Tải bản đầy đủ (.pdf) (150 trang)

Công cuộc khẩn hoang và phát triển kinh tế ở huyện hải lăng (quảng trị) từ 1558 đến 1885

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.84 MB, 150 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ MINH THIỆN

CÔNG CUỘC KHẨN HOANG VÀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ Ở HUYỆN HẢI LĂNG (QUẢNG TRỊ)
TỪ 1558 ĐẾN 1885

LUẬN VĂN THẠC SĨ SỬ HỌC

Thừa Thiên Huế, năm 2016


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ MINH THIỆN

CÔNG CUỘC KHẨN HOANG VÀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ Ở HUYỆN HẢI LĂNG (QUẢNG TRỊ)
TỪ 1558 ĐẾN 1885

Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số: 60 22 03 13

LUẬN VĂN THẠC SĨ SỬ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. THÁI QUANG TRUNG


Thừa Thiên Huế, năm 2016

i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
các số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực,
được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố
trong bất kỳ một công trình nào khác.

Tác giả

Nguyễn Thị Minh Thiện

ii


LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến thầy giáo
TS. Thái Quang Trung đã trực tiếp hướng dẫn khoa học, định hướng nghiên cứu
cho tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau đại học - Trường
Đại học Sư phạm Huế; quý thầy cô giáo trong hai khoa Lịch sử Trường Đại học Sư
phạm Huế và Đại học Khoa học Huế.
Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn, tôi luôn nhận được sự hỗ trợ
về kinh phí và tạo điều kiện về thời gian của UBND tỉnh Tây Ninh, Sở GD & ĐT
tỉnh Tây Ninh, Ban giám hiệu và các bạn đồng nghiệp Trường THPT Quang Trung.
Tôi xin ghi nhận sự giúp đỡ đó với lòng biết ơn sâu sắc.
Tôi xin trân trọng cảm ơn đến nhiều cơ quan, ban ngành đã cung cấp tư liệu

trong quá trình nghiên cứu: Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Bảo tàng tỉnh Quảng Trị,
Huyện ủy huyện Hải Lăng, Ủy ban nhân dân huyện Hải Lăng, Phòng Văn hóa Thông tin huyện Hải Lăng, Ủy ban nhân dân các xã ở Hải Lăng, Thư viện huyện
Hải Lăng, Thư viện Tổng hợp Thừa Thiên Huế, Thư viện Trường Đại học Sư phạm
Huế, Thư viện Trường Đại học Khoa học Huế, Phòng tư liệu khoa Lịch sử Trường
ĐHSP Huế, Phòng tư liệu khoa Lịch sử Trường ĐHKH Huế. Đồng thời, xin được
trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ tận tâm của các bậc cao niên tại các làng mà tôi đi
điền dã khảo sát.
Cuối cùng, xin tri ân đến các bậc tiền nhân đã xây dựng nên mảnh đất Hải
Lăng; xin được bày tỏ lòng thành kính biết ơn đến bố mẹ, anh chị em, người thân đã
luôn ở bên động viên và khích lệ để tôi an tâm học tập và nghiên cứu khoa học. Xin
cảm ơn bạn bè xa gần đã luôn động viên, giúp đỡ tôi trong học tập.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Minh Thiện

iii
iii


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa ................................................................................................... i
Lời cam đoan .................................................................................................... ii
Lời cảm ơn ....................................................................................................... iii
Mục lục .............................................................................................................. 1
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt............................................................ 3
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề................................................................................... 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 8

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 9
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ...................................................... 10
6. Đóng góp của đề tài ........................................................................................... 11
7. Bố cục luận văn ................................................................................................. 11
NỘI DUNG...................................................................................................... 12
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ MẢNH ĐẤT, CON NGƯỜI HUYỆN HẢI
LĂNG (QUẢNG TRỊ) VÀ CÔNG CUỘC KHẨN HOANG TRƯỚC
NĂM 1558 ....................................................................................................... 12
1.1. Điều kiện tự nhiên .......................................................................................... 12
1.2. Vùng đất Hải Lăng trước thế kỷ XIV ............................................................. 16
1.2.1. Dấu vết con người thời tiền và sơ sử trên đất Hải Lăng .......................... 16
1.2.2. Dấu tích văn hóa Chămpa ở Hải Lăng..................................................... 19
1.3. Quá trình thay đổi địa giới hành chính Hải Lăng qua các thời kỳ ................. 22
1.4. Công cuộc khai khẩn và lập làng ở Hải Lăng trước năm 1558 ...................... 24
1.4.1. Khái quát về lịch sử - xã hội Hải Lăng (thế kỷ XIV - 1558) ................... 24
1.4.2. Công cuộc khai khẩn hình thành làng xã Hải Lăng (trước năm 1558).... 26
Chương 2: CÔNG CUỘC KHẨN HOANG PHÁT TRIỂN LÀNG XÃ Ở
HUYỆN HẢI LĂNG (QUẢNG TRỊ) TỪ 1558 ĐẾN 1885 ............................ 33
2.1. Khái quát vùng đất Hải Lăng từ 1558 đến 1885 ............................................ 33

1


2.2. Công cuộc khẩn hoang lập làng ở Hải Lăng từ 1558 đến 1885 ..................... 37
2.2.1. Lực lượng tham gia khẩn hoang .............................................................. 37
2.2.2. Các hình thức tổ chức khẩn hoang lập làng ............................................. 41
2.2.3. Thành quả công cuộc khẩn hoang ở Hải Lăng ........................................ 47
2.3. Một số nhận xét về quá trình thành lập làng xã ở Hải Lăng .......................... 53
Chương 3: KINH TẾ Ở HUYỆN HẢI LĂNG (QUẢNG TRỊ) TỪ 1558
ĐẾN 1885 ........................................................................................................ 58

3.1. Kinh tế nông nghiệp ....................................................................................... 58
3.1.1. Tình hình ruộng đất ................................................................................. 58
3.1.2. Hoạt động trị thủy, thủy lợi ..................................................................... 70
3.1.3. Trồng trọt, chăn nuôi ............................................................................... 74
3.2. Kinh tế thủ công nghiệp ................................................................................. 76
3.3. Kinh tế thương nghiệp .................................................................................... 78
3.1.1. Sự ra đời hệ thống chợ làng Hải Lăng ..................................................... 78
3.3.2. Một số nhận xét về quá trình hình thành và phát triển chợ làng Hải
Lăng ................................................................................................................... 82
3.4. Kinh tế ngư nghiệp ......................................................................................... 85
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 92

2


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CTN

Công thương nghiệp

ĐHKH

Đại học Khoa học

ĐHSP

Đại học Sư phạm


ĐKĐDC

Đồng Khánh địa dư chí

ĐNNTC

Đại Nam nhất thống chí

ĐNTL

Đại Nam thực lục

ĐVSKTT

Đại Việt sử ký toàn thư

GD

Giáo dục

KĐĐNHĐSL

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ

KHCN & MT

Khoa học Công nghệ và Môi trường

Mẫu (10 sào)


4.894 m2 4016

NXB

Nhà xuất bản

ÔCCL

Ô châu cận lục

PBTL

Phủ biên tạp lục

PL

Phụ lục

Sông Thạch Hãn (1)

Số 1, trang phụ lục 1 chú thích

TCN

Trước Công nguyên

Thước (10 tấc)

0.4m


Tấc (10 phân)

0.04m

Trượng

10 thước (4m)

TP

Thành phố

21m1s9th6t4ph

21 mẫu 1 sào 9 thước 6 tấc 4 phân

[1, tr. 69]

