách Nhà nước tập
trung đầu tư cho các cơ sở đào tạo nghề cho lao động ở nông thôn.
2. Phương hướng :
- Phối hợp chặt chẽ và tranh thủ sự giúp đỡ của các trường trung học
chuyên nghiệp, các trường dạy nghề của Trung ương, các cơ sở dạy nghề
trong cả nước và trên địa bàn tỉnh nhằm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
quản lý, giáo viên và công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ của tỉnh. Tạo
2
2


môi trường và điều kiện thuận lợi để người lao động có kiến thức, có trình

độ chun mơn đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh trước mắt
cũng như lâu dài.
- Tiếp tục xây dựng mạng lưới cơ sở dạy nghề đa sở hữu, xã hội hố
cơng tác dạy nghề, truyền nghề gắn việc dạy nghề làm nịng cốt để xây dựng
và khơi phục các làng nghề truyền thống, hướng dẫn cho người lao động
ứng dụng các tiến bộ KHKT vào sản xuất, trước hết là trong lĩnh vực nông
lâm ngư nghiệp, kinh tế trang trại phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp hố
nơng thơn.
- Đào tạo nguồn nhân lực phải gắn với phát triển kinh tế xã hội và phù
hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh.
- Thực hiện phương châm không chỉ đào tạo nghề ở trong các trường
chuyên nghiệp, các cơ sở dạy nghề mà phải đào tạo trong suốt q trình lao
động. Ngồi việc học giỏi lý thuyết , học viên phải giỏi thực hành và vận dụng
vào điều kiện thực tiễn của đời sống kinh tế xã hội. Không những hiểu biết
thành thạo một nghề mà người lao động còn biết nhiều nghề, am hiểu những
kiến thức khác như: luật pháp, ngoại ngữ, tin học.....
3. Mục tiêu đào tạo nghề :
Đào tạo phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề đảm bảo nguồn nhân lực phục vụ
cho sự nghiệp cơng nghiệp hố - hiện đại hố của tỉnh. Do đó phải mở rộng
quy mô và nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác đào tạo dạy nghề.
Phải hết sức coi trọng và bồi dưỡng lực lượng lao động giỏi, có trình độ kỹ
năng nghề nghiệp tạo sản phẩm có chất lượng cao, đủ sức quản lý và vận
hành nền kinh tế, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà quy hoạch
tổng thể đến năm 2010 của tỉnh đề ra.
3.1 Mục tiêu tổng quát :
3
3



- Tạo môi trường thuận lợi để người lao động có cơ hội lựa chọn
ngành nghề, phát huy được năng lực sở trường của người lao động. Đào tạo
đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ theo tinh thần Nghị
quyết 05/NQ-TW của Ban thường vụ tỉnh uỷ về đào tạo phát triển nguồn
nhân lực đến năm 2010.
- Công tác đào tạo dạy nghề phải tạo ra đội ngũ lao động có trình độ
chun mơn kỹ thuật cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội nói chung, đặc
biệt là ở nông thôn và đáp ứng cho sự nghiệp cơng nghiệp hố,hiện đại hố
của tỉnh. Cung cấp ngày càng nhiều lao động có trình độ chun mơn kỹ
thuật, ngoại ngữ, tin học, quản lý cho lĩnh vực hợp tác quốc tế về lao động,
cho các công ty liên doanh, cho các khu công nghiệp tập trung. Nâng dần cơ
cấu số lượng, chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh đến năm 2010 tiến tới cơ
cấu : 1 đại học - 4 trung học - 10 công nhân kỹ thuật và đạt tiêu chuẩn lao
động có trình độ chun môn kỹ thuật của tỉnh từ 35 - 38% so với tổng
nguồn lao động.
3.2 Mục tiêu cụ thể từng giai đoạn :
Trong giai đoạn 1997 - 2000 song song với việc đào tạo đáp ứng nhu
cầu lao động cho các ngành đồng thời chú trọng đào tạo đội ngũ lao động kỹ
thuật cho nông lâm nghiệp. Trong giai đoạn này đã đào tạo mới 25 ngành
lao động, bình quân mỗi năm khoảng 8 ngàn người (dạy nghề chính quy 4
ngàn) . Đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 16% năm 1997 lên 20% năm 2000.
Chỉ tiêu

Năm 2000

Giai đoạn 2001 -

Giai đoạn

1. Lao động trong độ tuổi có khả


629,2

2005
705,6

2006 - 2010
748,5

132,5

193,5

272

18,5
34,5
79,0
20

20
45
128,5
27

21
62
188
35


năng lao động
Trong đó : Có CMKT
Chia ra :
- ĐH,CĐ,Trên ĐH
- THCN và tương đương
- CNKT và tương đương
2. Tỷ trọng lao động có CMKT so với

4
4


nguồn lao động (%)
3. Tỷ trọng lao động đã qua đào tạo

12

17,5

23,5

nghề so với nguồn lao động (%)

Trong giai đoạn 2001 - 2005 đào tạo mới là 49,5 ngàn người (trong
đó dạy nghề chính quy khoảng 26 ngàn người), bình quân mỗi năm đào tạo
nghề cho khoảng 10 ngàn lao động.
Trong giai đoạn 2006 - 2010 đào tạo mới là 59,5 ngàn lao động (trong
đó đào tạo chính quy khoảng 29 ngàn người) , bình quân mỗi năm đào tạo
nghề cho khoảng 11,9 ngàn lao động.
Để đạt được mục tiêu như trên, địi hỏi tỉnh Phú Thọ phải có sự cố

gắng, nỗ lực rất lớn trong công tác đào tạo nghề. Do đó, Phú Thọ phải có
những chính sách, những giải pháp đúng đắn ngay từ bây giờ.
II. Một số giải pháp phát triển công tác đào tạo nghề ở tỉnh Phú Thọ

