Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MARKETING VỚI VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH Ở NHNoPTNTHN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.27 KB, 23 trang )

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MARKETING VỚI VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH Ở NHNoPTNTHN
2.1. Sự cạnh tranh trên thị trường NHVN
Ngành ngân hàng trong năm 2008 đã trãi qua nhiều biến động khó khăn.
Lạm phát:
Đầu năm phải đối mặt với lạm phát tăng cao (theo tính tóan sơ bộ lạm phát năm
nay của Việt Nam là 24%) do đó việc thắt chặt tiền tệ đã gây khó khăn không nhỏ cho
ngân hàng. Thứ nhất: họ phải tăng lãi suất vay vì thế cho nên phải tăng lãi suất cho vay.
Lãi suất cho vay quá cao khiến càng ít doanh nghiệp vay vốn, làm cản trở đến việc kinh
doanh của ngân hàng. Thứ hai: Do lãi suất cao nên khả năng hoàn trả của các con nợ bị
giảm sút, việc thu hồi nợ khó khăn hơn, các khoản nợ xấu gia tăng, làm tăng khả năng
rủi ro của các ngân hàng. Thứ ba: Do lý do thứ hai nên các ngân hàng trở nên dè dặt
trong việc cho vay vốn, tiền không được mang ra sử dụng lưu thông trở thành những
khoản tiền vô ích, làm tăng chí phí cho ngân hàng.
Cơn bão tài chính Mỹ:
Gần cuối năm, ngành tài chính ngân hàng phải đón nhận tin cơn bão tài chính ở
Mỹ. Nhưng có lẽ nó có ít tác động đến ngành ngân hàng Việt Nam mà nhiều khi còn là
tin tốt. Tin tốt là vì: Khi nhìn thấy sự khủng hoảng của ngành ngân hàng tại Mỹ, các
ngân hàng Việt Nam sẽ suy xét và nhìn nhận lại cách làm ăn của mình. Họ sẽ thận trọng
hơn với các khoản cho vay của mình; họ sẽ tìm cách giảm rủi ro trong quá trình cho
vay; họ sẽ đề phòng và miễn dịch với các dự án đầu tư hay cho vay mà ở đó các khoản
nợ xấu, khó đòi là cao; họ sẽ tập trung vào các khoản mục sinh lợi tốt, khả năng hoàn
vốn cao và có sự phát triển trong tương lai.
Cạnh tranh giữa các ngân hàng:
Hai năm sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), sự xuất hiện
của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng nước ngoài và
đặc biệt của ba ngân hàng 100% vốn nước ngoài trong năm 2008 cho thấy sức hấp dẫn của thị
trường vốn Việt Nam. Sức nóng cạnh tranh trên lĩnh vực tài chính-ngân hàng dự báo sẽ ngày
càng tăng lên trong năm 2009.
Đầu tiên là sự cạnh tranh các ngân hàng trong nước và các ngân hàng nước
ngoài. Càng ngày càng có nhiều ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam. Lợi thế của họ là


có nhiều vốn, có tiềm lực tài chính và quản lý. Hiện đã có 5 ngân hàng 100% vốn nước
ngoài được cấp phép hoạt động tại Việt Nam, được đối xử bình đẳng như ngân hàng
trong nước theo cam kết WTO.Trong 5 ngân hàng này, thì ngân hàng TNHH một thành
viên Shinhan Việt Nam (Hàn Quốc) và Hong Leong Bank Việt Nam (Malaysia) còn khá
mới lạ với người dân Việt Nam, còn ba cái tên HSBC, ANZ và Standard Chartered đã
được khá nhiều người biết tới.
HSBC là ngân hàng nước ngoài tích cực nhất hiện nay. HSBC vừa được Ngân
hàng Nhà nước chính thức cho phép thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài tại
Việt Nam. Việc thành lập ngân hàng con sẽ cho phép HSBC mở rộng mạng lưới phân
phối rộng hơn, tới các khách hàng hiện tại cũng như khách hàng mới. HSBC trở thành
ngân hàng nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam sở hữu 20% cổ phần tại một ngân hàng
trong nước sau khi nâng cổ phần sở hữu tại Techcombank từ 14,4% lên 20%. Điều này
cho phép HSBC mở rộng sức ảnh hưởng và gia tăng tầm hoạt động của mình. Sức ép
cạnh tranh ngày càng gia tăng đối với các ngân hàng nội.
