Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Sự thay đổi địa danh và địa giới hành chính tỉnh quảng ngãi từ năm 1945 đến 2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 114 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
-----***-----

NGUYỄN ĐỨC QUANG

SỰ THAY ĐỔI ĐỊA DANH VÀ ĐỊA GIỚI
HÀNH CHÍNH TỈNH QUẢNG NGÃI
TỪ NĂM 1945 ĐẾN 2000

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60 22 03 13

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRƯƠNG CÔNG HUỲNH KỲ

HUẾ, NĂM 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài..........................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề......................................................................3
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................... 5
4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................6
5. Nguồn tư liệu chính...............................................................................6
6. Đóng góp của luận văn...........................................................................6
7. Kết cấu của luận văn.............................................................................7
Chương 1: SỰ THAY ĐỔI ĐỊA DANH VÀ ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH


TỈNH QUẢNG NGÃI THỜI KỲ 1945 - 1954.............................................. 8
1.1. Nguyên nhân và ý nghĩa của việc thay đổi địa danh, địa giới hành
chính. ........................................................................................................8
1.1.1. Nguyên nhân...............................................................................8
1.1.2. Ý nghĩa.......................................................................................10
1.2. Khái quát địa danh, địa giới hành chính trước tháng 9 - 1945..........10
1.2.1. Địa lí tự nhiên...........................................................................10
1.2.2.Cư dân Quảng Ngãi.....................................................................13
1.2.3. Địa danh và địa giới hành chính tỉnh Quảng Ngãi trước tháng 9 1945.........................................................................................................16
1.3. Bối cảnh lịch sử tỉnh Quảng Ngãi thời kỳ 1945 - 1954........................26
1.3.1. Từ sau Cách mạng tháng Tám đến trước ngày toàn quốc kháng
chiến (19-8-1945 đến 19-12-1946)..............................................................26
1.3.2. Từ ngày toàn quốc kháng chiến đến Hiệp định Genève (19-12-1946
đến 7-1954)...............................................................................................28
1.4. Quá trình thay đổi địa danh và địa giới hành chính tỉnh Quảng Ngãi
thời kỳ 1945 - 1954...................................................................................33
1.4.1. Sự chia đặt điều chỉnh các đơn vị hành chính của Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.............................................................................33

1


1.4.2. Sự chia đặt, điều chỉnh các đơn vị hành chính của chính quyền tay
sai Pháp....................................................................................................44
1.4.3. Địa danh và địa giới hành chính tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 1945 1954 theo thành phố, quận, huyện, xã........................................................45
Chương 2: SỰ THAY ĐỔI ĐỊA DANH VÀ ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH
TỈNH QUẢNG NGÃI THỜI KỲ 1954 - 1975...........................................48
2.1. Nguyên nhân và ý nghĩa của việc thay đổi địa danh, địa giới hành
chính.......................................................................................................48
2.1.1. Nguyên nhân.............................................................................48

2.1.2. Ý nghĩa.....................................................................................50
2.2. Bối cảnh lịch sử tỉnh Quảng Ngãi thời kỳ 1954 - 1975...................51
2.3.Quá trình thay đổi địa danh và địa giới hành chính tỉnh Quảng Ngãi
thời kỳ 1954 - 1975..................................................................................59
2.3.1. Sự chia đặt, điều chỉnh các đơn vị hành chính của Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa...........................................................................59
2.3.2. Sự chia đặt, điều chỉnh các đơn vị hành chính của Chính phủ Việt
Nam Cộng hòa.........................................................................................60
2.3.3. Địa danh và địa giới hành chính tỉnh Quảng Ngãi thời kỳ 1954 1975 theo thành phố, quận, huyện, xã.......................................................63
Chương 3: SỰ THAY ĐỔI ĐỊA DANH VÀ ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH
TỈNH QUẢNG NGÃI THỜI KỲ 1975 - 2000..............................................67
3.1. Nguyên nhân và ý nghĩa của việc thay đổi địa danh, địa giới hành
chính.......................................................................................................67
3.1.1. Nguyên nhân.............................................................................67
3.1.2. Ý nghĩa.....................................................................................68
3.2. Bối cảnh lịch sử tỉnh Quảng Ngãi thời kỳ 1975 - 2000...................69
3.3 .Quá trình thay đổi địa danh và địa giới hành chính tỉnh Quảng
Ngãi thời kỳ 1975 - 2000..........................................................................73
3.3.1. Sự chia đặt, điều chỉnh các đơn vị hành chính tỉnh Quảng Ngãi thời
kỳ 1975 - 2000..........................................................................................73
2