Tài liệu số 1 trang 69

475 tầm

1km

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hơn 300 năm từ giữa thế kỷ XVI đến nửa cuối thế kỷ XIX các chúa Nguyễn

và các vua Nguyễn đã để lại dấu ấn đặc biệt trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Trên
hành trình xuyên qua ba thế kỷ nhiều thử thách nghiệt ngã nhưng cũng đầy kiêu
hãnh ấy, Đoan quận công Nguyễn Hoàng cùng các chúa Nguyễn, vua Nguyễn đã có
nhiều đóng góp cho việc xây dựng vùng đất phía Nam, thống nhất lãnh thổ, phát
triển kinh tế - chính trị - văn hóa. Trong đó, không thể không kể đến công lao của
công cuộc khẩn hoang thành lập làng xã và phát triển kinh tế - văn hóa.
Khẩn hoang là nhân tố cực kì quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc Việt Nam; là yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế, điều tiết dân cư,
đồng thời bảo vệ biên cương Tổ quốc, chống nguy cơ xâm lược của ngoại xâm.
Chưa bao giờ sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất nông nghiệp - lâm nghiệp - ngư
nghiệp, sự hưng thịnh của quốc gia phong kiến Đại Việt lại xa rời nhiệm vụ khẩn
hoang. Vì thế, lịch sử khẩn hoang rất được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tuy
không phải là vấn đề mới được đặt ra nhưng nghiên cứu về khẩn hoang vẫn mang ý
nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc.
Hải Lăng là huyện đồng bằng nằm ở phía Nam của tỉnh Quảng Trị; là quê
hương có nhiều di tích lịch sử văn hóa lâu đời. Nơi đây nổi tiếng là mảnh đất giàu
truyền thống yêu nước, cách mạng, là “vựa lúa” của Quảng Trị và là nơi có đời sống
văn hóa phong phú.
Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, với đức tính cần cù, chịu khó, thông
minh, sáng tạo đã hình thành cho con người Hải Lăng một bản lĩnh không chịu khuất
phục trước khó khăn, gian khổ để vượt lên chiến thắng thiên tai, địch họa.
Vì vậy, việc nghiên cứu khôi phục một cách tương đối có hệ thống những gì
xảy ra trong quá khứ là vấn đề cần thiết. Ngoài ý nghĩa là một công trình nghiên
cứu lịch sử địa phương nó còn thể hiện lòng biết ơn đối với tiền nhân, biết ơn những
người khai sơn phá thạch, thau chua rửa mặn để con cháu ngày nay và mai sau tận
hưởng. Do đó, luận văn còn có ý nghĩa là sự tri ân đối với quê hương. Ngoài ra, nó

4



còn góp phần giúp cho nhân dân Hải Lăng, đặc biệt là thế hệ trẻ hiểu hơn, yêu hơn
về quê hương, biết trân trọng những gì tốt đẹp diễn ra trong quá khứ, niềm tự hào
đối với nơi “chôn nhau cắt rốn” càng tăng lên gấp bội. Từ đó, thế hệ trẻ ý thức hơn
nữa trách nhiệm của mình, góp phần xây dựng quê hương giàu mạnh.
Hải Lăng cũng là nơi tôi sinh ra và lớn lên. “Ôn cố tri tân” ông cha ta vẫn
thường dạy, với mong muốn hiểu hơn về quê hương, về những gì liên quan đến
công cuộc khai sơn phá thạch, cải tạo ruộng đồng, phát triển kinh tế tạo lập từng
làng xã cụ thể, để rồi hình thành huyện Hải Lăng như diện mạo ngày nay.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề “Công cuộc khẩn hoang và phát
triển kinh tế ở huyện Hải Lăng (Quảng Trị) từ 1558 đến 1885” làm đề tài luận
văn Thạc sĩ Sử học chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Do tính chất quan trọng của vấn đề khẩn hoang, phát triển kinh tế trong lịch sử
Việt Nam nói chung, dưới thời kỳ cầm quyền của chúa Nguyễn, vương triều Tây
Sơn, triều Nguyễn nói riêng. Từ lâu, vấn đề này được nhiều học giả trong và ngoài
nước chú ý nghiên cứu, có nhiều công trình đã công bố.
* Về vấn đề khẩn hoang
Những sách chuyên khảo về khẩn hoang miền Thuận - Quảng rất ít. Tuy
nhiên, luận án Phó Tiến sĩ “Công cuộc khai khẩn và phát triển làng xã ở Bắc
Quảng Nam từ giữa thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVIII” được bảo vệ thành công năm
1996 của tác giả Huỳnh Công Bá là một công trình nghiên cứu về khẩn hoang
không những đóng góp về mặt khoa học mà còn giá trị thực tiễn sâu sắc. Mặc dù,
luận án nghiên cứu về Bắc Quảng Nam nhưng đó là những định hướng quan trọng
để bản thân tham khảo khi nghiên cứu công cuộc khẩn hoang huyện Hải Lăng.
Trên các tạp chí, kỷ yếu hội thảo khoa học có những bài viết liên quan đến làng
xã Hải Lăng như: Năm 1991, Nguyễn Văn Ngọc có bài: “Sự thành lập các làng cổ ở
Quảng Trị” đăng trên tạp chí Cửa Việt, số 10, tr. 70-76; năm 1997, Nguyễn Hữu
Thông có bài: “Bức tranh dân cư vùng Thuận Hóa đầu thế kỷ XV qua bản “Thỉ thiên
tự” đăng trên Thông tin Khoa học và Công nghệ, Sở KHCN & MT Thừa Thiên Huế,
số xuân Đinh Sửu; năm 2002, Huỳnh Công Bá có bài: “Mấy đặc điểm về làng xã


5


Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng” trong Nghiên cứu Huế, tập 4,
tr. 72-75, “Một số kết quả từ 20 năm nghiên cứu làng xã miền Trung” trong Kỷ yếu
Hội nghị khoa học Đại học Huế lần thứ nhất, 2002, tr. 26-31; năm 2008, trong Kỷ
yếu Hội thảo khoa học “Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam
từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX” với sự tham gia của nhiều chuyên gia hàng đầu về lịch
sử Việt Nam thời cổ, trung và cận đại đã nghiên cứu đánh giá lại chúa Nguyễn và
vương triều Nguyễn trên nhiều lĩnh vực, Thái Quang Trung có bài “Thuận Hóa dưới
thời Đoan quận công Nguyễn Hoàng”; năm 2010, trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học
“Thuận Hóa - Phú Xuân Thừa Thiên Huế 700 năm hình thành và phát triển” Huỳnh
Công Bá góp phần vào hội thảo bài viết: “Một số kết quả nghiên cứu về loại hình
khẩn hoang Thuận - Quảng”. Gần đây, trong Hội thảo khoa học “Quảng Trị - đất
dựng nghiệp của chúa Nguyễn Hoàng (1558 - 1613)” do Ủy ban nhân dân tỉnh
Quảng Trị phối hợp Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức vào tháng 9 năm 2013
đã tập hợp một số bài viết chuyên sâu có liên quan đến đề tài như: “Vài nét về chính
sách an dân thời Nguyễn Hoàng và Nguyễn Phúc Nguyên” của Nguyễn Minh Đăng
và Hồ Thị Minh Hà, “Tầm nhìn của chúa Tiên Nguyễn Hoàng” của Trần Thị Mai,
“Dấu ấn của chúa Tiên Nguyễn Hoàng trên vùng đất Thuận Hóa - Quảng Trị” của
Thái Quang Trung… nêu bật vị trí vùng đất Quảng Trị đối với đại nghiệp của họ
Nguyễn, công lao của chúa Tiên Nguyễn Hoàng đối với vùng đất Đàng Trong.
Ban chấp hành Đảng bộ các cấp từ tỉnh đến huyện, xã đã tiến hành biên soạn
lịch sử Đảng bộ. Các lịch sử Đảng bộ của tỉnh, huyện, xã chủ yếu nghiên cứu thời
gian từ 1930 đến 2010 nhưng ở mỗi công trình cũng có thể cung cấp những nét khái
quát về sự hình thành làng xã. Đặc biệt, quyển “Lịch sử xã Hải Thiện” được biên
soạn rất kỹ về quá trình tụ cư, tình hình ruộng đất thời phong kiến.
Các công trình nghiên cứu nói trên đã khái quát những vấn đề cơ bản của khẩn
hoang. Do vậy, về mặt khoa học có giá trị cung cấp những cơ sở lý luận, vạch ra