Theo Ngân hàng Nhà nước, trong năm 2008, tỷ lệ nợ xấu nói chung của cả khối ngân
hàng ngoại tăng so với năm 2007, tuy nhiên mức tăng không đáng kể. Về tổng thu nhập trước
thuế, mặc dù có một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài và công ty tài chính bị lỗ nhưng lợi
nhuận trước thuế của cả khối là 1.418 tỷ đồng.
Nếu nhìn vào con số lãi hơn 1.400 tỷ đồng so với số lượng các tổ chức tín dụng nước
ngoài có mặt tại Việt Nam thì không có gì đáng nói, nhưng điều đáng nói ở đây là hầu hết các
tổ chức tín dụng này đều mới có mặt ở Việt Nam sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO
vào ngày 11/1/2007.
Thông thường, một ngân hàng mới thành lập phải bỏ chi phí lớn đầu tư, mở rộng mạng
lưới kinh doanh, quảng bá hình ảnh mà đã có lãi ngay như các ngân hàng ngoại là điều đáng
chú ý.
Cạnh tranh với ngân hàng trong nước: Điều này là hiển nhiên nhưng có xu thế
mới đó là việc hợp tác của các ngân hàng nội. Việc rõ ràng nhất là “liên minh ATM”.
Cầm thẻ ATM của ngân hàng Techcombank nhưng khi đến trạm rút tiền của ngân hàng
Vietcombank bạn vẫn có thể rút tiền được. Điều này làm gia tăng tầm hoạt động, khả
năng cạnh tranh, sức thu hút khách hàng hơn là những ngân hàng không nằm trong liên

minh.
Nhưng sự cạnh tranh dù là giữa nội – ngoại hay nội – nội vẫn là cần thiết. Vì như thế
các ngân hàng sẽ không ngừng cải thiện, không ngừng gia tăng chất lượng dịch vụ, luôn
luôn sáng tạo để làm thỏa mãn những đòi hỏi của đất nước, của người dân và các doanh
nghiệp.
Cạnh tranh với thị trường chứng khoán:
Càng ngày chứng khoán càng trở nên lộ diện là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với
các ngân hàng về mặt huy động vốn trong dân. Trước kia chưa có chứng khoán thì
người dân sẽ gửi tiền nhàn rỗi của mình vào các ngân hàng nhằm kiếm các khoản lợi
tức. Nhưng nay, chứng khoán đã làm giảm lượng huy động vốn nhàn rỗi của các ngân
hàng. Những người dân có tiền nhàn rỗi họ sẵn sàng lao vào đầu tư chứng khoán với hi
vọng kiếm lời cao hơn là gửi tiền vào ngân hàng (tuy có rủi ro cao hơn). Bên cạnh đó,
các doanh ngiệp ngoài kênh huy động vốn là vay mượn các ngân hàng họ còn có cách là
phát hành cổ phiếu ra thị trường. Đấy cũng là một cách tốt để huy động vốn.
2.2. Khái quát về NHNo &PTNTHN
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHNN&PTNTHN
Được thành lập theo quyết định số 51-QĐ/NH/QĐ ngày 27/6/1988 của Tổng
Giám đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Với 1.182 lao động, 18 tỷ nguồn vốn, chủ
yếu là tiền gửi Ngân sách huyện và 16 tỷ dư nợ mà hầu hết là nợ cho vay các xí nghiệp
Quốc doanh, các hợp tác xã đã trở thành nợ tồn động. Trụ sở, phương tiện, kho tàng
không đáp ứng được yêu cầu kinh doanh. Ngân hàng phát triển nông nghiệp Hà Nội
sớm phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh với các Ngân hàng đã có bề dày hoạt
động kinh doanh và có nhiều lợi thế hơn hẳn, không những thế còn luôn trong tình trạng
thiếu vốn, thiếu tiền mặt, những năm đầu cùng với sự hỗ trợ nguồn vốn của Ngân hàng
phát triển Nông nghiệp Trung ương cũng chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu vay vốn
của Liên hiệp các Công ty Lương thực Hà Nội để mua gạo cho nhân dân nội thành, một
phần nhu cầu tiền mặt chỉ lương cho các doanh nghiệp
Nhận rõ trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước,
mà trọng tâm là phát triển kinh tế nông nghiệp, góp phần đổi mới Nông thôn ngoại
thành Hà Nội, Ngân hàng phát triển Nông nghiệp Hà Nội đã nhanh chóng khai thác

nguồn vốn để đầu tư cho các Thành phần kinh tế mà trước hết là đầu tư cho Nông
Nghiệp. Nhờ có những quyết sách táo bạo, đổi mới nhận thức kiên quyết khắc phục
điểm yếu nhất là thiếu vốn, thiếu tiền mặt, nhờ vậy chi sau hơn hai năm hoạt động, từ
năm 1990 trở đi Ngân hàng NHNo Hà Nội đã có đủ nguồn vốn và tiền mặt thỏa mãn cơ
bản các nhu cầu tín dụng và tiền mặt cho khách hàng.