3.3.2. Địa danh và địa giới hành chính tỉnh Quảng Ngãi thời kỳ 1975 2000 theo thành phố, quận, huyện, xã.......................................................95
KẾT LUẬN...................................................................................................101
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................104
PHỤ LỤC......................................................................................................110

3



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Cũng như các địa phương khác trong cả nước, do tác động của các yếu
tố chính trị, kinh tế, xã hội ở Quảng Ngãi cơ cấu hành chính trải qua nhiều giai
đoạn khác nhau có những thay đổi khác nhau. Từ sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945 đến nay, cùng với những thay đổi về chính trị - kinh tế - xã hội, thì
sự thay đổi về địa lý hành chính cũng diễn ra rất phức tạp. Việc điều chỉnh địa
giới hành chính từ xã đến huyện đến tỉnh diễn ra liên tục. Làm cho tên của các
đơn vị hành chính cũng thay đổi nhiều lần. Nhưng cho đến nay chưa có công
trình nào nghiên cứu vấn đề này một cách đầy đủ và hệ thống.Chính điều đó
đem lại khó khăn, lúng túng nhất định cho các nhà nghiên cứu trong quá trình
viết lịch sử địa phương, biên soạn địa chí văn hóa và hành chính của tỉnh
Quảng Ngãi.
Quảng Ngãi là một tỉnh thuộc Duyên hải Nam Trung Bộ, cách thủ đô
Hà Nội 883 km về phía Nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 838 km về phía
Bắc, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam với đường ranh giới chung 60km, phía
Tây giáp các tỉnh Gia Lai, Kon Tum trên chiều dài 142km dựa lưng vào dãy
Trường Sơn, phía Nam giáp tỉnh Bình Định với chiều dài 70km, phía Đông
giáp Biển Đông với chiều dài 130km.
Tỉnh Quảng Ngãi có diện tích tự nhiên 5.153,0km2, bằng 1,7% diện tích
tự nhiên cả nước. Địa hình tương đối phức tạp, thấp dần từ Tây sang Đông với
các dạng địa hình đồi núi, đồng bằng ven biển, phía Tây của tỉnh là sườn Đông
của dãy Trường Sơn, tiếp đến là địa hình núi thấp và đồi xen kẽ đồng bằng, có
nơi núi chạy sát biển.
Quảng Ngãi là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung; có
tuyến quốc lộ 1A và đường sắt Bắc -Nam chạy qua tỉnh. Phía Bắc tỉnh, tại
huyện Bình Sơn có khu kinh tế Dung Quất - tại đây có cảng nước sâu Dung
Quất, khu công nghiệp lọc hoá dầu và một số khu công nghiệp khác.


4


Hiện nay tỉnh Quảng Ngãi có 1 thành phố Quảng Ngãi trực thuộc tỉnh
(thành phố Quảng Ngãi) và 14 huyện được chia làm 180 đơn vị hành chính (
gồm 162 xã, 8 phường và 10 thị trấn) với số dân 1.221.600 người (2011).
Quảng Ngãi là vùng đất có nhiều biến động lịch sử, đặt biệt là cơ cấu
hành chính trải qua nhiều giai đoạn khác nhau có những thay đổi khác nhau:
Nhất là từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, cùng với những thay
đổi về chính trị - kinh tế - xã hội, thì sự thay đổi về địa lý hành chính cũng
diễn ra rất phức tạp. Chính vì vậy việc điều chỉnh địa giới hành chính từ xã
đến huyện đến tỉnh diễn ra lên tục. Làm cho tên riêng của các đơn vị hành
chính cũng thay đổi nhiều lần. Nhưng cho đến nay chưa có công trình nào
nghiên cứu vấn đề này một cách đầy đủ và hệ thống.
Chính điều đó đem lại khó khăn, lúng túng nhất định cho các nhà
nghiên cứu trong quá trình viết lịch sử địa phương, biên soạn địa chí văn hóa
và hành chính của tỉnh nhà.
Là người dân đất Quảng đang sống và giảng dạy trên địa bàn, tôi nhận
thấy việc nghiên cứu những thay đổi địa danh, địa giới hành chính ở tỉnh
Quảng Ngãi có ý nghĩa thiết thực nhằm phục vụ công tác giảng dạy lịch sử địa
phương ở trường phổ thông qua các thời kỳ lịch sử.
Xuất phát từ những lý do trên tôi mạnh dạn chọn đề tài "Sự thay đổi địa
danh và địa giớihành chính tỉnh Quảng Ngãi thời kỳ 1945 - 2000" làm đề tài
luận văn Thạc sĩ chuyên ngành lịch sử Việt Nam.
Thực hiện đề tài này có ý nghĩa khoa học và thực tiễn trên nhiều mặt:
* Về ý nghĩa khoa học:
Việc tìm hiểu quá trình thay đổi địa danh và địa giới hành chính ở tỉnh
Quảng Ngãi trong lịch sử có thể giúp chúng ta định vị được một vùng địa lý
hành chính, kinh tế, văn hóa, xã hội quân sự cũ so với ngày nay. Trên cơ sở đó
góp phần tìm hiểu thêm căn cứ khoa học cho việc phân định địa giới hành