Để thực hiện chiến lược đào tạo vào từng bước nâng cao chất lượng
đội ngũ công nhân kỹ thuật, chúng ta phải giải quyết nhiều vấn đề có tính
chiến lược đối với các cơ sở đào tạo nghề của tỉnh. Tuy nhiên, trong những
năm trước mắt tỉnh cần tập trung giải quyết một số vấn đề chủ yếu sau:
1. Cần nhanh chóng sắp xếp, bố trí các cơ sở đào tạo nghề.
Để làm được việc này, trước hết cần tiến hành khẩn trương một số
cơng việc:
- Rà sốt lại điều kiện và khả năng của từng trường (kể cả công lập và
dân lập) trên tất cả các phương tiện, trong đó đặc biệt chú trọng đến các vấn để:
+ Mặt bằng của nhà trường
+ Hệ thống phòng học và các thiết bị phục vụ cho giảng dạy và nghiên cứu.
+ Hệ thống các cơ sở làm việc của cán bộ giáo viên.
+ Số lượng và chất lượng đội ngũ giáo viên.
5
5


+ Hệ thống thư viện, thông tin tư liệu
+ Hệ thống giáo trình, tài liệu tham khảo phục vụ giảng dạy, nghiên
cứu học tập của giáo viên và học sinh...
Từ sự phân tích đó tìm ra điểm mạnh, điểm yếu của từng trường, từng
cơ sở đào tạo nghề để có hướng xử lý cho phù hợp.
- Thông qua việc điều tra xã hội học đối với số học viên đã tốt nghiệp
ra trường cũng như đối với các cơ quan, đơn vị sử dụng số họcviên do các
trường đào tạo ra để đánh giá một cách thực chất chất lượng đào tạo của
các trường trong thời gian vừa qua. Trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch sắp

xếp, bố trí lại các trường và trung tâm đào tạo phù hợp với yêu cầu của tỉnh.
Việc bố trí, sắp xếp lại hệ thống các trường rất phức tạp, bởi lẽ nó
đụng chạm đến nhiều vấn đề lớn như:
+ Đất đai để xây dựng trường sở.
+ Tài chính để xây dựng trường, mua sắm máy móc thiết bị phục vụ
cho việc dạy và học.
+ Việc làm của cán bộ, giáo viên, vị trí của mỗi con người trong các
trường và thu nhập của họ.
Do đó, khơng thể tiến hành sắp xếp một cách ồ ạt bằng các mệnh lệnh
hành chính đơn thuần, mà phải có sự lựa chọn, làm thử để rút kinh nghiệm,
làm từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Do điều kiện, ngân sách, vì vậy trước mắt không nên thành lập quá
nhiều trường, chỉ thành lập thêm những trường khi có nhu cầu ở các vùng
kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp,... Điều quan trọng hơn là củng cố, tăng
cường nâng cấp cho các trường để mở rộng quy mô, hoạt động hết công
suất, nâng cao chất lượng. Cụ thể như sau:

6
6


- Hình thành các trường trọng điểm: Đây là hệ thống xương sống của
ngành nhằm mục đích đào tạo kỹ thuật viên và CNKT lành nghề yêu cầu
phát triển của tỉnh. Các trường này sẽ giữ vai trò nòng cốt của hệ thống các
trường công lập bên cạnh việc đa dạng hố các loại hình đào tạo nghề
nghiệp khác. Để khai thác các điều kiện hiện có, tỉnh nên giao cho các trường
trọng điểm nhiệm vụ dạy nghề, bồi dưỡng, tập huấn chuyển giao kỹ thuật
như sau:
+ Trường dạy nghề Phú Thọ. Đây là trường trọng điểm đào tạo đa
ngành với quy mô thường xuyên từ 600 - 800 học sinh/năm. Trường cung

cấp cơng nhân kỹ thuật có chất lượng cao đạt chuẩn quốc gia để phục vụ
nhu cầu khu công nghiệp, khu chế xuất, các vùng kinh tế trọng điểm các
ngành kinh tế, kỹ thuật có thế mạnh của tỉnh.
+ Trường trung học Nông lâm: Là trường trọng điểm thực hiện
chương trình đào tạo nơng dân, cần được nâng cao trình độ giáo viên, đổi
mới nội dung cơng ty, nhất là phương pháp tổ chức đào tạo để phù hợp với
lao động của nông dân.
+ Trường trung học kinh tế: Nghiên cứu để đào tạo một số nghề
thương mại, dịch vụ; dịch vụ ăn uống, quản lý nhà hàng, khách sạn, nhân
viên du lịch... Hàng năm trường tuyển sinh từ 80 - 100 học sinh vào học nghề
chính quy, tổ chức dạy nghề ngắn hạn, bồi dưỡng nhân viên nghiệp vụ kỹ
thuật, nâng dạy nghề hơn 300 lượt người.
+ Trường Trung học y tế: Củng cố và mở rộng nhóm nghề kỹ thuật
viên y, dược phục vụ chế biến dược phẩm, dược liệu, sản xuất thuốc y học cổ
truyền đáp ứng yêu cầu lao động kỹ thuật y tế cho hệ thống chăm sóc sức
khoẻ nhân dân.

7
7


- Xây dựng một số cơ sở dạy nghề lưu động đáp ứng nhu cầu học tập
nghề nghiệp của các vùng sâu, vùng xa và vùng núi cao đảm bảo sự cơng
bằng và bình đẳng tạo cơ hội cho mọi người có mong muốn học tập nghề.
2. Xây dựng đội ngũ giáo viên đào tạo nghề:
Giáo viên là nhân tố quyết định đến chất lượng đào tạo, việc xây dựng
đội ngũ giáo viên dạy nghề là quá trình liên tục, phải được tiến hành thường
xuyên.
2.1. Đáp ứng yêu cầu về số lượng giáo viên.
Phải có kế hoạch dự báo nhu cầu giáo viên ở từng huyện, từng vùng..