Thực hiện chủ trương cho vay hộ sản xuất theo quyết định 499A của Tổng giám
đốc NHNo&PTNT Việt Nam, NHNo&PTNT Hà nội đã phối hợp với Hội Nông đân,
Hội liên hiệp phụ nữ thành phố đã đẩy mạnh cho vay phát triển các sản phẩm Nông
Nghiệp như trồng dâu nuôi tằm, chăn nuôi bò sữa, gia súc, gia cầm, phát triển vùng
chuyên canh rau, hoa cây cảnh...nhờ vậy thu nhập và đời sống nông dân ngoại thành đã
được cải thiện đáng kể, tỷ lệ hộ khá và gia tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống đáng
kể.
Tháng 9 năm 1991, 7 Ngân hàng huyện thị: Mê Linh, Hoài Đức, Đan Phượng,
Thạch Thất, Ba Vì, Phúc Thọ, thị xã Sơn Tây được bàn giao về Vĩnh Phúc và Hà Tây.
Tiếp theo đó thực hiện mô hình hai cấp từ tháng 10/1995 NHNo&PTNT Hà Nội
đã bàn giao 5 Ngân hàng Sóc Sơn, Đông Anh, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm, từ tháng
11 năm 2004 đến nay tiếp tục bàn giao các chi nhánh Chương Dương và Tây hồ, Cầu
Giấy, Thanh Xuân về Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, lúc này NHNo&PTNT Hà
Nội lại đứng trước một thử thách mới đó là mang tên Ngân hàng nông nghiệp nhưng lại
phục vụ các thành nghiệp kinh tế không mang dáng dấp cả sản xuất nông nghiệp giữa
nội đô Thành phố Hà Nội
Để đứng vững, tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường NHNo&PTNT Hà
Nội đã chủ động mở rộng màng lưới để huy động vốn và đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng
của các thành phân kinh tế trên địa bàn nội thành
Những khó khăn tương chừng đã với dần đi, những cơ chế thị trường đã làm
nhiều doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp Nhà nước làm ăm thua lỗ mất vốn, có vay
mà không có trả, nhiều doanh nghiệp được khoanh, giãn nợ từ các năm 1995 đến nay
không có khả năng trả nợ dồn lại, khó khăn trong những năm sau này còn nặng nề,
phức tạp gấp nhiều lần khi thiếu vốn, thiếu tiền mặt của thời kỳ mới thành lập song
được NHNo&PTNT Việt Nam, NHNN Việt Nam, Thành Uỷ, UBND thành phố Hà Nội

và các ban ngành từ Trung ương đến địa phương giúp sức cùng với sự kiên trì, năng
động, sáng tạo của Đảng Uỷ, Ban Giám Đốc, của Đảng bộ với 156 Đảng viên cùng với
tập thể viên chức đã lao động cần cù miệt mài đã từng bước vượt qua những trở ngại
thách thức
Sau 20 năm phấn đấu, xây dựng và từng bước trưởng thành, NHNo&PTNT Hà
Nội đã đi những bước vững chắc với sự phát triển toàn diện trên các mặt huy động
nguồn vốn, tăng trưởng đầu tư và nâng cao chất lượng tín dụng, thu chi tiền mặt, mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, phát triển đa dạng hoá dịch vụ đặc biệt chi trả
lương ngân sách qua thẻ ATM và các hoạt động khác
Bên cạnh việc tích cực tìm mọi giải phát để huy động vốn nhất là tiền gửi từ dân
cư và đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, từ
năm 1995, NHNo&PTNT Hà Nội triển khai nghiệp vu thanh toán quốc, chỉ sau 10 năm
đã có thể giao dịch với gần 800 Ngân hàng và đại lý các tổ chức tín dụng Quốc Tế với
doanh số thanh toán xuất nhập khẩu hàng năm từ 150 đến 250 triệu USD, đồng thời
hàng năm đã khai thác được hàng trăm triệu USD, JPY, EURO, DM và nhiều loại ngoại
tệ khác để đáp ứng nhu cầu thanh toán nhập khẩu của các doanh nghiệp. Hoạt động
thanh toán quốc tế đã nhanh chóng tạo được sự tín nhiệm của nhiều khách hàng trong
nước và nước ngoài, đến nay NHNo&PTNT Hà Nội đã mở rộng thanh toán biên mậu
với các nước láng giếng, nhất là Trung Quốc, thực hiện các dịch vụ thu đổi ngoại tệ,
mua bán ngoại tệ, chi trả kiều hổi....