chính đang là vấn đề cấp thiết hiện nay. Đồng thời qua đó góp thêm cơ sở
khoa học cho việc thực hiện cải cách hành chính ở tỉnh Quảng Ngãi.

5


* Về ý nghĩa thực tiễn:
Đề tài nhằm góp phần xác định đúng địa danh và địa giới hành chính ở
tỉnh Quảng Ngãi trong lịch sử, từ đó giúp cho các nhà khoa học có thêm tài
liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, biên soạn sách địa chí văn hóa, lịch sử
địa phương.
Đề tài còn góp phần lí giải nguyên nhân của những thay đổi và phân
chia địa giới hành chính tại Quảng Ngãi. Từ đó giúp cho các nhà hoạch định
chính sách có cơ sở đề ra đề ra những chính sách kinh tế - xã hội phù hợp phục
vụ cho nhiệm vụ chính trị của tỉnh Quảng Ngãi, nhằm phát huy thế mạnh của
từng địa phương để thúc đẩy kinh tế - xã hội tronh giai đoạn mới.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Có lẽ, nói về Quảng Ngãi cũng có rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu,
nhưng chủ yếu nói về vùng đất, con người, lịch sử, văn hóa, ẩm thực xứ
Quảng...chứ chưa có công trình nào tìm hiểu một cách đầy đủ về địa danh, địa
giới hành chính tỉnh Quảng Ngãi.
Những công trình đề cập ít nhiều đến địa danh, địa giới hành chính của
tỉnh đó là những công trình lịch sử Đảng bộ trong tỉnh.
- Tỉnh ủy Quảng Ngãi; Lịch sử Đảng bộ Quảng Ngãi (1945 - 1975) xuất
bản năm 1999.
- Tỉnh ủy Quảng Ngãi; Lịch sử Đảng bộ Quảng Ngãi (1975 - 2005) xuất
bản năm 2010.
Các công trình chỉ đề cập đến sự thay đổi địa danh, địa giới hành chính
của tỉnh qua các thời kỳ nhưng chỉ khái quát một cách chung chung, chưa
trình bày một cách cụ thể.

- Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi; Địa chí Quảng Ngãi xuất bản năm
2008 cũng đã đề cập đến sự thay đổi địa danh địa giới hành chính ở tỉnh
Quảng Ngãi qua các thời kỳ nhưng cũng chưa thật sự cụ thể.
- Ngoài những công trình đó, còn có các công trình lịch sử Đảng của các
huyện như: Đức Phổ, Mộ Đức, Ba Tơ, Tư Nghĩa, Sơn Tịnh, Bình Sơn...Nhưng