để tỉnh có định hướng trước nhu cầu tuyển sinh ở từng trường, từng mơn
cũng như có sự cân đối ở tầm vĩ mô bảo đảm đủ số lượng giáo viên trước
từng năm học. Đa dạng hố hình thức đào tạo - bồi dưỡng giáo viên một
cách có hiệu quả, kết hợp hợp lý giữa đào tạo chính quy và đào tạo tại chức.
Cần phải có chỉ tiêu đào tạo đội ngũ giáo viên theo địa chỉ (ngành,
vùng, huyện) dựa trên quy hoạch tổng thể của sự phát triển giáo dục theo
từng giai đoạn.
Kết hợp giải pháp cơ bản lâu dài với giải pháp tình thế, nhất thời (ký
hợp đồng với những giáo viên nghỉ hưu có trình độ chun mơn cao, có tâm
huyết nghề nghiệp tiếp tục giảng dạy...). Có chính sách , chế độ bổ nhiệm và
phân phối đồng bộ sao cho đội ngũ giáo viên có thể hồn thành được nhiệm
vụ dạy học đúng với chuyên môn đào tạo của mình.
Tiến hành đánh giá phân loại đội ngũ giáo viên, giảm số cán bộ hành
chính để tăng thêm cán bộ giảng dạy có trình độ và đảm bảo cơ cấu, chủng
loại đáp ứng yêu cầu đào tạo nghề trong hiện tại và tương lai.
2.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.

8
8


Đòi hỏi cần quan tâm đồng bộ từ tuyển chọn - đào tạo trong các
trường sư phạm - đẩy mạnh công tác bồi dưỡng giáo viên thường xuyên
trong các trường đào tạo. Giáo viên dạy nghề phải có trình độ chun mơn,
thành thạo về thực hành để có thể dạy lý thuyết kết hợp với thực hành. Bồi
dưỡng nâng cao tay nghề cho giáo viên là nhiệm vụ thường xuyên, có như
thế việc dạy nghề mới đảm bảo chất lượng.
Về công nghệ mới, hướng bồi dưỡng công nghệ mới cho giáo viên tập
trung vào những công nghệ đã và sẽ áp dụng vào địa phương, trang thiết bị
hiện đại, vật liệu mới trong các ngành công nghiệp. Các trường, cơ sở dạy

nghề cần chủ động phối hợp với các cơ sở sản xuất để đào tạo, mở các lớp
bồi dưỡng về công nghệ mới cho các giáo viên dạy nghề.
Về ngoại ngữ: ngoại ngữ là một yêu cầu xã hội trong thời kỳ mở cửa,
mục tiêu trong năm năm tới phải phấn đấu 100% giáo viên dạy nghề biết
ngoại ngữ trong đó 40% trình độ B, 5 - 10% thành thạo đẻ giao tiếp được.
Về tin học: Do sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông
tin được sử dụng ngày càng rộng rãi trong giáo dục đào tạo, tin học sẽ được
đào tạo chính khố trong các trường để người cơng nhân có thể sử dụng
thành thạo nó như là một phương tiện sản xuất. Muốn vậy, bồi dưỡng tin
học cho giáo viên phải đi trước một bước.
Tăng cường bồi dưỡng phấn đấu từ nay đến năm 2005 có 80% giáo
viên đạt trình độ chuẩn; 30% có tay nghề bậc 6/7 - 7/7 hoặc tươngđương
đối với giáo viên thực hành, 100% giáo viên dạy nghề được phổ cập tin học
trong đó 15 - 20% có khả năng sử dụng tin học vào bài giảng và quản lý. Các
hình thức bồi dưỡng giáo viên bao gồm:
- Bồi dưỡng dài hạn: thời gian kéo dài trên 1 năm, bồi dưỡng nâng cao
trình độ chun mơn nghiệp vụ.

9
9


- Bồi dưỡng ngắn hạn: là hình thức phổ biến, bồi dưỡng phương pháp
sư phạm công nghệ mới, ngoại ngữ, tin học.v.v... thường được tổ chức tại cơ
sở hoặc trong các đợt bồi dưỡng hè.
- Bồi dưỡng qua hội thảo, hội giảng: Hội giảng được tổ chức thường
xuyên hàng năm để giáo viên được thể hiện năng lực sư phạm, kỹ năng
giảng dạy, học tập kinh nghiệm của đồng nghiệp. Hội thảo nhằm bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ theo chuyên đề như phương pháp giảng dạy, phương
pháp giáo dục quản lý học sinh...

Ngồi ra cịn có hình thức như tự bồi dưỡng, tham quan và thực tập
cả trong và ngoài nước.
Để có thể xây dựng được đội ngũ giáo viên dạy nghề đáp ứng đủ yêu
cầu về số lượng, bảo đảm chất lượng đòi hỏi Nhà nước phải đưa ra những
chính sách, chế độ đãi ngộ thoả đáng nhằm phát huy tiềm năng và nhiệt
huyết của đội ngũ này.
2.3. Đổi mới hệ thống chính sách đối với đội ngũ giáo viên dạy
nghề.
Đội ngũ giáo viên, cho dù ở bậc học nào, họ là người đại diện cho trí
tuệ của dân tộc. Do đó, về nguyên tắc họ phải được xã hội trân trọng. Sự trân
trọng ở đây không phải chỉ trên phương diện tinh thần là được xã hội tôn
vinh mà còn phải được trân trọng trong phân phối và thụ hưởng các quyền
lợi vật chất, trước mắt là chế độ tiền lương.
Hệ thống tiền lương của chúng ta hiện nay cịn nhiều bất cập. tiền
lương của chúng ta khơng đủ ni sống bản thân người giáo viên chứ chưa
nói gì đến chuyện ni sống gia đình họ. hệ thống tiền lương củachúng ta đã
làm cho đội ngũ cán bộ khơng tồn tâm, tồn ý với cơng việc mà họ gánh vác.
Song nó lại là cơ sở đẻ ra nhiều tiêu cực trong xã hội. Trong tình hình chung
đó, đội ngũ giáo viên là những người có mức thu nhập thấp và có cuộc sống
10
10