phương pháp nghiên cứu, cách tiếp cận tư liệu để thực hiện đề tài này.
* Về vấn đề phát triển kinh tế
Nghiên cứu về vấn đề kinh tế, trước hết là kinh tế nông nghiệp có nhiều công
trình xuất bản. Trong đó, nghiên cứu về ruộng đất Việt Nam ở các thế kỷ X - XIX

6


có các công trình sau: “Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX”
của tác giả Vũ Huy Phúc (1979), “Chế độ ruộng đất Việt Nam” (2 tập) của tác giả
Trương Hữu Quýnh (1982), “Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nhân
dân dưới thời Nguyễn” do Trương Hữu Quýnh và Đỗ Bang chủ biên (1999)… các
tác phẩm đã trình bày một cách hệ thống các loại hình sở hữu ruộng đất, bao gồm
phần pháp chế, các chính sách của triều đình, những tác động của của các chính
sách ruộng đất đối với yêu cầu phát triển của lịch sử. Đây là công trình nghiên cứu
ruộng đất trên cả nước nên chưa đi sâu từng địa phương cụ thể.
Ngoài ra, còn có rất nhiều chuyên khảo liên quan đến kinh tế - xã hội được
công bố như: “Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn” của
Nguyễn Thế Anh; Li Tana với “Xứ Đàng Trong Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam
thế kỷ 17 và 18” gồm 7 chương, đề cập nhiều vấn đề có tính khai phá về sử liệu như
kinh tế, chính trị, xã hội, quân sự, tiền tệ, dân số; “Làng xã Việt Nam một số vấn đề
kinh tế - xã hội - văn hóa” của Phan Đại Doãn…
Liên quan đến đề tài có một số bài nghiên cứu về kinh tế được đăng trên các
kỷ yếu khoa học, tạp chí như: Năm 1987, trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 1 - 2,
Bùi Thị Tân có bài viết: “Về một hình thức phân chia ruộng đất công ở làng Phú
Kinh (Thuận Hải - Bình Trị Thiên) hồi thế kỷ XVIII” đã phân tích về hình thức phân
chia ruộng đất công qua bản Khoán ước khắc trên bản gỗ năm Cảnh Hưng, Giáp
Ngọ (1774); năm 1994, tiếp tục nghiên cứu ruộng đất ở Hải Lăng, Bùi Thị Tân trên
tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 6 có bài viết: “Tình hình ruộng đất và phương pháp
sử dụng ruộng đất công ở làng Câu Hoan (huyện Hải Lăng - Quảng Trị) thế kỷ

XIX”; năm 1995, trên tạp chí Cửa Việt đăng bài: “Phương thức sử dụng công điền
ở Câu Hoan” của Bùi Thị Tân.
Các luận văn, khóa luận tốt nghiệp liên quan đến đề tài
Những vấn đề tổ chức chính quyền, kinh tế như thủ công nghiệp, thương
nghiệp, chợ làng Quảng Trị hay lịch sử một số làng ở Hải Lăng được các luận văn,
khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu khá nhiều như:
Thứ nhất, một số đề tài khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu về làng xã ở Hải Lăng
như: “Tìm hiểu làng xã ở Hải Phú (thành lập đến trước Cách mạng tháng 8/1945)” của

7


tác giả Lê Văn Duẫn (1985), “Quá trình hình thành và phát triển của các làng xã Hải
Lâm - Triệu Hải - Bình Trị Thiên dưới thời phong kiến” - Lê Thanh Hà (1985), “Bước
đầu tìm hiểu làng Cổ Lũy trước Cách mạng tháng Tám 1945” - Nguyễn Gia Đông
(1986), “Bước đầu tìm hiểu làng Câu Nhi (Hải Lăng - Bình Trị Thiên) thời phong kiến”
- Dương Thị Hồng (1987), “Làng Diên Sanh trước Cách mạng tháng Tám 1945” Nguyễn Thành Nhân (1994), “Làng Thuận Nhơn (Hải Vĩnh - Hải Lăng - Quảng Trị)
trước Cách mạng tháng Tám năm 1945” - Nguyễn Thị Minh Thiện (2008)… các khóa
luận trên đã trình bày quá trình thành lập làng Long Hưng, Phú Long, Mai Đàn, Xuân
Lâm, Trường Phước, Cổ Lũy, Câu Nhi, Diên Sanh, Thuận Nhơn.
Thứ hai, một số luận văn nghiên cứu về Quảng Trị có liên quan đến kinh tế
thủ công nghiệp, thương nghiệp ở Hải Lăng như: “Các nghề thủ công truyền thống
của người Việt ở Quảng Trị” của tác giả Lê Đình Hào (2001) trong đó có đề cập
đến nghề nấu rượu ở Kim Long (Hải Quế), nghề làm bánh ướt ở Phương Lang (Hải
Ba). Luận văn “Mạng lưới chợ ở tỉnh Quảng Trị thế kỷ XVI - XIX” của Nguyễn Thị
Mỹ Linh (2012) viết về hệ thống chợ làng cùng hoạt động của nó (chủ yếu nội
thương) trên địa bàn Quảng Trị. Trong đó, có đề cập chợ làng của huyện Hải Lăng.
Hai năm sau (2014) Phạm Nhân Đức tiếp tục mở rộng hướng nghiên cứu với đề tài
“Thương nghiệp Quảng Trị thế kỷ XVI - XIX” không chỉ nghiên cứu hoạt động nội
thương mà còn hoạt động ngoại thương đã cung cấp nhiều tư liệu cho đề tài.

Như vậy, những công trình nghiên cứu kể trên mới chỉ đề cập đến một số khía
cạnh liên quan đến nội dung của đề tài. Cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nào
nghiên cứu về công cuộc khẩn hoang và phát triển kinh tế huyện Hải Lăng (1558 1885) một cách toàn diện, cụ thể. Trên cơ sở kế thừa thành tựu của các nhà nghiên cứu
đi trước, luận văn hy vọng nghiên cứu một cách hệ thống về công cuộc khẩn hoang và
phát triển kinh tế huyện Hải Lăng từ 1558 đến 1885.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Công cuộc khẩn hoang ở huyện Hải Lăng từ 1558 đến 1885 bao gồm: Lực
lượng tham gia khẩn hoang, các hình thức tổ chức khẩn hoang, thành quả công cuộc
khẩn hoang.