6


tất cả các công trình đó cũng chỉ đề cập sơ lược, khái quát quá trình thay đổi
tên, các địa danh đó mà thôi.
Mặc dù sự trình bày chỉ mang tính khái quát nhưng đó cũng là nguồn tài
liệu để tìm hiểu so sánh và đối chiếu.
Đáng kể nhất là công trình nghiên cứu của Nguyễn Quang Ân với cuốn
"Việt Nam - những thay đổi địa danh và địa giới hành chính 1945 - 2002"
xuất bản năm 2003, đã trình bày những thay đổi liên tục về địa danh, địa giới
hành chính từ năm 1945 - 2002 tương đối đầy đủ bằng chính những văn bản
pháp qui của các nhà nước hiện hành ở Việt Nam từ sau ngày 2 tháng 9 năm
1945 đến năm 2002. Có lẽ đây là công trình gần gũi hơn cả đối với đề tài luận
văn. Tuy nhiên công trình này vẫn chưa tình bày đầy đủ quá trình thành lập và
những thay đổi ở các khu, tỉnh, huyện, xã do chính quyền cách mạng chia đặt
ở miền Nam từ 1954 đến 1975. Mặt khác, công trình này còn chưa đề cập một
cách đầy đủ toàn diện, chính xác về những thay đổi hành chính đối với một
tỉnh cụ thể nào - như tỉnh Quảng Ngãi chẳng hạn. Một điều khác biệt nữa giữa
luận văn và công trình nghiên cứu của Nguyễn Quang Ân là công trình này
chưa nêu lên ý nghĩa của việc thay đổi địa danh và địa giới hành chính mà chỉ
nhằm cung cấp tài liệu cho bạn đọc môt cách khái quát trên cả nước nên chưa
đặt vấn đề lý giải nguyên nhân của những thay đổi đó.
Như vậy cho đến nay vẫn chưa có một tác giả nào đặt vấn đề nghiên
cứu sự thay đổi địa danh và địa giới hành chính tỉnh Quảng Ngãi qua các thời

kỳ lịch sử một cách chính xác, có hệ thống và đầy đủ. Vì vậy đây là vấn đề
nghiên cứu còn mới mẻ.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Mục đích
Luận văn góp phần khôi phục bức tranh lịch sử về sự thay đổi về địa
danh và địa giới hành chính của tỉnh Quảng Ngãi qua các thời kỳ lịch sử từ
1945 đến 2000. Tạo ra nhận thức đầy đủ hơn về sự thay đổi này.
Luận văn còn giúp cho việc xác định vị trí quận lỵ, huyện lỵ, các trung
tâm chính trị văn hóa ở tỉnh Quảng Ngãi trong lịch sử. Qua đó tìm hiểu những
7


địa danh, địa giới hành chính của tỉnh, từ đó góp phần tạo ra những ưu thế cho
sự phát triển kinh tế văn hóa, xã hội của từng vùng, từng địa phương.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là địa danh và địa giới hành chính tỉnh,
huyện, xã, phường, thị trấn của tỉnh Quảng Ngãi, được các chính quyền lập ra và
quá trình thay đổi địa danh, địa giới theo thời gian, theo các đơn vị hành chính
trong các thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ và từ năm1975 đến năm 2000.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
* Về mặt không gian: luận văn đề cập trong phạm vi địa giới của tỉnh
Quảng Ngãi ngày nay.
* Về mặt thời gian: luận văn đề cập trong khoảng thời gian từ năm 1945
đến năm 2000. Đây là giai đoạn có nhiều biến động phức tạp nên có nhiều sự
thay đổi phức tạp về địa giới hành chính. Năm 1945 mở đầu thời kỳ lịch sử
hiện đại, với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời, thì một hệ thống chính quyền được thiết lập từ tỉnh đến
huyện đến xã đã nhanh chóng đi vào hoạt động một cách qui cũ. Cho đến năm
1989 với sự kiện là sự điều chỉnh tách tỉnh Nghĩa Bình thành hai tỉnh Quảng
Ngãi, Bình Định và từ năm 2000 đến nay tỉnh Quảng Ngãi không có sự thay

đổi nào cả.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Quán triệt quan điểm của Đảng và nhà nước về vấn đề địa danh, địa giới
hành chính.
Chúng tôi áp dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic, phương
pháp phân tích, tổng hợp để xem xét và sắp xếp các tài liệu theo đúng các
trình tự thời gian và không gian mà các sự kiện diễn ra trong mối tương quan
mà đề tài quan tâm.
Hơn nữa, đây là đề tài cần được tiếp cận nhiều văn bản gốc, do đó tôi
còn sử dụng văn bản học để kiểm định tính chính xác của các sử liệu. Và
phương pháp so sánh đối chiếu, để kiểm định kết quả của người đi trước, tìm
ra những địa danh địa giới chính xác nhất.
8