đạm bạc nhất trong hệ thống viên chức Nhà nước. Chính vì thế mà các hiện
tượng tiêu cực cũng đã xâm nhập và phát triển khá mạnh mẽ trong hệ thống
giáo dục - đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng.
- Tiền lương chưa khuyến khích người ta làm việc theo khả năng và
cũng chưa khuyến khích người tài giỏi
Cơ cấu lao động của nước ta hiện nay đang có sự bất hợp lý nghiêm
trọng. Để có được cơ cấu lao động hợp lý trước hết phải có chiến lược giáo

dục và đào tạo đúng, tức là một bộ phận lớn học sinh khi tốt nghiệp THCS
phải chuyển sang học nghề, để đến khoảng tuổi 18 họ thực sự có một nghề
vững chắc, có thể tự kiếm sống đẻ ni mình và gia đình trong tương lai. Chỉ
những em học khá giỏi mới được chuyển sang học THPT, sau đó chuyển lên
đại học, trung học hoặc học nghề.
Phải có hệ thống lương phù hợp, tức là phải xếp mức lương khởi điểm
cao cho công nhân kỹ thuật, tức là tiền lương này bảo đảm cho người công
nhân kỹ thuật cũng có mức lương đủ ni sống mình và gia đình.
- Nên xem xét lại hệ số lương của ngành giáo dục. Cần có một hệ thống
thống nhất do giáo dục - đào tạo. Sau đó, tuỳ tính chất của từng cấp học, tuỳ
điều kiện của từng vùng (thành phố, nơng thơn, trung du, miền núi...) để có
một mức phụ cấp riêng. Mức phụ cấp này là phần mềm, chỉ được hưởng khi
đang làm việc tại đó, khi chuyển đi nơi khác sẽ được hưởng mức phụ cấp đã
quy định tại nơi đến. Như vậy sẽ công bằng và hợp lý hơn.
* Chính sách bồi dưỡng đối với đội ngũ giáo viên
Để có được những sinh viên giỏi, tất yếu phải có đội ngũ giáo viên giỏi.
Người giáo viên khơng những phải giỏi về chun mơn mà cịn phải giỏi về
tin học, về ngoại ngữ và phải là người có tư cách đạo đức tốt, thực sự là tấm
gương cho học sinh noi theo. Muốn có được những người thày như vậy, bên

11
11


cạnh sự nỗ lực của bản thân mỗi giáo viên, Nhà nước cũng cần có chính sách
đào tạo, bồi dưỡng thoả đáng.
Trong chính sách và chế độ hiện hành của Nhà nước khơng có một
khoản đầu tư nào dành cho việc bồi dưỡng thực tế cho giáo viên đào tạo
nghề. Đây là điều bất hợp lý, đề nghị Nhà nước nghiên cứu sớm có giải pháp
khắc phục. Hàng năm, trong kinh phí cấp cho các trường phải có một khoản

dành cho việc bồi dưỡng kiến thức thực tế cho giáo viên.
Đương nhiên, các trường cũng cần phải xem xét lại quy mơ đào tạo
hiện nay. Vì lương của giáo viên q thấp, ngồi tiền lương ra, người giáo
viên khơng biết làm gì thêm để kiếm tiền ni gia đình và bản thân, trước
thực trạng đó, để tăng thu nhập cho giáo viên, buộc các trường phải tăng
quy mô đào tạo, nhiều nơi mở quá khả năng của mình (về giảng đường, về
giáo viên, về giáo trình và tài liệu).
Để có thu nhập, giải quyết nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, khơng ít
giáo viên đã phải giảng liên tục 3 ca trong mỗi ngày. Giáo viên khơng cịn
thời gian đi thực tế, đọc tài liệu tham khảo và nghiên cứu khoa học để nâng
cao trình độ chun mơn.
Rõ ràng nếu Nhà nước không sớm giải quyết một cách căn bản chế độ
đãi ngộ với giáo viên nói chung, giáo viên đào tạo nghề nói riêng, các trường
khơng tính tốn kỹ quy mơ đào tạo của mình cứ chạy theo số lượng như hiện
nay, thì sự xuống cấp về chất lượng đào tạo là điều khó tránh khỏi.
+ Có chính sách cung cấp thông tin cho đội ngũ giáo viên đào tạo nghề.
Các giáo viên đào tạo nghề ngoài việc truyền thụ cho người học những
kiến thức về chun mơn cịn phải bồi dưỡng cho người học những hiểu biết
cơ bản về chủ nghĩa Mác-Lê nin, các chính sách lớn của Đảng và Nhà nước...
Chính vì thế giáo viên đào tạo nghề cũng rất cần được cung cấp thông tin.
Đáng tiếc là từ lâu nay Nhà nước chưa có chính sách cung cấp thông tin cho
12
12


đội ngũ giáo viên đào tạo nghề. Các bản tin tham khảo nội bộ, các thơng tư,
nghị định của Chính phủ, cơng báo... các cán bộ đồn thể các cơ sở thì được
cung cấp rất đầy đủ trong khi hàng loạt giáo viên nói chung, giáo viên đào
tạo nghề nói riêng không hề được cung cấp. Đây cũng là điều bất hợp lý, cần
có sự sửa đổi.

* Chính sách khen thưởng
Khen thưởng là hình thức ghi nhận cơng lao của người lao động từ đó
động viên họ tích cực trong lao động, cơng tác, học tập. Việc tặng huy
chương vì sự nghiệp giáo dục thực chất cũng là nhằm mục đích đó. Tuy
nhiên, để nhận được huy chương này, nam giới phải có 30 năm, nữ giới phải
có 25 năm làm việc trong nghề. Do điều kiện lịch sử để lại, những người có số
năm như quy định đa phần đã về hưu hoặc sắp về hưu, vì thế tác dụng động
viên còn hạn chế.