Tự chỗ luôn thiếu tiền mặt để chi cho các nhu cầu lĩnh tiền mặt, đến nay luôn
bội thu tiền mặt, tất cả các nhu cầu nộp lĩnh tiền mặt của các đơn vị và cá nhận có quan
hệ tiền mặt với NHNo&PTNT Hà Nội đều được đáp ứng kịp thời, đầy đủ, chính xác
góp phần tích cực vào sự ổn định tiền tệ và giá cả trên địa bàn Hà Nội.
Ngoài những nhiệm vụ chính NHNo&PTNT Hà Nội đã quan tâm mở rộng các
loại hình dịch vụ tiện ích như chuyển tiền, bảo lãnh dự thầu, bào lãnh thực hiện hợp
đồng, mở LC nhập khẩu, Phonebanking, thẻ ATM, thẻ tín dụng nội địa, thẻ ghi nợ, tự
vấn trong thanh toán Quốc tế, thu tiền tại nhà....mở mang nhiều tiện lợi cho khách hàng
và tăng thu dịch vụ cho Ngân hàng, bình quân thu dịch vụ chiếm 12-15% trên tổng
thu.

Mặc dù còn nhiều khó khăn trở ngại, song NHNo&PTNT Hà Nội kiên quyết
thực hiện đổi mới trong cách nghĩ, cách làm, đặc biệt trong chỉ đạo điều hành, từ chỗ
quen với cơ chế bao cấp, ỷ lại và câp trên, không chú trọng đến chất lượng kinh doanh,
đến nay trọng tâm hàng đầu mà mọi thành viên của NHNo&PTNT Hà Nội đều thực sự
quan tâm là hiệu quả kinh doanh cuối cùng, đặc biệt là chất lượng tín dụng
Để chuẩn bị cho hội nhập trong khu vực và quốc tế NHNo&PTNT Hà Nội đã
từng bước hiện đại hóa hoạt động Ngân hàng mà trọng tâm là công tác thanh toán,
chuyển tiền điện tử cho khách hàng, đến nay mọi nhu cầu chuyển tiền cho khách hàng
trong và ngoài hệ thống được thực hiện ngay trong ngày làm việc, thậm chí chỉ trong
thời gian rất ngắn với độ an toàn và chính xác cao.
Trong quá trình xây dựng và trưởng thành. NHNo&PTNT Hà Nội luôn luôn lấy
đoàn kết nội bộ làm trọng tâm, phát huy sức mạnh của các tổ chức quần chúng như
Công đoàn cơ sở, Đoàn Thanh niên Công sản Hồ Chí Minh, Ban nữ công...vừa mở rộng
hoạt động kinh doanh, cán bộ viên chức NHNo&PTNT Hà Nội đã tích cực hưởng ứng
các công tác xã hội nhu ủng hộ đồng bào bị thiên tai, bão lụt, ủng hộ người nghèo, xây
dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, tổ chức thăm hỏi và tặng quà các gia đình thương binh, liệt
sỹ với trên 300 triệu, nuôi dưỡng 1 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, ủng hộ xây nhà tình
nghĩa cho các gia đình chính sách với 152 triệu đồng....
Với những công hiến cho sự nghiệp xây dựng và phát triên kinh tế Thủ đô cũng
như với sự phát triển của ngành Ngân hàng, từ ngày thành lập đến nay Đảng Bộ
NHNo&PTNT Hà Nội luôn đạt danh hiệu Đảng Bộ trong sạch vững mạnh, được Nhà
nước tặng thưởng 1 Huân chương Lao động hạng Ba, 1 Huân chương Chiến công hạng
Ba, 2 Bằng khen của Thủ tướng Chính phụ, 37 Bằng khen của Thống đôc s NHNN Việt
Nam, 33 bằng khen của Chủ tích UBND thành phố Hà Nội, 39 Chiến sỹ thi đua, 1266
lượt lao động giỏi cấp cơ sở.