Ngoài ra, còn sử dụng phương pháp điền dã, thực địa gặp gỡ nhân
chứng để xác minh thẩm định những tư liệu có liên quan đến đề tài.
5. Nguồn tư liệu chính.
1. Các công báo của các chính quyền từ 1945 đến nay được lưu trữ tại
các trung tâm lưu trữ: Tỉnh Bình Định, tỉnh Quảng Ngãi, tỉnh Thừa Thiên Huế, Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV.
2. Các công trình nghiên cứu lịch sử, địa lí hành chính của Quảng Ngãi.
3. Ngoài ra còn có nguồn tư liệu điền dã, phỏng vấn một số nhân chứng
tiêu biểu ở địa phương.
6. Đóng góp của luận văn.
Là công trình cung cấp đầy đủ một cách hệ thống quá trình thay đổi địa
danh địa giới hành chính của các đơn vị quận, huyện, xã, phường, thị trấn ở
Quảng Ngãi từ năm 1945 đến năm 2000.
Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên cứu liên
quan đến lịch sử Quảng Ngãi từ 1945 đến nay. Hơn nữa luận văn cũng cung
cấp cho các nhà nghiên cứu những tài liệu cần thiết để biên soạn địa chí văn

hóa, hành chính của tỉnh nhà.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục phần nội dung có 3 chương.
Chương 1: Sự thay đổi địa danh và địa giới hành chính tỉnh Quảng
Ngãi thời kỳ 1945 - 1954.
Chương 2: Sự thay đổi địa danh và địa giới hành chính tỉnh Quảng
Ngãi thời kỳ 1954 - 1975.
Chương 3: Sự thay đổi địa danh và địa giới hành chính tỉnh Quảng
Ngãi thời kỳ 1975 - 2000.

9


Chương 1: SỰ THAY ĐỔI ĐỊA DANH VÀ ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH
TỈNH QUẢNG NGÃI THỜI KỲ 1945 – 1954
1.1. Nguyên nhân và ý nghĩa của việc thay đổi địa danh, địa giới
hành chính.
1.1.1. Nguyên nhân.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 dưới chế độ thực dân phong
kiến tổ chức hành chính của tỉnh Quảng Ngãi gồm 4 cấp: Tỉnh → huyện,
phủ→ tổng → xã, phường. Nhưng đến sau Cách mạng tháng Tám thành công
cùng với việc xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước, theo chỉ thị của Trung
ương các đơn vị hành chính cấp phủ đổi thành huyện, xóa bỏ đơn vị hành
chính cấp tổng và thành lập các đơn vị hành chính xã dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của cấp huyện. Như vậy cơ cấu hành chính của tỉnh Quảng Ngãi thay đổi như
sau: Tỉnh → huyện → xã→ phường.
Việc ta tiến hành xóa bỏ đơn vị hành chính cấp tổng là nhằm xóa bỏ bớt
các đơn vị hành chính cấp trung gian để tăng cường sự quản lý sát sao của
chính quyền cách mạng đối với cấp cơ sở.Trong hoàn cảnh ta mới giành được
độc lập để đảm bảo quản lí được chính quyền còn non trẻ, cơ cấu hành chính

phải được đơn giản, tinh gọn không quá cồng kềnh. Chính vì thế trong giai
đọn này Trung ương ra chỉ thị hợp nhất một số làng, xã nhỏ lại thành những xã
lớn hơn. Ở Quảng Ngãi vào cuối những năm 1947 - 1948 các huyện tiến hành
hợp xã lần thứ hai. Việc hợp xã trong thời kỳ này đã đáp ứng kịp thời yêu cầu
chỉ đạo của cuộc kháng chiến kiến quốc. Để huy động tối đa sức người sức
của cho cuộc kháng chiến, ta tập hợp những xã nhỏ lại thành những xã lớn.
Ngoài mục đích huy động tối đa sức người sức của, còn để giảm bớt đơn vị
hành chính cấp cơ sở để tiện lợi cho việc chỉ đạo trong thời chiến. Thực hiện
tốt chỉ đạo của cấp trên nhiều địa phương ở Quảng Ngãi đã nêu cao tinh thần
tự lực tự cường và tinh thần trách nhiệm của mình chủ động trong việc xây
dựng căn cứ địa kháng chiến. Đặc biệt ở những vùng bị địch tạm chiếm nhân
dân đã kiê quyết bám trụ, chiến đấu xây dựng căn cứ địa ngay trong lòng địch.
10