13
13


3. Phát triển, đổi mới nội dung và hình thức đào tạo.
Đồi mới quy trình, nội dung phương pháp đào tạo theo hướng mềm
hố, đa dạng hố chương trình, tạo điều kiện cho lưu thông, đáp ứng nhu
cầu thị trường lao động đa dạng và tạo cơ hội học tập cho thanh niên. Sử
dụng các phương pháp tiên tiến trong dạy học nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo nhưmg vẫn đảm bảo tính truyền thống, kế thừa, phát triển trên một
nền học vấn rộng. Loại bỏ những nội dung không thiết thực, bổ sung những
nội dung cần thiết theo hướng đảm bảo kiến thức cơ bản, cập nhật với tiến
bộ khoa học công nghệ, tăng năng lực hành nghề, năng lực tự học phù hợp
với yêu cầu của nền kinh tế.
Nội dung, chương trình, kế hoạch giảng dạy đối với đào tạo nghề dài
hạn được thống nhất quản lý và biên soạn của Tổng cục dạy nghề (Bộ lao
động - Thương binh -Xã hội)
Về phương thức đào tạo cần kết hợp và phân công giữa nhà trường
với cơ sở sản xuất. Nhà trường đào tạo cho người cơng nhân có một cái
“nền” về kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, có tác phông công nghiệp, kỹ thuật
lao động, biết cách ứng xử trong sản xuất. Còn ở cơ sở sản xuất hướng dẫn

về vận hành, quy trình, quy phạm, kỹ thuật, tiêu chuẩn sản phẩm...
Nhà nước, các trường và cơ sở đào tạo nghề cần tập trung xây dựng
một số chương trình đào tạo theo hướng:
- Phần cơ bản cho tất cả các ngành, nghề
- Một số nghề phổ biến cần có nội dung chuẩn.
- Phần cơ sở (chủ yếu là phần cứng) cho một số ngành, nghề phổ biến
và những ngành nghề múi nhọn đã tiếp cận với công nghệ hiện đại, tiên tiến
đáp ứng nhu cầu phát triển của tỉnh. Theo đó xây dựng các chuẩn đánh giá.

14
14


- Phần chun mơn, thích ứng cho các cơ sở sử dụng nhân lực đảm bảo
hoặc căn cứ vào các hợp đồng đào tạo.
- Cần xây dựng một trung tâm xây dựng chương trình (bộ phận đủ
mạnh để xây dựng nội dung chương trình, sách giáo khoa cho đào tạo nghề
nghiệp ).
- Phương pháp đào tạo phải gắn với sản xuất. Đẩy mạnh việc nghiên
cứu ứng dụng phương pháp dạy nghề theo mơđun đào tạo ngắn hạn và thí
điểm cho một số nghề dài hạn.
- Cần đặc biệt chú ý tới hình thức đào tạo lại đội ngũ lao động trong
khi đang tiến hành sắp xếp lại các doanh nghiệp hiện nay.
Từ nay đến năm 2010 đào tạo nghề phát triển mạnh mẽ cả về số
lượng và chất lượng theo 2 hướng:
- Đào tạo nghề dài hạn
Đào tạo dài hạn (bao gồm cả đào tạo mới và đào tạo lại) để có đội ngũ
cơng nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ lành nghề đủ khả năng tiếp cận và
sử dụng thành thạo các phương tiện kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Tập
trung đầu tư các điều kiện cho dạy nghề để năm 2005 đạt chuẩn quốc gia về

chất lượng đào tạo nghề.
Hình thức đào tạo này chủ yếu tập trung tại các trường dạy nghề, lớp
dạy nghề bên cạnh doanh nghiệp.
- Đào tạo và đa dạng hoá đào tạo nghề bằng nhiều hình thức: Tổ chức
theo lớp, dạy kèm cặp trong doanh nghiệp, truyền nghề.. để rèn luyện kỹ
năng hành nghề; tập huấn chuyển giao công nghệ và truyền lại cho người
học nghề những cơng nghệ mới, những bí quyết nghề nghiệp. Nâng dần chất
lượng dạy nghề ngắn hạn để có khả năng hành nghề sau khi đào tạo.

15
15


Đào tạo ngắn hạn phải bám sát các nhu cầu hiện tại của xã hội. Thời
gian qua loại hình dạy nghề ngắn hạn đã có những đóng góp nhất định trong
quá trình giải quyết việc làm và đảm bảo cuộc sống cho người lao động với
những đối tượng thật đa dạng: học sinh phổ thông, thôi bỏ học; bộ đội xuất
ngũ, lao động hợp tác quốc tế trở về; một số người thuộc diện tệ nạn xã hội
đã hoàn lương...
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công tác dạy nghề cho
nông dân và nông thôn cũng là một mảng quan trọng. Chưa bao giờ nông
dân cần khoa học kỹ thuật và nâng cao trình độ mọi mặt như bây giờ. Việc
không ngừng bồi dưỡng kỹ thuật và cơng nghệ sinh học mới sẽ góp phần tạo
ra những chuyển biến về nông lâm nghiệp của tỉnh nhà. Đối với đào tạo nghề
ở nơng nghiệp, nơng thơn thì có thể tạo dựng được những trung tâm huấn
luyện và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp ngay tại địa phương bằng
nhiều nguồn vốn khác nhau. Cách dạy cách học ở đây không giống với các
trường dạy nghề tập trung ở thành phố. Do đó khơng nhất thiết phải đầu
tư tốn kém, xây dựng nhà cửa to đẹp, mua phương tiện đi lại đắt tiền, thậm
chí có thể lấy ngay một trang trại, một điển hình sản xuất giỏi làm điểm đầu

tư thêm để biến thành cơ sở dạy nghề cho nơng dân quanh vùng. Nếu làm
được thì đây có thể là một trong những biện pháp tháo gỡ khó khăn về vốn
đầu tư xây dựng hàng nghìn cơ sở dạy nghề cho nông dân ở khắp các vùng,
các địa phương.
Dưới một khía cạnh khác, dạy nghề ngắn hạn cịn có vai trị nâng cao
chất lượng nguồn lao động và tao đà để đưa người lao động vào những
chương trình bổ túc nghè, đặt họ lên những bậc thợ ngày một cao hơn. Tuy
nhiên xét về mặt lâu dài việc đào tạo nghề cho người lao động không chỉ đáp
ứng nhu cầu trước mắt của nền sản xuất và đời sống mà cịn cần có sự
chuẩn bị cho tương lai lâu dài, dựa trên những dự báo có cơ sở khoa học.
4. Tăng cường nguồn lực về tài chính
16
16