Phát huy truyền thống 20 năm xây dựng và trưởng thành, trước yêu cầu đổi mới
của nền kinh tế trong quá trình hội nhập, NHNo&PTNT Hà Nội sẽ phát huy những
thành quả và bài học kinh nghiệm bước đầu trong quản lý điều hành kinh doanh đồng
thời được sự giúp đỡ của các cấp, các ngành cùng với sự nỗ lực, đoàn kết phấn đấu của
tập thể cán bộ, viên chức NHNo&PTNT Hà Nội sẽ phát triển bền vững và giành được

nhiều thành tích to lớn hơn nữa.
2.2.2. Kt qu kinh doanh ca NHNo & PTNT
Nm 2008, mc dự gp nhiu khú khn do tỏc ng ca cuc khng hong tin
t th gii kộo theo s suy thoỏi ca nn kinh t trong nc, giá cả một số mặt hàng
thiết yếu biến động tăng cao, thiên tai dịch bệnh phát sinh đã ảnh hởng xấu đến
phát triển kinh tế Thành phố H Ni núi riờng v c nc núi chung, nhng vi s c
gng ca tp th cỏn b nhõn viờn, Ngõn hng No&PTNT H Ni ó t c nhng
kt qu kinh doanh ton din, xng ỏng vi danh hiu lỏ c u ca ton h thng
Agribank.
Ngõn hng No&PTNT H Ni khụng ch l chi nhỏnh hon thnh tt k hoch kinh
doanh m cũn l chi nhỏnh cung cp ngun nhõn lc lónh o ch cht cho Agribank.
2.2.2.1. Cng tc ngun vn
Tng ngun vn t 15.322 t VN, tng 1.500 t so 2007. Trong ú,
* Phừn loi theo tin
- Ngun vn ni t t 14.233 t tng 1.286 t so vi nm 2007
- Ngun vn ngoi t t 1.088 t ng tng 214 t ng so vi nm 2007
* Phừn theo k hn
- Tin gi khng k hn v di 12 thng : 11.425 t tng 4.678 t so 2007, chim
74,5% tng ngun
- Tin gi trờn 12 thỏng v di 24 thỏng: 693 t gim 2.693 t so 2007, chim
4,5% tng ngun
- Tin gi trờn 24 thỏng: 3.203 t gim 486 t so 2007, chim 21,0% tng ngun
* Phừn theo thnh phn kinh t
- Ngun vn t dõn c: 5.587 t chim 36,5%, tng 2.965 t so nm 2007
- Ngun vn t t chc kinh t: 6.064 t chim 39,6%, tng 909 t so nm
2007
- Ngun vn t TCTD: 1.144 t chim 7,5%, gim 457 t so nm 2007
- Tin gi khỏc: 2.575 t chim 16,4% gim 1.917 t so nm 2007
* t c kt qu trờn l do Chi nhỏnh NHNoHN ó thc hin nhiu hỡnh thc
huy ng vn ti Hi s v 17 im giao dch trc thuc vi nhiu sn phm dch v

tin ớch i vi khỏch hng gi tin nh huy ng tit kim bc thang, tit kim d
thng bng vng cú khuyn mi (NHNoVit Nam phỏt hnh) vi nhiu hỡnh thc tr
lói thỏng, quý, nm, lói trc, lói sau, ng thi Chi nhỏnh ó ch ng iu chnh lói
sut huy ng vn mt cỏch linh hot, phự hp lói sut ca cỏc TCTD trờn a bn, ó
gúp phn nõng cao cht lng, s lng huy ng vn t dõn c. c bit thụng qua
vic tr lng qua ti khon cng ó to thờm ngun vn cho ngõn hng. Khụng nhng
th c s vt cht, trang thit b t Hi s n cỏc PGD ó c chnh sa v thay th
bổ xung toàn diện, phong cách giao dịch ngày một tốt hơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi
tối đa trong giao dịch phục vụ khách hàng
2.2.2.2. Tình hình sử dụng vốn
* Dư nợ
Tổng dư nợ đạt 3.438 tỷ tăng trên 701 tỷ so năm 2007. Dư nợ ngắn hạn: 1.323 tỷ
chiếm 38 %. Dư nợ trung dài hạn : 2.215 tỷ chiếm 62 % tổng dư nợ
+ Phân tích dư nợ theo thời gian cho vay:
- Dư nợ ngắn hạn: 1.323 tỷ giảm 126 tỷ chiếm 38,5 % trong tổng dư nợ
- Dư nợ trung hạn : 343 tỷ giảm 4 tỷ chiếm 10,0 % trong tổng dư nợ
- Dư nợ dài hạn : 1.772 tỷ tăng 831 tỷ chiếm 51,5 % trong tổng dư nợ
+ Phân tích dư nợ theo thành phần kinh tế:
- DN nhà nước: 659 tỷ chiếm 19% tổng dư nợ giảm 5,0%so 2007
- DN ngoài QD : 2.481 tỷ chiếm 72% tổng dư nợ tăng 6,5% so 2007 .