Điều đó thể hiện một tinh thần chiến đấu rất kiên cường của nhân dân Quảng
Ngãi. Đến những năm 1950 - 1951 do nhu cầu cách mạng phát triển ngày càng
cao và để chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công một số huyện tiến hành hợp xã lần
thứ ba.
Về phía địch: Ở Quảng Ngãi lúc này địch chỉ chiếm được một số huyện
đồng bằng ven biển như: Đức Phổ, Mộ Đức, Tư Nghĩa, Sơn Tịnh, Bình Sơn
nhưng chúng đã vấp phải sự chống cự quyết liệt của nhân dân ta. Nên lúc này
chúng cũng không có sự điều chỉnh nhiều về cơ cấu hành chính mà về cơ bản
chúng vẫn dùng địa danh cũ phủ, tổng như trước năm 1945. Nhưng có điều
trước là phủ ở đây là tương đương cấp huyện, tổng là xã. Như vậy trong vùng
tạm chiếm này chúng chỉ có những điều chỉnh nhỏ như sáp nhập các làng của
phủ này vào phủ khác thuộc quyền quản lí của chúng để thuận lợi cho việc
hành chính trị an của chúng mà thôi. Ngoài ra việc sáp nhập của chúng cũng
nhằm dồn dân vào vùng kiểm soát của chúng để dễ bề cai trị, tiến tới tiêu diệt
phong tráo cách mạng của ta.

Nhưng cuộc kháng chiến của nhân dân ta ngày càng phát triển, làm cho
chính quyền tay sai không thể ngăn chặn làn sóng đấu tranh cách mạng của ta.
Nên chúng không có thời gian yên ổn để thay đổi địa giới hành chính.
1.1.2. Ý nghĩa.
Như vậy trải qua 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
bên cạnh những biến động về tình hình chính trị thì địa giới hành chính cũng
có nhiều thay đổi. Đặc biệt về phía chính quyền cách mạng, sau khi giành
được chính quyền ta tiến hành tổ chức lại bộ máy hành chính cho phù hợp với
tình hình mới và cũng để khẳng định được chủ quyền của ta trên mỗi tấc đất,
mỗi tên làng, tên xã.
Vậy trong giai đoạn từ năm 1945 - 1954 đã trải qua nhiều sự thay đổi,
điều chỉnh về địa giới hành chính ở Quảng Ngãi giữa 2 chính quyền. Giữa hai
chính quyền đó có sự khác biệt rất cơ bản. Đó là phía chính quyền cách mạng
xóa bỏ hẳn cấp tổng là để đầu mối cơ cấu hành chính tạo nên sự tinh gọn,
nhanh kịp thời nhất trong công tác quản lí của cấp trên. Hơn nữa để tăng
11


cường sự chỉ đạo sát sao của cấp huyện đối với cấp cơ sở, hay là để huy động
tối đa nhân tài vật lực cho cuộc chiến. Còn về phía chính quyền tay sai Pháp
mặc dù ở tỉnh Quảng Ngãi chúng chỉ chiếm được một số huyện nhưng chúng
cũng có những điều chỉnh về địa danh, địa giới. Tuy nhiên sự điều chỉnh đó
cũng không làm xáo trộn hay ảnh hưởng gì đến cơ cấu hành chính của tỉnh. Và
việc chúng duy trì cấp phủ, tổng nhằm mục đích chia nhỏ các đơn vị hành
chính của ta nhằm dễ bề cai trị, dễ đối phó với phong trào cách mạng của nhân
dân ta.
1.2.Khái quát địa danh, địa giới hành chính trước tháng 9 - 1945.
1.2.1. Địa lí tự nhiên.
Quảng Ngãi là một tỉnh thuộc khu vực ven biển miền Trung, phía Bắc
giáp tỉnh Quảng Nam, phía Tây giáp các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, phía Nam

giáp tỉnh Bình Định, phía Đông giáp Biển Đông.
Tỉnh lỵQuảng Ngãi từ năm 1907 đến năm 1945 đóng ở xã Chánh Mông
(sau đổi là Chánh Lộ), tổng Nghĩa Hạ, huyện Chương Nghĩa.Sau Cách mạng
tháng Tám 1945 đếncho đến cuối năm 2004, Chánh Lộ phố được quyết định
thành lập đơn vị thị xã Quảng Ngãi trực thuộc tỉnh và đến ngày 26.8.2005 có
Nghị định của Chính phủ thành lập thành phố Quảng Ngãi trực thuộc tỉnh.
Tỉnh Quảng Ngãi cách thủ đô Hà Nội 883 km về phía Nam và cách Thành
phố Hồ Chí Minh 838 km về phía Bắc theo đường Quốc lộ 1A.Như vậy tỉnh
Quảng Ngãinằm ở trung độ của Việt Nam.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược,
quảng Ngãi là địa bàn chiến lược quan trọng, là của ngõ của các tỉnh duyên hải
miền Trung và Tây Nguyên, có ba vùng chiến lược miền núi, trung du và đồng
bắng thuận lợi cho việc triển khai thế trận chiến tranh nhân dân. Tuy nhiên, do
địa thế hẹp, lưng tựa núi), mặt áp biển nên cũng dễ bị chia cắt về chiến lược.
Diện tích tự nhiên toàn tỉnh 5.153,0km2, bằng 1,7% diện tích tự nhiên cả
nước, trong đó đất nông nghiệp 322.034,59 ha chiếm (62,5% diện tích đất tự
nhiên), đất phi nông nghiệp 45.636,2 ha chiếm (8,86% diện tích đất tự nhiên) và
đất chưa sử dụng 147.595,9ha chiếm (28,64% diện tích đất tự nhiên).
12