Việc nâng cao chất lượng đào tạo nói chung, đào tạo nghề nói riêng
phụ thuộc vào nhiều nhân tố như:
- Trình độ của đội ngũ giáo viên
- Các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc giảng dạy, nghiên cứu và
học tập.
- Khả năng và trình độ của người học
- Cơ cấu nội dung chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy.v.v...
Trong tình hình của Phú Thọ, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật giữ vị
trí hết sức quan trọng. Để cho các trường đào tạo nghề có được cơ sở vật
chất kỹ thuật tương xứng với nhu cầu phát triển đòi hỏi Phú Thọ phải nâng
mức đầu tư cho các trường đào tạo nghề hơn nữa. Chỉ có nâng mức đầu tư
thì các trường mới có điều kiện đổi mới chương trình, trang thiết bị và xây
dựng thêm các sở vật chất kỹ thuật cần thiết phục vụ cho việc giảng dạy và
học tập, đặc biệt là hệ thống giảng đường, chỗ làm việc cho giáo viên, hệ
thống thư viện, thiết bị thực hành.

Tất nhiên, nguồn đầu tư này phải đa dạng. Phải được lấy từ nhiều
nguồn khác nhau như ngân sách Nhà nước, các khoản đóng góp của người
học, của người sử dụng lao động... Để thực hiện mục tiêu công tác dạy nghề
trong những năm tới và quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề, dự báo như
cầu về tài chính như sau:

Tổng số tiền đầu tư cho cơ
Năm

Chia ra

sở dạy nghề
Tổng
số

Thiết

Xây

bị

dựng

Đơn vị thành lập mới

17
17

Mở rộng quy mơ của các
trường hiện có




bản
2000
20012005
20062010

Chi
đào
tạo

Xây
Tổng

Thiế

dựng

số

t bị


bản

Chi
đào
tạo


Xây

Tổng
số

Thiết dựng
bị


bản

0,5

đào
tạo

9,7

2,2

3,3

4,2

5,0

1,7

3,3


0

86,5

40

16

30,5

48

30

10

8,0

38,5 10,0

16

37,5 18,0

6,0

6,0

6,0


91,5 50,0 10,0 31,5

109.5 56,0

4,7

Chi

0

4,2

6,0

22,5

( Nguồn: Phòng Đào tạo nghề-Sở Lao động- TB&XH Phú Thọ)
Huy động nguồn lực đào tạo nghề bao gồm:
Ngân sách Nhà nước quyết định số 50/1999/QĐ-TTg ngày 24/3/199
cảu Thủ tướng Chính phủ quy định tăng tỷ lệ Ngân hàng Nhà nước cho đào
tạo nghề trong tổng Ngân sách cho Giáo dục và đào tạo lên 6,5% vào năm
1999 và 7,3% vào năm 2000. Để đạt được tỷ lệ trên, Ngân sách Phú Thọ chi
cho đào tạo nghề năm 2000 từ 10 - 12 tỷ đồng (năm 1998 chi cho dạy nghề
60 triệu đồng và năm 1999 là 315 triệu đồng).
+ Vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản đối với cơ sở dạy nghề thành
lậpmới và củng cố nâng cấp cơ sở dạy nghề hiện có hàng năm khoảng từ 2,0
đến 3,2 tỷ đồng.
+ Kinh phí thường xuyên thực hiện chỉ tiêu dạy nghề hàng năm
khoảng 5,0 đén 5,5 tỷ đồng.
+ Vốn chương trình mục tiêu hàng năm khoảng 3,0 - 3,5 tỷ đồng.

Tranh thủ khai thác nguồn vốn chương trình mục tiêu thơng qua các
chương trình quốc gia về đào tạo nghề từ Ngân sách Trung ương để hỗ trợ
cho hoạt động đào tạo nghề của địa phương.

18
18


Để đầu tư có hiệu quả, từ nay đến năm 2005 Ngân sách Nhà nước đầu
tư có trọng điểm vào xây dựng mới trường dạy nghề Phú Thọ và củng cố
nâng cấp phục vụ cho dạy nghề của trường Trung học nông lâm, trung học
kinh tế Phú Thọ, Trung tâm dạy nghề huyện, thị trước mắt do các huyện thị
tự cân đối.
- Các nguồn ực từ xã hội hoá đào tạo nghề.
+ Các khoản đóng góp của người học theo quy định của Nhà nước.
Hàng năm huy động từ nguồn này khoảng 2 - 3 tỷ đồng.
+ Các khoản đóng góp bằng tiền và hiện vật của các tổ chức kinh tế cử
người đi học.
+ Các khoản thu từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ ở các
xưởng trường, thu hồi vật tư phế liệu tử sản phẩm thực tập.
+ Các khoản thu từ các dự án đầu tư của nước ngồi dưới mọi hình
thức của Chính phủ và tổ chức phi chính phủ.
Đầu tư thoả đáng cho việc xây dựng hệ thống giáo trình đảm bảo tính
khoa học và hiện đại. Để đào tạo những công nhân kỹ thuật có chất lượng
cao chúng ta phải giải quyết nhiều vấn đề, song điều có tính chất mấu chốt là
phải có một hệ thống giáo trình tốt, vừa đảm bảo tính khoa học, vừa săt hợp
với điều kiện lại vừa mang tính hiện đại.
Hệ thống giáo trình dùng ở các trường đào tạo hiện nay đã được đổi
mới khá nhiều, song vẫn chưa được hoàn chỉnh. Một số giáo trình có được
cải tiến, đổi mới, song trên nhiều phương diện vẫn còn lạc hậu, chưa theo kịp