8


Kinh tế ở huyện Hải Lăng từ 1558 đến 1885: Nông nghiệp, thủ công nghiệp,
thương nghiệp, ngư nghiệp.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Từ năm 1558 khi Nguyễn Hoàng đặt chân đến vùng đất Ái Tử
đến năm 1885 nước ta hoàn toàn rơi vào tay thực dân Pháp. Đây là khoảng thời gian
quan trọng trong lịch sử khẩn hoang Hải Lăng, đem lại cho Hải Lăng diện mạo gần
như hoàn chỉnh mà chúng ta được biết hiện nay.
Về không gian: Tương ứng địa bàn huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị ngày nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Kế thừa những kết quả nghiên cứu trước đây, trên cơ sở hệ thống hóa các nguồn
tư liệu hiện có, muốn đi sâu tìm hiểu công cuộc khẩn hoang ở huyện Hải Lăng từ 1558
đến 1885. Qua đó, nhằm rút ra được những đặc điểm về công cuộc khẩn hoang huyện
Hải Lăng, thành quả đạt được do công cuộc khẩn hoang mang lại.
Nghiên cứu công cuộc khẩn hoang ở huyện Hải Lăng từ 1558 đến 1885 góp
phần hiểu thêm những đóng góp của các chúa Nguyễn, Tây Sơn, vua Nguyễn. Đó

cũng chính là góp phần tìm hiểu lịch sử dân tộc sâu sắc, toàn diện hơn.
Góp phần hiểu thêm địa chí tỉnh Quảng Trị trong đó có huyện Hải Lăng.
Làm cho thế hệ trẻ Hải Lăng hiểu hơn về lịch sử quê hương, góp phần giáo
dục bồi dưỡng cho họ lòng tự hào, tình yêu đối với quê hương.
Luận văn cũng hy vọng giúp ích phần nào cho những ai quan tâm đến lịch sử
làng xã Việt Nam, lịch sử di dân khai khẩn đất Thuận Hóa.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trình bày khái quát về điều kiện tự nhiên, xã hội của huyện Hải Lăng và phân
tích tác động của nó tới công cuộc khẩn hoang ở huyện Hải Lăng (1558 - 1885).
Trình bày và phân tích quá trình khẩn hoang ở huyện Hải Lăng (1558 - 1885).
Trình bày và nhận xét thành tựu công cuộc khẩn hoang trên 2 bình diện: Thiết
lập xã hiệu, mở rộng đất đai và tiến bộ về kinh tế (nông nghiệp, thủ công nghiệp,
thương nghiệp, ngư nghiệp).
Tìm hiểu cơ cấu tổ chức và quản lý làng xã.

9


5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
- Nguồn tài liệu thư tịch
Đây là nguồn tư liệu rất quan trọng đối với đề tài, bao gồm các bộ sử như: Đại
Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội
điển sự lệ của Quốc sử quán triều Nguyễn. Các bộ địa chí như: Ô châu cận lục của
Dương Văn An, Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, Hoàng Việt địa dư chí của Phan
Huy Chú, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định, Đại Nam nhất
thống chí, Đồng Khánh địa dư chí của Quốc sử quán triều Nguyễn… đây là những
tác phẩm mang tính lịch sử - địa chí khảo tả một cách khá chính xác về vùng đất
Hải Lăng nói riêng và cả nước nói chung, cung cấp cho luận văn nhiều thông tin về
thời gian, sự kiện, các chính sách liên quan đến Hải Lăng.

- Một số sách, kỷ yếu, tạp chí có bài viết liên quan và Luận văn, Khóa
luận tốt nghiệp như đã đề cập ở phần lịch sử vấn đề.
- Nguồn tài liệu trên các website
- Nguồn tài liệu điền dã
+ Tư liệu văn bản: Các văn bản Hán Nôm, Quốc ngữ được lưu giữ tại các cơ
quan trung ương và địa phương, làng xã ở Hải Lăng như địa bạ, gia phả, khoán ước,
hương ước, văn tế…
+ Tư liệu truyền miệng: Đây là loại tư liệu có độ chính xác không cao, bắt
buộc người nghiên cứu phải sàng lọc, đối chiếu, so sánh bao gồm: lời kể của các cụ
cao niên ở các làng, thơ ca, hò, vè được truyền tụng trong nhân dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Tuân thủ phương pháp luận sử học macxit (phương pháp
lịch sử và phương pháp logic) nhằm đảm bảo tính khách quan, khoa học, biện
chứng khi xem xét sự vật, hiện tượng.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
+ Phương pháp điền dã, điều tra khảo sát thực địa, thu thập tài liệu thành văn
và tư liệu truyền miệng thông qua ký ức của nhân dân Hải Lăng để khai thác tư liệu.

10


+ Sử dụng các phương pháp đồng đại, lịch đại để kiểm chứng, so sánh, đối
chiếu các nguồn tư liệu nhằm tìm ra những thông tin cần thiết, chính xác phục vụ
cho đề tài, nhất là xác định khoảng thời gian ra đời, tồn tại của các làng.
+ Phương pháp thống kê, mô tả, phân tích, khái quát nhằm rút ra những nhận
xét có tính chất bao quát, thể hiện các mối liên hệ cũng như bản chất của sự vật - cụ
thể ở đây là quá trình ra đời các làng xã, sự phát triển kinh tế ở huyện Hải Lăng sau
công cuộc khẩn hoang.
6. Đóng góp của đề tài
- Góp phần khôi phục lại bức tranh quá trình khẩn hoang lập làng, mở rộng

diện tích đất canh tác, cải tạo đất đai của nhân dân huyện Hải Lăng. Từ đó, rút ra
những bài học vận dụng công tác khuyến nông, phát triển kinh tế - xã hội hiện nay.
- Nêu rõ công lao khẩn hoang của người Việt, quá trình khai phá và định cư.
- Bước đầu rút ra một số đặc điểm cơ bản về việc hình thành làng xã ở huyện
Hải Lăng.
- Góp phần đánh giá công lao của chính quyền chúa Nguyễn, Lê - Trịnh, Tây
Sơn, triều Nguyễn trong lịch sử dân tộc.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn là một tài liệu tham khảo cho công tác dạy
và học lịch sử địa phương. Đề tài cung cấp một số tư liệu cho những ai muốn tìm
hiểu về huyện Hải Lăng nói riêng và làng xã cổ truyền nói chung.
7. Bố cục luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục; nội
dung của luận văn được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về mảnh đất, con người huyện Hải Lăng (Quảng Trị) và
công cuộc khẩn hoang trước năm 1558.
Chương 2: Công cuộc khẩn hoang phát triển làng xã ở huyện Hải Lăng
(Quảng Trị) từ 1558 đến 1885.
Chương 3: Kinh tế ở huyện Hải Lăng (Quảng Trị) từ 1558 đến 1885.

11


NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ MẢNH ĐẤT, CON NGƯỜI HUYỆN HẢI LĂNG
(QUẢNG TRỊ) VÀ CÔNG CUỘC KHẨN HOANG TRƯỚC NĂM 1558
1.1. Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý
Hải Lăng là huyện nằm về cực Nam tỉnh Quảng Trị, có tọa độ địa lý
16033’40’’ đến 16048’ vĩ độ Bắc và 10704’10’’ đến 108023’30’’ kinh độ Đông, cách
thành phố Đông Hà về phía Nam 21km, cách thành phố Huế về phía Bắc 50km;