- Hợp tác xã các loại: 12 tỷ chiếm 0,4% tổng dư nợ so giảm 0,1 % 2007
- Hộ gia đình… 286 tỷ chiếm 8,3% tổng dư nợ giảm 2% so 2008
+ Năm 2008, mặc dù có nhiều biến động phức tạp về kinh tế, lãi suất biến động
tăng song NHNo Hà Nội đã tích cực tìm kiếm và lựa chọn các dự án thực sự có
hiệu quả không phân biệt thành phần kinh tế đảm bảo hiệu quả kinh doanh. Nhờ
đổi mới phong cách giao dịch ,với mức lãi suất cho vay hợp lý nên nhiều khách
hàng vẫn quan hệ vay vốn với NHNo&PTNT Hà Nội. Mặt khác thực hiện
nghiêm túc các văn bản quy định về đầu tư tín dụng của NHNN và NHNo Việt
nam và QĐ 493 QĐ 18 của NHNN Việt Nam và Quyết định 165 về việc phân
loại chất lượng tín dụng, phân loại nợ và xử lý rủi ro của Tổng giám đốc NHNo

VN.
Đặc biệt ngay từ đầu năm 2008 Đảng uỷ, Ban giám đốc đã chỉ đạo những
nhiệm vụ và mục tiêu chính trong hoạt động kinh doanh trong đó: Không ngừng
nâng cao chất lượng tín dụng. Tập trung khai thác và tiếp cận những thành phần
kinh tế chú trọng đến các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các thành phần kinh tế tư
nhân cá thể.. làm ăn có hiệu quả, tình hình tài chính minh bạch rõ ràng, đáp ứng
đủ các điều kiện theo quy định do vậy trong năm chi nhánh đã đầu tư vốn tín
dụng tăng trên 700 tỷ só năm 2007.Mặt khác tích cực thu hồi nợ quá hạn, nợ đã
xử lý rủi ro. Tập trung rà soát và xác định chính xác nợ xấu từ nhóm 3 đến
nhóm 5.
Để tiếp tục phát triển NHNo Hà Nội tiếp tục phải thay đổi phong cách giao dịch, xử lý
những yêu cầu tín dụng của khách hàng nhanh, an toàn đúng theo quy định của NHNN
và NHNo Việt Nam, đảm bảo đáp ứng các nhu cầu của khách hàng.
* Nợ xấu
Năm 2008 chi nhánh đã tiếp tục quan tâm đến chất lượng tín dụng từng
bước lành mạnh hoá công tác tín dụng nhằm ổn định và phát triển, do vậy công
tác thẩm định dự án, kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay được thực hiện
nghiêm túc, chặt chẽ. Đồng thời đẩy mạnh thu nợ đã xử lý rủi ro, nợ xấu, kiên
quyết phân loại nợ theo Quyết định 493, QĐ 18 của NHNN để thực hiện trích
rủi ro triệt để. Do vậy, tỷ lệ thu lãi đạt trên 98%, nợ xấu chỉ còn dưới 1%. Nhìn
chung các doanh nghiệp đầu tư đã phát huy hiệu quả đồng vốn đảm bảo trả nợ
tốt cho ngân hàng.
Trong năm 2008 chi nhánh đã trích lập dự phòng rủi ro 182.611 tỷ đạt
102%, thu hồi nợ xấu đạt 104 tỷ tăng 2% so kế hoạch TW giao..Tỷ lệ nợ xấu
đạt dưới 1%.