được sự thay đổi của khoa học, kỹ thuật, máy móc thiết bị. Chính vì vậy, việc
tập trung đầu tư để cho các trường đào tạo nghề xây dựng được một hệ
thống giáo trình phù hợp với sự thay đổi của máy móc thiết bị, khoa học kỹ
thuật là một đòi hỏi búc xức hiện hay.
19
19


Để sớm có được hệ thống thống giáo trình có chất lượng là cơ sở cho
việc giảng dạy ở tất cả các trường, cơ sở đào tạo nghề, đề nghị Nhà nước
nên có sự đầu tư thoả đáng để tập hợp các nhà khoa học, các chuyên gia của
từng chuyên ngành để soạn ra giáo trình giảng dạy cho các chuyên ngành
đó.
Tổng cộng các khoản thu từ Ngân sách và các khoản thu từ xã hội hoá
là nguồn lực tài chính đảm bảo cho cơng tác dạy nghề của tỉnh Phú Thọ.
5. Giải pháp về chính sách quản lý Nhà nước.
5.1. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đào
tạo và dạy nghề.
Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền đối với
cơng tác đào tạo, dạy nghề. Phải coi công tác đào tạo nghề là một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để có quy hoạch, kế hoạch phát triển,
có biện pháp quản lý vầ các chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở
đào tạo nghề của mọi thành phần kinh tế, huy động mọi nguồn lực thực hiện
xã hội hố cơng tác đào tạo, dạy nghề.
Đảm bảo sự liên thông giữa giáo dục phổ thông với các cơ sở đào tạo,
dạy nghề; tăng cường việc hướng nghiệp cho học sinh cuối cấp phổ thông
trung học, phổ thông cơ sở, động viên học sinh đi vào học nghề cho phù hợp
với đặc điểm tình hình kinh tế xã hội của tỉnh, có lợi cho chính mình và xã
hội.
Thành lập phòng đào tạo nghề thuộc Sở Lao động - TBXH để thống

nhất quản lý Nhà nước trên địa bàn theo Nghị định 33/1998/NĐ-CP ngày
23/5/1998 của Chính Phủ. Ở các huyện, thành thị phải có người chun
trách làm cơng tác đào tạo, dạy nghề nằm trong phòng LĐTBXH.
5.2. Về cơ chế chính sách.
20
20


UBND tỉnh rà soát, bổ xung và ban hành quy định chế độ đối với người
học (tập trung, tại chức, trường của trung ương), chính sách thu hút nhân
tài về tỉnh làm việc, chế độ thưởng học sinh tốt nghiệp loại xuất sắc (được
phân cơng bố trí theo nguyện vọng cơng tác...). Chính sách khuyến khích
những người đi học nâng cao. Điều tra nắm nguyện vọng, năng khiếu của
các học sinh ở các trường phổ thông để gửi đi học ở các trường quốc gia và
có chính sách thu hút các đối tượng này sau khi tốt nghiệp ra trường về tỉnh.
Để góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông nghiệp (nông
thôn) theo tinh thần Nghị quyết 5 của Bộ chính trị cần có một số chế độ chính
sách khuyến khích, hỗ trợ đối với nơng thơn, đối với các làng nghề để khôi
phục và phát triển sản xuất và đối với phát triển tiểu công nghiệp, tiểu thủ
cơng nghiệp trong nơng thơn.
Có biện pháp và chính sách khuyến khích người lao động được đào tạo
về làm việc ở nơng thơn, miền núi (vùng sâu, vùng xa).
Khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân mở các cơ sở dạy
nghề ở các công ty, doanh nghiệp đào tạo công nhân đảm bảo yêu cầu của
tiến bộ kỹ thuật và đổi mới công nghệ cụ thể từng doanh nghiệp. Vì đây là
phương thức đào tạo rẻ, kinh tế và có nhiều tiềm năng.
Mở rộng quan hệ hợp tác dạy nghề để tiếp nhận công nghệ tiên tiến
của khu vực và hội nhập thế giới, thực hiện tốt việc quản lý khai thác và sử
dụng hiệu quả các nguồn lực đối với công tác dạy nghề.
Thực hiện tốt phân luồng và liên thông trong hệ thống giáo dục quốc

dân. Đẩy mạnh thơng tin tun truyền bằng mọi hình thức đi đôi với các biện
pháp chỉ đạo để thực hiện tốt chủ trương phân luồng và liên thông trong hệ
thống giáo dục quốc dân tạo ra cơ cấu lao động hợp lý, nâng cao hiệu quả
kinh tế trong giáo dục đào tạo, giảm áp lực đối với các trường THPT, THCN,
cao đẳng và đại học.
21
21


Chính sách đối với các cơ sở dạy nghề.
- Chính sách ưu đãi thuế thu nhập đối với các cơ sở đào tạo nghề ngồi
cơng lập.
- Ưu tiên quyền sử dụng đất để xây dựng cơ sở dạy nghề hoặc cho thuê
đất, thuê nhà xưởng để mở cơ sở dạy nghề với giá ưu đãi.
- Các cơ sở dạy nghề được phép mua các trang thiết bị cũ, được thanh
lý của các doanh nghiệp để làm thiết bị giảng dạy và thực hành.
Chính sách đối với người có bằng hoặc chứng chỉ nghề: Tỉnh có quy
định ưu tiên người có bằng hoặc chứng chỉ nghề được vay vốn để tạo việc
làm phát triển sản xuất theo thủ tục được duyệt. Các cơ sở sản xuất, ngồi
sử dụng lao động có chính sách ưu tiên những người có bằng, chứng chỉ
nghề vào làm việc.
Các ngành các cấp thường xuyên phối hợp tổ chức phong trào luyện
tay nghề, thi thợ giỏi, tuỳ theo điều kiện có chế độ dãi ngộ, tơn vinh những
người thợ giỏi, người “có bàn tay vàng”.