phía Đông giáp Biển Đông, phía Tây giáp huyện Đakrông, phía Nam giáp tỉnh Thừa
Thiên Huế, phía Bắc giáp thị xã Quảng Trị và huyện Triệu Phong. Theo miêu tả của
sách Đại Nam nhất thống chí:
Huyện Hải Lăng cách đạo 17 dặm về phía Đông Nam; Đông Tây cách
nhau 38 dặm, Nam Bắc cách nhau 70 dặm; phía Đông đến địa giới
huyện Phong Điền 24 dặm, phía Tây đến địa giới 2 huyện Đăng Xương
và Thành Hóa 14 dặm, phía Nam đến động núi 47 dặm, phía Bắc đến
biển 23 dặm [48, tr.100].
- Điều kiện tự nhiên
Địa hình và sông ngòi: Đặc trưng của địa hình Hải Lăng là thấp dần từ Tây
sang Đông, chia thành 3 vùng chủ yếu: vùng gò đồi và núi (59%); vùng đồng bằng
(30%); vùng cồn cát, bãi cát ven biển (11%).
Vùng gò đồi và núi: Phân bố ở khu vực phía Tây của huyện thuộc địa bàn chủ
yếu các xã Hải Phú, Hải Lâm, Hải Trường, Hải Sơn, Hải Chánh. Mô tả về núi sông
hai huyện Đăng Xương và Hải Lăng sách Đồng Khánh địa dư chí chép: “Hai huyện
có nhiều núi, nhưng không có núi nào lớn” [56, tr.1388].
Vùng đồng bằng: Nằm giữa vùng gò đồi, cồn cát và bãi cát, bao gồm địa bàn
các xã Hải Quy, Hải Xuân, Hải Vĩnh, Hải Thiện, Hải Thành, Hải Tân, Hải Hòa, thị
trấn Hải Lăng và một phần các xã Hải Phú, Hải Thượng, Hải Lâm, Hải Thọ, Hải
Trường, Hải Sơn, Hải Chánh, Hải Dương, Hải Quế, Hải Ba.

12


Vùng cồn cát, bãi cát ven biển: Nằm giữa đồng bằng và Biển Đông, thuộc các
xã Hải An, Hải Khê và một phần các xã Hải Dương, Hải Quế, Hải Ba, độ cao trung
bình 6 - 7m. Đất đai chủ yếu là cồn cát và bãi cát.
Sông ngòi: Hải Lăng có mạng lưới sông ngòi dày đặc, phân bố đều khắp trong
huyện. Do phụ thuộc địa hình tự nhiên nên hầu hết các sông suối có đặc điểm là
ngắn, hẹp và dốc. Mùa khô nước xuống thấp, mùa mưa nước dâng nhanh.

Trên địa bàn huyện có các con sông chính đó là: Sông Thạch Hãn, sông Vĩnh
Định, sông Ô Lâu, sông Ô Giang, sông Lương Điền, sông Nhùng, sông Bến Đá (1-7).
Trong đó, sông Thạch Hãn và Vĩnh Định được sách Đại Nam nhất thống chí đánh
giá là hai đại xuyên lớn của Quảng Trị, vua Minh Mạng (1836) cho khắc hình tượng
trên Thuần Đỉnh.
Các con sông này có ý nghĩa rất lớn trong việc cung cấp nước tưới và tiêu úng
về mùa lũ, điều hòa lượng nước trong khu vực, cung cấp một lượng lớn phù sa để
tạo ra những cánh đồng màu mỡ, làm cho Hải Lăng trở thành vựa lúa lớn của tỉnh
đồng thời sự phân bổ đều các dòng sông theo hướng Tây Nam - Đông Bắc (Sông:
Thạch Hãn, Nhùng, Bến Đá, Thác Ma, Ô Lâu) và hướng Tây Bắc - Đông Nam
(sông Vĩnh Định) đã tạo thành mạng lưới giao thông thủy liên hoàn với hệ thống
bến đò dọc, đò ngang đưa người và hàng hóa giao lưu giữa các vùng trong huyện,
trong tỉnh, ngoài tỉnh cũng như xây dựng các công trình tưới tiêu, đảm bảo nguồn
nước sinh hoạt, các hoạt động sản xuất khác, đời sống văn hóa. Đây cũng là một
trong những nhân tố quan trọng góp phần vào công cuộc khai khẩn đất đai, định cư
của các làng xã ở Hải Lăng.
Ngoài hệ thống sông trên, trên địa bàn huyện còn có một số hồ, phá quan
trọng, phục vụ phát triển sản xuất và đời sống dân sinh như: Đập Trấm, Khe Chanh,
Miếu Bà, Thác Heo, Khe Rò, Phú Long, Khe Khế…
Phá Hải Lăng: Ở xã Diên Sanh, huyện Hải Lăng. Phía Đông ôm lấy
kênh dài. Phía Tây liền với đồi núi, lại có đền Thủy Tộc sừng sững ở
phía Nam, tòa tháp Trung Đan cao vòi vọi bên mặt Tây Bắc. Cá tôm
nhung nhúc là nguồn lợi của cư dân… [2, tr.25].

13


Khí hậu
Bốn mùa thường ấm, tháng giêng, tháng 2 khí trời hòa ấm; tháng 3 khí
trời nóng dần, tháng 4 tiết tiểu mãn, thỉnh thoảng cũng có lụt; tháng 5,

tháng 6 và tháng 7 gió Nam thổi mạnh; tháng 8, tháng 9 khí trời mát
dần, thường có mưa lũ; tháng 10 trong những ngày mồng 3, 13 và 23
thường bị lụt... Trong một năm nửa mùa thu sang mùa đông thường mưa
nhiều, nửa mùa xuân về sau thường nắng nhiều, từ tháng trọng đông
(tháng 11) trở về sau, khí rét nhưng không giá buốt, cây cối không rụng
lá, khí trời đã ấm; tháng 12 sấm bắt đầu dậy [48, tr.110].
Đây là vùng đất được xếp vào một trong những nơi khí hậu khắc nghiệt, là nơi
giao hoà của nhiều đặc điểm khí hậu hai miền Nam Bắc. Nằm ở vĩ độ thấp nên mùa
đông ở đây ngắn và rét ít; mùa hạ chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam (gió Lào)
và khô nắng kéo dài, dễ gây hạn hán. Các tháng mùa hè nhiệt độ trung bình 300C
nóng nhất là các tháng 6, 7, 8 có khi nhiệt độ lên đến 39 - 400C độ. Các tháng mùa
đông nhiệt độ trung bình 250C, tháng thấp nhất 180C, có khi xuống tới 12 - 130C.
Lượng mưa không ổn định tính cả năm khoảng 2500 - 2700mm, bão lụt cũng
thường xảy ra trong thời gian này, đôi khi có gió lốc.
Sự cách trở về địa lý, sự ảnh hưởng của khí hậu đã làm cho đời sống sản xuất
của nhân dân gặp nhiều khó khăn, muốn có được miếng cơm manh áo đòi hỏi người
dân Hải Lăng phải cần cù chịu khó một nắng hai sương, phải đoàn kết để vượt qua
mọi trở ngại xây dựng đời sống ấm no.
Đất đai và các loại lâm, thổ, thủy, hải sản
Về đất đai: Toàn huyện có 11 nhóm đất, gồm 15 loại đất như: Nhóm đất cồn
cát ven biển: thích hợp trồng rừng phòng hộ, hoa màu; nhóm đất phù sa được bồi và
phù sa ngòi, suối: thích hợp trồng màu và cây công nghiệp ngắn ngày, trồng lúa;
nhóm phù sa không được bồi: thích hợp cho trồng màu và cây công nghiệp ngắn
ngày; đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng và đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa
nước: thành phần cơ giới thịt nhẹ, độ phì nhiêu trung bình có thể trồng lúa, màu và
cây công nghiệp ngắn ngày; nhóm đất phù sa glây, thung lũng dốc tụ, đất lầy: dùng
để trồng lúa nước và nuôi trồng thủy sản; nhóm đất than bùn; nhóm đất xám bạc
màu, đất nâu vàng trên phù sa cổ… [112].