* Các hoạt động tín dụng
Tổng dư nợ đạt 3.438 tỷ tăng trên 701 tỷ so năm 2007. Dư nợ ngắn hạn:
1.323 tỷ chiếm 38 %. Dư nợ trung dài hạn : 2.215 tỷ chiếm 62 % tổng dư nợ
Trong năm 2008 mặc dù hệ thống ngân hàng đang khó khăn về vốn đầu tư tín
dụng. Song chi nhánh đã luôn có đủ nguồn vốn đáp ứng mọi nhu cầu tín dụng,

chi nhánh đã tập trung cho các thành phần kinh tế sản xuất kinh doanh có hiệu
quả, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. đặc biệt trong năm chi nhánh đã đầu
tư dây truyền thiết bị một số Hà Nội …..để mở rộng thêm các nhà máy sản xuất
tại các tỉnh Hưng Yên, Vĩnh Phúc … với doanh số hàng trăm tỷ đồng..ngoài ra
chi nhánh tổng công ty lớn như Tổng công ty Rượu Bia nước giải khát, Công ty
CP Cồn rượu tiếp tục đầu tư đối vơi các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm tháo gỡ
khó khăn trong hoạt động kinh doanh….
Để phát triển ổn định và vững chắc NHNo Hà Nội đã và đang tiếp tục thay đổi
phong cách giao dịch, xử lý những yêu cầu tín dụng của khách hàng nhanh, an
toàn đúng theo quy định, đảm bảo đáp ứng các nhu cầu của khách hàng kịp thời.
* Dịch vụ và các tiện ích đó thực hiện
+ Dịch vụ thanh toán trong nước:
Với khối lượng vốn thanh toán lớn trong giao dịch của các thành phần kinh tế
trên địa bàn và trên phạm vi cả nước do vậy công tác thanh toán vốn năm 2008 ngày
càng phức tạp và khẩn trương hơn. Tuy nhiên, Agribank Hanoi đã tổ chức tốt công tác
thanh toán đặc biệt vào quý hai, quý ba và thời điểm cuối năm 2008 đối với các doanh
nghiệp, không để chậm trễ hoặc sai sót, đảm bảo uy tín của Chi nhánh đối với khách
hàng. Mặt khác, Agribank Hanoi tiếp tục nâng cao chất lượng giao dịch một cửa tại Hội
sở và các PGD trực thuộc nhằm nâng cao công tác quản lý hoạt động kinh doanh, quản
lý tài chính của ngân hàng nói riêng và đối với khách hàng nói chung được chuẩn xác,
nhanh chóng, thuận lợi. Tổng số phí thu được từ hoạt động thanh toán trong nước đạt
4.230 tr đồng so với năm 2007 tăng 49.7%. Tuy nhiên, tốc độ tăng thu phí không nhanh
như tốc độ tăng của doanh số thanh toán trong nước nguyên nhân do chính sách khách
hàng của Agribank Hanoi đã giảm phí cho một số khách hàng có lượng thanh toán lớn
và số dư tiền gửi cao như Kho Bạc, Tổng công ty Bia-Rượư-Nước giải khát Hà Nội,
Bảo hiểm,…
+ Dịch vụ Thanh toán quốc tế và Kinh doanh ngoại tệ:
Đạt 27.054 tr đồng (chiếm 67.2%).
Năm 2008 nền kinh tế có biến động phức tạp, lạm phát tăng cao đã ảnh hưởng không
nhỏ đến hoạt động kinh doanh ngoại hối. Song công tác thanh toán quốc tế tiếp tục ổn định

đảm bảo đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu thanh toán, vay vốn các loại ngoại tệ của các thành
phần kinh tế. Trong năm đã mở hàng nghìn L/C nhập khẩu với giá trị hàng trăm triệu USD,
hàng chục triệu EUR và các loại ngoại tệ khác tăng 23% so năm 2007, đồng thời mở rộng
phục vụ các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu với kim ngạch hàng chục triệu USD tăng
20% so năm 2007. Bên cạnh đó, để làm tốt công tác thanh toán quốc tế chi nhánh đã chủ
động khai thác được các loại ngoại tệ mạnh như USD, EUR, JPY…được gần 240 triệu
USD, trên 1.230 triệu JPY, gần 70 triệu EUR để phục vụ cho khách hàng,
+ Dịch vụ thu đổi Ngoại tệ:
Doanh số thu đổi năm 2008 là 7.743.714 USD, so với năm 2007 là 12.714.960
USD (không tính 04 chi nhánh về trực thuộc TW). Số bàn đổi ngoại tệ là 30 bàn trong