Địa hình tương đối phức tạp, thấp dần từ Tây sang Đông với các dạng
địa hình đồi núi, đồng bằng ven biển, phía Tây của tỉnh là sườn Đông của dãy
Trường Sơn, tiếp đến là địa hình núi thấp và đồi xen kẽ đồng bằng, có nơi núi
chạy sát biển.
Khí hậu giữa các vùng trong tỉnh có những biểu hiện khác nhau do sự
phức tạp của địa hình và chịu ảnh hưởng của dãy Trường Sơn nhưng nhìn
chung khí hậu ở Quảng Ngãi mang đặc điểm của khí hậu nhiệt đới và gió mùa.
Nhiệt độ trung bình 25-26,9°C. Thời tiết chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và
mùa khô. Khí hậu có nhiều gió Đông Nam ít gió Đông Bắc vì địa hình địa thế

phía Nam và do thế núi địa phương tạo ra. Lượng mưa của tỉnh là 2.198
mm/năm nhưng chỉ tập trung nhiều nhất vào các tháng 9, 10, 11, 12 còn các
tháng khác thì khô hạn.
Quảng Ngãi có nhiều núi cao như núi Cà Đam tục gọi "Hòn Ông, Hòn
Bà" cao độ 1.600m ngăn cách Sơn Hà và Trà Bồng; về phía tây bắc có núi Đá
Vách (Thạch Bích) cao độ 1.500m ngăn cách Sơn Hà và Minh Long, núi U Bò
cao độ 1.200m. Núi cao trung bình 700m như núi Cao Môn ở ngoài Trường
Luỹ phía tây Huyện Đức Phổ. Các núi này có một số liệt vào hạng danh sơn
được vinh làm thắng cảnh như: Thiên Ấn, Thiên Bút, Thạch Bích, Vân Phong
...và một đặc điểm nữa là các núi ở đây còn tạo lợi thế lớn về quân sự, từng là
vùng hậu cứ của tỉnh trong kháng chiến chống Mỹ.
Trên bình diện địa hình, vùng Quảng Ngãi có 04 con sông lớn là Trà
Bồng, Trà Khúc, sông Vệ và sông Trà Câu đều bắt nguồn từ phía Tây và đổ ra
biển Đông theo hai cửa sông lớn là Sa Cần (Bình Sơn) và cửa Đại Cổ Lũy (Tư
Nghĩa). Mạng lưới sông ngòi ở Quảng Ngãi có chiều dài khoảng 300km Các
con sông này có đặc trưng chung là đều có hướng chảy vĩ tuyến hoặc á vĩ
tuyến, phân bố khá đều trên vùng đồng bằng Quảng Ngãi.
Dọc theo bờ biển Quảng Ngãi có nhiều vũng, vịnhcó thể xay dựng cầu
cảng trong đó cảng Dung Quất là cảng nước sâu lớn ở khu vực miền Trung và
các cảng nhỏ hơn như Sa kỳ, Cửa Lở, Mỹ Á, Sa Huỳnh. Tài nguyênbiển ở

13


Quảng Ngãi phong phú; trữ lượng hải sản năm 2015 ước đạt 165.800 tấn; sản
lượng đánh bắt hàng năm từ 155.000-160.000 tấn (2015).
Mạng lưới giao thông đường bộ ở Quảng Ngãi phát triển tương đối
hoàn chỉnh, nối liền các vùng ven biển, trung du, miền núi và các trung tâm đô
thị, thuận lợi trong việc chuyển quân, cơ động xe pháo, tập kết vật chất, hậu
cần đảm bảo cho nhu cầu tác chiến.