14



Đất đai được chia nhiều loại theo kết cấu của điạ hình như trên tạo nên nhiều
loại lâm, thổ, thủy hải sản. Đất vùng gò đồi và núi thì thích hợp chăn nuôi, trồng
hoa màu và các loại cây đặc sản như: Hồ tiêu, mít, chè, lúa nếp…
Ở vùng đồng bằng: Sự đa dạng các loại đất (11 loại) là điều kiện thuận lợi để
phát triển sản xuất nông nghiệp. Đất phù sa được các con sông bồi đắp rất thích hợp
trồng lúa nếp, lúa tẻ năng suất cao. Phù sa cũng làm cho xóm làng có những vườn
tược xanh tươi với đủ loại rau quả. Các loại đất bãi ven sông thường dùng trồng
dâu, trồng bông và các loại hoa màu như khoai, sắn, ớt, đậu, bắp, mía, rau xanh.
Về lâm sản: Hải Lăng có nhiều lâm sản quý như gỗ lim, kiền kiền, gõ, thông,
tốc hương, các loại mây, tre, nứa, cây dược liệu và các loài thú quý hiếm như voi,
hổ, hươu, nai, công, chim trĩ. Trong Hoàng Việt địa dư chí, Phan Huy Chú đã mô tả
các loại gỗ quý ở phủ Triệu Châu (Triệu Phong) trong đó có Hải Lăng như sau:
Trên rừng có nhiều gỗ quý, có thứ sắc vàng rất bền chắc, có thể đóng
thuyền được vì khi thả xuống nước nó lại nổi, gọi là gỗ kiền kiền, thân nó
cao thẳng mà rắn, thớ gỗ lại nhẵn, chịu mưa gió được lâu, làm trụ chôn
xuống đất có khi cả trăm năm không mục. Lại có thứ gỗ gọi là hoa lê,
cành lá sum suê, chất gỗ cũng như kiền kiền vậy,… [19, tr.7].
Về thủy, hải sản: Hệ thống sông ngòi, hồ, đầm phá và nhất là Hải Lăng có bờ
biển dài 13.5 km dọc theo hai xã Hải An và Hải Khê, ngư trường đánh bắt rộng,
không bị giới hạn trong phạm vi lãnh thổ của địa phương đã cung cấp nguồn thủy
hải sản phong phú như: Các loại tôm, cua, cá sông, lươn, cá Hồng, cá Mú, cá Thu,
cá Ngừ, mực Ống, mực Nang, ốc các loại và nhiều loại đặc sản quý khác.
Khoáng sản: Tài nguyên khoáng sản của Hải Lăng phần lớn thuộc nhóm
không kim loại, chủ yếu các loại khoáng sản như: Than bùn trữ lượng không lớn
nhưng nhiệt lượng có thể đạt tới 3.500 kcal/kg, chất lượng tương đối tốt có thể dùng
làm chất đốt và sản xuất phân vi sinh và được phân bố trên địa bàn các xã Hải Thọ,
Hải Vĩnh, Hải Thượng, Hải Thiện; đất sét phân bố dọc hai bên bờ sông Nhùng, mỏ
sét lớn nhất là ở Hải Thượng được dùng để sản xuất gạch, ngói. Ngoài ra, còn có

một số khoáng sản khác như: Cuội, sỏi, cát xây dựng, phân bố tại các con sông rải
rác ở nhiều nơi trong huyện, trong đó tập trung nhiều ở dọc theo các con sông lớn.

15


Như vậy, với địa hình có đầy đủ các dạng: Núi đồi, sông ngòi, đầm phá, biển
cả đã tạo cho Hải Lăng một hệ sinh thái động thực vật phong phú với các loại lâm,
thổ, thủy, hải sản. Góp phần vào sự phát triển kinh tế nông nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, thương nghiệp, ngư nghiệp.
1.2. Vùng đất Hải Lăng trước thế kỷ XIV
1.2.1. Dấu vết con người thời tiền và sơ sử trên đất Hải Lăng
Từ buổi nguyên sơ, dấu vết con người thời tiền và sơ sử đã xuất hiện ở Quảng
Trị trong đó có Hải Lăng.
Trong hai mùa điền dã năm 1993 - 1994 của Trung tâm Văn hóa Việt Nam và
Bảo tàng Quảng Trị, các nhà Khảo cổ học đã tìm thấy những công cụ đồ đá cũ
thuộc nền Văn hóa Sơn Vi ở Cùa, Carol, Cồn Cỏ và đồ đá giữa thuộc nền Văn hóa
Hòa Bình, Bắc Sơn ở Lao Bảo, Khe Sanh, Tân Lâm. Việc tìm thấy các di tích hậu
kỳ đồ đá cũ ở Quảng Trị phân bố ở vùng miền núi lẫn hải đảo gần bờ là một thành
tựu lớn của khảo cổ học Việt Nam. Là minh chứng khá thuyết phục về sự tồn tại
người nguyên thủy trên đất Quảng Trị.
Những viên đá cuội gia công có dấu vết tham gia của con người vốn là
công cụ chặt vô định hình, hình múi bưởi, những tropper được ghè đẽo
ở một đầu hay một hoặc hai rìa cạnh; những mũi nhọn, bàn nghiền,
chày nghiền, những vỏ ốc núi, ốc suối đã chặt đít… đã viết nên trang sử
vùng đất Quảng Trị thời kỳ cách ngày nay 1 vạn rưỡi đến 3 vạn năm
[68, tr.16].
Ở Hải Lăng những dấu tích thời đá cũ chưa được tìm thấy nhưng những dấu
tích của con người nguyên thủy thời hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim khí đã được phát
hiện rải rác ở Hải Thiện, Hải Vĩnh, Hải Xuân, Hải Thọ, Hải Trường, Hải Lâm, Hải

Quy như:
a. Địa điểm Cồn Chùa (Câu Hoan - Hải Thiện): Năm 1992 các nhà nghiên cứu
cùng nhân dân địa phương đã phát hiện và thu lượm được nhiều mảnh gốm thô, bở,
năm 1993 tiến hành khảo sát lại và cho thấy trên bề mặt các ngôi mộ ở cồn cát ven
bàu có rất nhiều mảnh gốm cổ bao gồm:
Gốm rất thô: Xương pha nhiều cát và bã thực vật, độ nung thấp, lớp áo gốm có
màu đỏ sẫm hay vàng xám và đã bị bong nhiều. Hầu hết là những mảnh gốm vỡ vụn

16


nên khó xác định loại hình. Tuy nhiên, trong đó có một số mảnh vỡ ở miệng cho thấy
chúng thuộc kiểu miệng mép vê tròn và loe ra ngoài, thành miệng uốn cong đều.
Gốm hơi thô: Thường có màu đỏ gạch, xương gốm được lọc kỹ hơn có pha
một ít cát và bã thực vật, độ nung vừa phải.
Gốm mịn: Xương màu đỏ, độ nung khá cao. Thỉnh thoảng người dân còn nhặt
được những chiếc rìu đá mài có vai và họ cho đó là những lưỡi “Tầm sét”.
Trên cơ sở những dấu hiệu này, “các nhà nghiên cứu cho đây là điểm văn hóa
Sa Huỳnh muộn, có niên đại cách ngày nay khoảng 4000 đến 5000 năm” [22, tr.76].
b. Địa điểm Thuận Đức (Hải Vĩnh): Người dân nhặt được nhiều rìu đá, bôn đá
nhưng do chưa hiểu hết giá trị của nó nên họ để thất lạc, hiện còn giữ 5 chiếc:
Chiếc thứ nhất thuộc rìu có vai, toàn thân được mài nhẵn, rìu dài 4.9cm, lưỡi
rộng 4.3cm, chuôi dài 2cm, thân dày 1.1cm.
Chiếc thứ hai thuộc rìu có vai, rìu dài 5.4cm, lưỡi rộng 3.5cm, thân dày 1.1cm,
rìu được chế tác từ loại đá silic có vẩy sét, màu xám xanh. Toàn thân được mài
nhưng chưa xóa hết vết ghè đẽo.
Chiếc thứ ba là bôn “hình răng trâu” có vai, lưng cong khum, lưỡi mài vát từ
bụng ra lưng tạo thành rìa sắc. Bôn dài 8.4cm, lưỡi rộng 4.3cm, dày 1.4cm.
Chiếc thứ tư là bôn tứ giác bằng loại đá cứng hạt thô. Bôn được mài toàn thân
song vẫn còn một vài vết ghè đẽo nhỏ. Kích thước khá lớn thân dài 9.5cm, lưỡi rộng