đó có 18 bàn trực tiếp và 12 bàn đại lý. Nhưng đến cuối tháng 12/2008, thực hiện quyết
định 21 của Thống đốc NHNN Việt nam và công văn số 1011/NHNN-HAN10 ngày
30/12/2008, NHNN Hà nội chưa cấp phép cho tất cả các đại lý đổi ngoại tệ của
Agribank Hanoi
+ Dịch vụ thẻ:
- Phát hành thẻ: năm 2008 phát hành 10.864 thẻ ghi nợ nội địa, tăng gần 1000
thẻ so với năm 2007. Số lũy kế từ đầu là 42.146 thẻ, với số dư tài khoản thẻ là 51.291 tr
đồng. Từ tháng 9/2008, thực hiện chủ trương của Tổng giám đốc Agribank Vietnam,
chi nhánh đã phát hành được 266 thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng quốc tế Visa (8 thẻ tín
dụng). Ngoài hội sở phát hành là chủ yếu (5694 thẻ ATM), một số PGD cũng phát hành
được nhiều thẻ, điển hình là PGD Ba Đình 1510 thẻ, Hai Bà Trưng 831 thẻ. Một số
PGD thực sự chưa quan tâm đến việc phát hành thẻ nên kết quả đạt rất thấp như: PGD
12, 29, 52, 05, 06,…
- ATM: trong năm 2008, thực hiện kế hoạch của Agribank Vietnam chi nhánh
đã triển khai tìm thuê địa điểm và lắp đặt 04 máy ATM, nâng tổng số máy ATM của chi
nhánh lên 19 cái (trong đó hội sở trực tiếp quản lý 11 cái, các PGD là các chi nhánh cấp
II cũ quản lý 08 máy). Nhìn chung, chi nhánh đã thường xuyên theo dõi, giám sát máy
ATM, tiếp quỹ, kiểm tra tình trạng máy để thay giấy in nhật ký, hoá đơn, bảo dưỡng
máy hàng tháng,… đảm bảo máy hoạt động bình thường để phục vụ khách hàng.
- EDC: Thực hiện chủ trương của Tổng giám đốc Agribank Vietnam, trong 6

tháng cuối năm 2008, Agribank Hanoi đã triển khai 10 EDC tại 10 Phòng giao dịch
không có máy ATM. Song do hệ thống hoạt động chưa tốt, thủ tục giao dịch tại EDC
còn phức tạp, công tác tiếp thị cũng chưa tốt và bản thân cán bộ làm nghiệp vụ tại các
phòng giao dịch chưa coi trọng dịch vụ này nên lượng các giao dịch còn rất thấp.
- Đại lý chấp nhận thẻ POS: Hiện năm 2008 chi nhánh còn 11 Đại lý chấp
nhận thẻ. Tuy nhiện, giao dịch tại các POS rất ít. Nguyên nhân của tình trạng này là do
các chủ thẻ còn chưa tin tưởng vào sản phẩm, các điểm đặt POS còn chưa hợp lý, chưa
có POS đặt tại các siêu thị. Hầu hết các điểm chấp nhận thẻ nhân viên thu ngân chưa
thao tác thuần thục trên POS hoặc đã quen với việc thanh toán bằng tiền mặt, ngại sử
dụng phương tiện thanh toán bằng thẻ…
+ Dịch vụ chuyển tiền kiều hối Western Union:
Năm 2008 đạt doanh số 1.441.076 USD, phí 11.126 USD so với năm 2007,
doanh số đạt 3.795.873 USD, phí 13.290 USD (không tính 04 chi nhánh về trực thuộc
TW).
+ Dịch vụ chi hộ lương: năm 2008 đạt 115 hợp đồng chi hộ lương so với năm
2007 là 81 hợp đồng (không tính 04 chi nhánh về trực thuộc TW)
+ Mobile Banking: là dịch vụ mới triển khai năm 2008. Đến hết năm 2008 đã có
gần 1.000 khách hàng đăng ký và sử dụng dịch vụ cũng góp phần làm tăng thêm phí
dịch vụ. Mobile Banking là một trong số các sản phẩm tiềm năng vì đáp ứng tốt nhu
cầu của khách hang, cần được chú trọng phát triển trong năm 2009.
+ Gửi rút nhiều nơi: là dịch vụ mới triển khai từ nửa cuối năm 2008 trên nền tảng
công nghệ IPCAS, đáp ứng nhu cầu, tiện ích của khách hàng. Song do, dịch vụ mới,
công tác tiếp thị chưa tốt nên khách hàng sử dụng dịch vụ này còn ít.
2.2.2.3. Kết quả tài chớnh
+ Thu nhập.
Năm 2008 Chi nhánh đã tập trung tận thu mọi nguồn thu như thu lãi cho vay đạt
trên 98%, thu thừa vốn và các khoản thu khác: Tổng thu nhập đạt 40.285 tỷ tăng

×