22
22


III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ:


1. Đề nghị Chính phủ ban hành Nghị định về việc quy định chi tiết thực
hiện Bộ luật lao động và Luật giáo dục về dạy nghề. Hiện nay, dạy nghề đang
chịu sự điều chỉnh của Nghị định 90/CP ngày 15/12/1995 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về học
nghề và Nghị định số 90/CP ngày 24/11/1993 của Chính phủ quy định cơ
cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống văn bằng, chứng chỉ về
giáo dục và đào tạo của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. ngày
11/12/1998 Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có lệnh cơng
bố Luật giáo dục, vì vậy cần thiết phải có một Nghị định quy định cụ thể, chi
tiết thực hiện Bộ luật lao động và Luật giáo dục về dạy nghề.
Nghị định sẽ quy định chi tiết các loại hình cơ sở dạy nghề, các điều
kiện thành lập, thủ tục thành lập các loại hình cơ sở dạy nghề, trình độ
chuẩn của giáo viên, trách nhiệm và quyền hạn của các cơ sở dạy nghề, các
nguồn tài chính đầu tư cho cơ sở dạy nghề, cơ chế cấp phát và quản lý sử
dụng Ngân sách Nhà nước cho đào tạo dạy nghề.
2. Đề nghị Bộ Lao động thương binh Xã hội ban hành các quyết định,
Thông tư hướng dẫn Nghị định nói trên và Nghị định số 73/1999/NĐ-CP về
chính sách khuyến khích xã hội hố đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo
dục, y tế, văn hoá, thể dục...
3. Ngân sách chi cho đào tạo nghề vốn đã thấp nhưng ở cấp tỉnh việc
phân bổ tài chính để thực hiện chỉ tiêu dạy nghề còn gặp nhiều khó khăn. Đề
nghị Bộ Lao động - TBXH có thơng báo phê duyệt chỉ tiêu đào tạo nghề hàng
năm sớm hơn (năm 1999 đến cuối tháng 3 Bộ mới thông báo trong khi ở
tỉnh đầu tháng 1 đã có quyết định giao chỉ tiêu đào tạo nghề) và có cơ chế
kiểm tra giám sát việc phân bổ thực hiện nguồn lực tài chính cho dạy nghề.

23
23



4. Tổ chức bộ máy công tác quản lý về đào tạo nghề ở cấp huyện thị
hiện nay còn đang rất khó khăn. Các phịng Tổ chức LĐXH chỉ có 1 người
kiêm nhiệm làm cơng tác này. Mặt khác trình độ chun mơn nghiệp vụ của
đội ngũ cán bộ cịn nhiều bất cập với yêu cầu nhiệm vụ hiện nay. Đề nghị Ban
tổ chức chính quyền có chỉ tiêu biên chế chính thức làm cơng tác quản lý,
theo dõi đào tạo nghề ở cấp huyện, thị xã.
5. Đầu tư cho dạy nghề đúng với yêu cầu và nhiệm vụ được giao:
Tại Quyết định số 50/1999/QĐ-TTg ngày 23/3/1999 của Thủ tướng
chính phủ quy định tỷ lệ ngân sách Nhà nước cho đào tạo nghề trong tổng
ngân sách cho giáo dục và đào tạo lên 6,5% vào năm 1999 và 7,3% vào năm
2000. Căn cứ theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ thì chỉ tiêu ngân
sách địa phương khơng thể đáp ứng được; đề nghị trung ương quan tâm
đầu tư cho dạy nghề địa phương thơng qua các chương trình mục tiêu...
6. Đào tạo nghề ngắn hạn phát triển, số lượng đào tạo đã đáp ứng
được nhu cầu học nghề trong nhân dân và thanh niên, tuy nhiên chương
trình và kế hoạch đào tạo cịn nhiều hạn chế về chun mơn cũng như thời
gian. Đề nghị Bộ có hướng dẫn riêng quy định về xây dựng mục tiêu chương
trình dạy nghề ngắn hạn, đồng thời sưu tầm giới thiệu mãu một số nội dung
chương trình của một số nhóm ngành nghề để các cơ sở dạy nghề tham
khảo.

24
24


KÊT LN
Nguồn nhân lực hiện có ở Phú Thọ cịn chưa đáp ứng được những yêu
cầu và đòi hỏi của thực tiễn sản xuất và đời sống. Trong bối cảnh có những
thời cơn thuận lợi và những khó khăn thách thừc đan xen, cùng tác động lên

nền kinh tế xã hội. Phú Thọ phải bứt phá vượt lên theo bước đi riêng cuả
mình bằng chiến lược tận dụng nhân cơng. Muốn vậy việc nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực là một nội dung, một tiền đề cơ bản để nâng cao hiêụ
quả sử dụng. Những vẫn đề bức xúc nhất của việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực hiện nay là mở rộng quy mô đào tạo trên cơ sở đa dạng các
nguồn vốn điều chỉnh cơ cấu đào tạo, phát triển đổi mới nội dung chương
trình đào tạo, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nguồn nhân lực theo hướng CNHHĐH, đào tạo và xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý và chuyên gia
giỏi hướng tới mục tiêu cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp
ứng yêu cầu và đòi hỏi của thị trường .
Để đạt được mục tiêu tạo ra một lực lượng lao động có trình độ học vấn
cao có kỹ năng nghề nghiệp đủ khả năng đáp ứng được thay đổi nhanh
chóng và đa dạng của thị trường lao động Việt Nam khi nền kinh tế tăng
trưởng và đa dạng hoá, Phú Thọ phải thực hiện đồng bộ và có hiệu quả hệ
thống các giải pháp .
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, cơ cấu kinh tế của tỉnh Phú
Thọ đã có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ các thành phần kinh tế phát
triển, khu cơng nghiệp mới được hình thành, thu hút các nhà đầu tư trong
và ngoài nước, nhiều ngành nghề mới, công nghệ mới và lĩnh vực mới
xuất hiện. Thực tế đó địi hỏi nguồn nhân lực phải được phát triển đáp
ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng lao động. Công tác dạy nghề phải
được đẩy mạnh và tăng cường nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động

25
25


×