4.7cm, thân dày 1.7cm.
Chiếc thứ năm thuộc loại rìu có vai xuôi. Thân dài 7.9cm, lưỡi rộng 4.2cm,
dày 1.7cm [59, tr.281].
c. Địa điểm Động Cát Tiên (Trà Lộc - Hải Xuân) nhân dân nhặt được 2 chiếc
rìu đá có vai hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Quảng Trị có ký hiệu QT 622/Đ 2972.
Chiếc thứ nhất là chiếc rìu có vai xuôi, được chế tác từ đá silic màu xám
trắng, lưng cong khum. Thân rìu dài 2.6cm, thân rộng 3.7cm, lưỡi rộng 4cm, dài
chuôi tới eo 2cm, rộng chuôi 1.5cm. Rìu được mài toàn thân, nhưng vẫn chưa
xóa hết vết ghè đẽo.
Chiếc thứ hai là rìu tứ giác có vai xuôi, được chế tác từ đá silic, lưng cong
khum. Chiều dài phần thân và chuôi 7cm, lưỡi rộng 4.2cm, chuôi rộng 2.3cm. Rìu
được mài nhưng vẫn chưa xóa hết vết ghè đẽo.

17


Ngoài ra, trong đợt khảo sát tháng 3/1992, Đoàn nghiên cứu đã phát hiện ở
đây 2 hiện vật:
Chiếc rìu tứ giác được làm bằng đá cứng, hạt mịn có màu trắng đục. Rìu dài
8.1cm, rộng lưỡi 5cm, rộng đốc 2.7cm, dày 1.8cm. Toàn thân được mài nhẵn, hai
bên rìu vẫn có những vết ghè. Rìu đã bị sứt mẻ đôi chỗ ở trên thân, đốc và lưỡi, hai
bên rìa và đốc bị bào mòn khá nhiều.
Chiếc bôn có hai vai xuôi không đều nhau được làm bằng đá cứng hạt mịn,
màu trắng. Bôn dài 7.6cm, rộng chuôi 2.2cm, rộng eo 2.6cm, rộng vai 4.2cm, rộng
lưỡi 4.9cm, dài chuôi 2.5cm, dày 1.4cm, góc vai 1500, góc lưỡi 370. Bôn bị sứt mẻ
khá nhiều, lưỡi bị mài mòn.
Bên cạnh Động Cát Tiên tại xóm Trại thôn Trà Lộc các em nhỏ chăn trâu cũng
nhặt được 2 chiếc bôn đá:
Chiếc thứ nhất là bôn có vai, toàn thân dài 10cm, lưỡi rộng 4.7cm, thân dày
1.3cm, lưng cong trông gần giống như một lưỡi cuốc nhỏ.

Chiếc thứ hai thuộc bôn có vai, thân dài 6.3cm, lưỡi rộng 5cm, thân dày
1.5cm, được chế tác từ loại đá silic màu xám xanh [59, tr.281].
d. Tại thôn 4 (Hải Thọ): Ông Nguyễn Thuần trong khi cuốc đất trồng hoa màu
ở một doi cát gần nhà đã nhặt được một chiếc rìu tứ giác dài 8.3cm, lưỡi rộng
5.3cm, chuôi dài 2.9cm.
Những chiếc rìu đá, bôn đá có vai hoặc tứ giác được mài cẩn thận, kích thước
tương đối nhỏ, chế tác từ các loại đá cứng và đồ gốm phân bố rải rác trên vùng đồng
bằng Hải Lăng, bên cạnh các con sông, cồn cát, bàu ruộng đã chứng tỏ cư dân
nguyên thủy ở đây sống chủ yếu bằng nông nghiệp kết hợp với đánh bắt cá ven
sông. Có thể nói rằng, điều kiện khí hậu, đất đai, sông ngòi ở vùng đồng bằng đã tạo
nên một sự hấp dẫn kỳ lạ đối với cư dân nguyên thủy, khiến cho họ có sự quần cư
ngày càng rộng khắp và đông đúc không chỉ ở Hải Lăng mà trên toàn vùng đồng
bằng ven biển.
Tiếp đến là những công cụ bằng đồng của thời đại kim khí được tìm thấy ở
Hải Lệ có niên đại khoảng 2000 - 3000 năm BP, di chỉ Cồn Om (Thượng Xá - Hải
Thượng) (V - VIII TCN). Đặc biệt là việc phát hiện ra Trống đồng Heger I ở Trà

18


Lộc năm 1998, do ông Hoàng Công Sơn (Diên Khánh - Hải Dương) trong quá trình
đào đất tìm phế liệu ở khu vực Rú Cát, xóm Phường, làng Trà Lộc tìm thấy. Hiện
được cất giữ ở Bảo tàng Quảng Trị mang số kiểm kê 1464/KL483. Trống được các
nhà khoa học xác định có niên đại cách ngày nay khoảng 2500 năm (8).
Mặc dù, không phải là trung tâm của văn hóa Đông Sơn nhưng sự hiện diện
của Trống đồng Đông Sơn thuộc loại Heger I được tìm thấy ở Trà Lộc (Hải Lăng)
và An Khê (Gio Linh) rất quý hiếm tại vùng đất này đã nói lên sự lan tỏa của văn
hóa Đông Sơn trên vùng đất Quảng Trị nói chung và Hải Lăng nói riêng [111].
Những phát hiện trên của Khảo cổ học ở vùng đất Hải Lăng dù chưa thể nói là
đầy đủ, chưa phải là điểm dừng càng không phải là những kết luận cuối cùng nhưng

những gì đã có chúng ta có thể khẳng định rằng dấu vết con người nguyên thủy đã
xuất hiện nơi đây ít nhất là thời hậu kì đá mới.
1.2.2. Dấu tích văn hóa Chămpa ở Hải Lăng
Năm 111 trước Công nguyên, nhà Hán thay thế họ Triệu xâm lược và cai trị
nước Âu Lạc. Ngoài hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân, nhà Hán lập thêm quận Nhật
Nam. Quận Nhật Nam là mảnh đất từ Hoành Sơn vào đến Quảng Nam. Chia thành
5 huyện: Tây Quyển, Chu Ngô, Tỷ Cảnh, Lô Dung và Tượng Lâm. Đến đời Đông
Hán, năm 192 một lãnh tụ nhân dân bộ lạc Dừa (Khu Liên) ở phía Bắc đã lãnh đạo
nhân dân lật đổ ách đô hộ nhà Hán, thành lập tiểu quốc Lâm Ấp. Đến thế kỷ IV, hai
tiểu quốc Lâm Ấp và Panduranga đã hợp nhất, hình thành vương quốc Chămpa. Lợi
dụng sự suy yếu của chính quyền phong kiến Trung Quốc đô hộ, các thế lực của
Chămpa mở rộng địa bàn bàn ra tận Hoành Sơn. Toàn bộ đất Hải Lăng lúc ấy thuộc
vương quốc Chămpa cho đến đầu thế kỷ XIV. Chính vì lẽ đó, Hải Lăng mang trong
mình nhiều dấu tích văn hóa Chămpa.
Qua nhiều cuộc khai quật, tìm hiểu, nghiên cứu đã phát hiện được nhiều dấu
tích liên quan đến kiến trúc đền tháp Chăm (Câu Hoan, Trung Đơn, Trà Lộc), các
tác phẩm điêu khắc Chăm, thủy lợi cổ (Trà Lộc), chiếc vò dạng đất nung, dạng
sành, dạng bán sứ. Những chiếc vò được chôn theo cụm từ 3 - 5 chiếc, bên trong có
dấu tích than tro và các đồ tùy táng như công cụ bằng kim loại, đồ gốm thô… đã thể
hiện sự tiến bộ trong đời sống văn hóa của cư dân Chăm cổ tại vùng đất Hải Lăng.

19


Thỉnh thoảng người dân còn tìm thấy ở gần các khu tháp Chăm xưa nhiều đồ bán sứ
Trung Hoa (Quảng Đông) dưới các thế kỷ VII - IX - XI như gốm sứ Hán, Lục triều,
Đường… đây là những bằng chứng về sự định cư lâu dài, liên tục của các tầng lớp
cư dân dọc dải cồn cát trong (Tiểu trường sa) nói chung Hải Lăng nói riêng.
Điều này cũng góp phần minh chứng rằng: Ngay từ giai đoạn sớm ở khu vực
này, cư dân Chămpa cổ đã chủ động hướng mình ra biển và chủ động giao lưu tiếp

xúc bên ngoài, cụ thể là với người Hoa qua cảng Mỹ Thủy, đặc biệt là cảng Cửa
Việt (Triệu Phong).
Trải qua thời gian cùng với sự biến động mạnh mẽ của điều kiện tự nhiên, xã
hội nên các đền tháp hiện nay chỉ còn tồn lưu dưới dạng phế tích nhưng những di
vật còn lại như: Tượng Siva ở Trâm Lý thuộc phong cách E1 (VIII), bộ tượng mang
phong cách Đồng Dương (IX) ở chùa Diên Thọ, phù điêu thủy quái Makara (XI) ở
Trung Đơn, Yoni khoét thủng, Linga, các di vật mộ táng, mộ vò ở Văn Trị cũng đủ
phản ánh nhiều khía cạnh lịch sử, văn hóa, nghệ thuật.
Qua những tư liệu được mô tả trong Ô châu cận lục, Phủ biên tạp lục; các nhà
khảo cổ học người Pháp như Henri Parmentier, Madeleine Colani, linh mục
Léopold Michel Cadière đầu thế kỷ XX và gần đây nhất là một số cán bộ Trường
Đại học Khoa học Huế đã phần nào khôi phục lại bức tranh về ba tòa tháp Chăm
từng tồn tại trên đất Hải Lăng đó là:
Khu đền tháp Chăm Câu Hoan: Có niên đại vào giữa thế kỷ IX (thuộc phong
cách nghệ thuật Hòa Lai muộn, Đồng Dương sớm) - được xem là 1 trong 4 cụm
tháp (Dương Lệ, Hà Trung, An Xá, Câu Hoan) tương đối lớn của vùng châu Ô xưa.
Khu đền này nằm trên một đồi cát có tên gọi là Cồn Chùa, phía Bắc làng Câu Hoan
(Hải Thiện). Những di vật ngày nay còn thấy được là: cạnh ngôi chùa Đồng Lâm ở
góc Đông Bắc có một ngôi miếu Bà Giàng được xây dựng bằng gạch, vôi mang
phong cách người Việt vào thế kỷ XVI - XVIII. Bên trong thờ một Linga, một bệ đá
và một phiến đá có hình mặt người nhô ra trên bề mặt. Linga bằng đá sa thạch, cao
0.9m, ngang thân 0.4m, có ba phần: đế vuông, giữa có hình bát giác, đầu hình chỏm
cầu, được tạo dáng đẹp, còn nguyên vẹn. Phiến đá dẹt, trên đầu có dáng hình trụ,
cao 0.53m, rộng 0.48m, gắn liền với bệ, bề mặt có hình mặt người nhô hẳn ra phía

20


ngoài mà một nửa thân trên bị sứt vỡ nên đã được đắp lại bằng vôi. Hình tượng này
là thuộc một pho tượng bán phù điêu, miệng rộng, môi dày, cổ đeo chuỗi hạt, thùy

tai dài đeo một hoa tai hình rắn 3 đầu. Bệ đá được trang trí bằng họa tiết dây leo
cuốn hình. Bên cạnh miếu Bà Giàng còn có một Yoni đã vỡ đôi nhưng còn thấy rõ
một cạnh vuông dài 0.95m, dày 0.2m, dài vòi 0.3m, rãnh sâu 2.5cm. Ở giữa gắn một
Linga khoét thủng tạo ra một ô vuông có cạnh 0.5m [68, tr.181-182].
Khu đền tháp chăm Trung Đơn (Hải Thành): Được ghi chép trong Ô châu cận
lục ngoài câu chuyện về việc thi xây tháp với dân làng Dương Lệ còn được mô tả
khá tường tận: “Tháp Trung Đan ở xã Trung Đan huyện Vũ Xương. Phía Tây là đồi
núi khuất khúc, phía Nam có đầm phá mênh mông, phía Đông là sông nước bao
bọc. Tháp cao khoảng trăm thước. Khách trèo lên tham quan có cảm giác được bay
bổng chín tầng mây, mắt thu hết nghìn dặm. Đây quả là nơi danh thắng của huyện
Vũ Xương” [2, tr.92]. Sách Phủ biên tạp lục cũng chép rằng: “Tháp Trung Đan ở
xã Trung Đan, huyện Võ Xương, cao đến 100 thước” [24, tr.130].
Mấy dòng tư liệu trên cho thấy vào giữa thế kỷ XVI khi vùng đất của Hải
Lăng đã thuộc về người Việt thì ngôi tháp Chăm Trung Đơn vẫn còn tồn tại gần như
nguyên vẹn. Đến đầu thế kỷ XX, khi khảo sát tại khu vực đền tháp Trung Đơn
L.Cadière chỉ còn thấy “những vết tích đổ nát của tháp được xác định ở cuối làng,
về phía Tây trong một bụi rậm gọi là Lùm Tháp… Đống gạch có đường kính 40m,
cao 4m” [68, tr.189]. Hiện tại, trên nền khu đất của tháp Trung Đơn xưa chỉ còn
một gò đất ken dày, ngói vỡ có diện tích 8000m2. Tại trung tâm gò đất, nhiều chỗ
vết tích nền móng vẫn còn. Những viên gạch có độ nung không cao, màu vàng nhạt,
kích cỡ 22x16x4cm. Sau khi ngôi tháp bị đổ, người dân lập lên xung quanh đó
những ngôi miếu để thờ những hiện vật đá rơi vãi và thần hóa các tượng này. Có 3
ngôi miếu là miếu Ông Voi, Ông Hổ, Đá Thần. Ở miếu Ông Voi có một bức phù
điêu thủy quái Makara. Thông qua việc thẩm định phong cách nghệ thuật của phù
điêu Makara, có thể quần thể kiến trúc này thuộc giai đoạn Trà Kiệu (XI). Đây là
một ngôi đền tháp xây dựng khá muộn trên đất Quảng Trị khi mà châu Ma Linh
(Bắc Quảng Trị) đã thuộc về người Việt.

21



×