Rừng tự nhiên của Quảng Ngãi tuy diện tích không nhiều nhưng kho tài
nguyên phong phú về lâm thổ sản với nhiều loại gỗ quý như: lim, giổi, sao
cát, vênh vênh, chò, trắc, huỳnh đàng, kiền kiền, gõ. Ngoài gỗ, rừng Quảng
Ngãi còn có nhiều loại cây thuốc như sa nhân, hà thủ ô, thiên niên kiện, ngũ gia
bì, sâm; các loại cây có sợi, cây có dầu, trầm hương, cây lấy nhựa và các loại
cây lấy nấm. Cây quế là đặc sản nổi tiếng với diện tích rộng, sản lượng lớn. Ở
núi Lớn (Mộ Đức) còn có cây dầu rái cho một loại dầu khá tốt để trám thuyền
và pha chế các loại sơn, mực in. Ngoài ra còn là nơi sinh sống của nhiều loại
thú quý, hàng trăm loài chim quý và là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên
khoáng sản [46, tr139].
Vùng rừng núi Quảng Ngãi là một địa bàn chiến lược quan trọng về
quân sự, là căn cứ địa cách mạng gắn liền với lịch sử chống áp bức giai cấp và
chống ngoại xâm của nhân dân Quảng Ngãi.
Đồng bằng Quảng Ngãi nhỏ hẹp nhưng khá đa dạng về hình thái. Diện
tích khoảng 150.678ha, trong đó chỉ có 13.672ha được bồi đắp phù sa thường
xuyên hàng năm bởi 4 hệ thống sông chính: sông Trà Bồng, sông Trà Khúc,
sông Vệ và sông Trà Câu. Càng đi về phía nam đồng bằng càng hẹp lại, chỉ
còn là một rẻo dọc bờ biển. Địa hình bề mặt đồng bằng Quảng Ngãi khá bằng
phẳng, nghiêng thoải về phía đông, độ cao từ 2 - 30m. Đất ở đây thích hợp với
các loại cây lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày, đặc biệt là cây mía. Vùng
đồng bằng là nơi chứa nước ngầm lớn nhất tỉnh phục vụ cho nhu cầu đời sống,
sản xuất của phần lớn dân cư Quảng Ngãi, đồng thời cũng là nơi tàng trữ chủ
yếu các nguyên liệu sứ gốm (kaolin), nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng
(sét gạch ngói) với quy mô lớn.
14


Tài nguyên khoáng sản không đa dạng về chủng loại, chủ yếu là khoáng
sản phục vụ cho công nghiệp vật liệu xây dựng, nước khoáng và một số
khoáng sản khác.

Lòng đất Quảng Ngãi chứa nhiều khoáng sản giá trị có thể khai thác
trong 10 năm tới là: graphít trữ lượng khoảng 4 triệu tấn, trong đó trữ lượng
cho phép đưa vào khai thác 2,5 triệu tấn, hàm lượng cácbon trung bình 20%,
có nơi 24% nằm trên địa bàn huyện Sơn Tịnh; silimanhit trữ lượng 1 triệu tấn,
phân bổ ở Hưng Nhượng (Sơn Tịnh); than bùn ở Bình Phú (Bình Sơn) trữ
lượng 476 nghìn m3; cao lanh ở Sơn Tịnh trữ lượng khoảng 4 triệu tấn. Đá xây
dựng gồm các loại đá làm vật liệu xây dựng, rải đường giao thông, áp tường,
lát nền, trữ lượng trên 7 tỷ m3, phân bố ở Đức Phổ, Trà Bồng và một số huyện
khác; nước khoáng ở Thạch Bích (Trà Bồng), Đức Lân (Mộ Đức), Nghĩa
Thuận (Tư Nghĩa) và Sơn Tịnh.
1.2.2.Cư dân Quảng Ngãi.
Trong buổi bình minh của lịch sử, vùng đất Quảng Ngãi đã có con
người thời đại đá cũ sinh sống. Dấu tích được tìm thấy ở địa điểm Giếng Tiền
(huyện Lý Sơn), vốn là miệng núi lửa cổ đã tìm thấy dấu tích cư dân sơ kỳ đã
cũ sinh sống cách đây 30 vạn năm. Di vật còn lại là những công cụ đá có vết
ghè, mảnh tước. Đến thời hậu kỳ đá cũ, dấu tích được tìm thấy ở Gò Trá (xã
Tịnh Thọ, huyện Sơn Tịnh) có niên đại cách đây 15 vạn năm. Công cụ đá cũ
nằm ở bậc thềm cổ đo quá trình xâm thực để lộ ra những hiện vật gồm rìu tay,
hạch đá công cụ mũi nhọn hình tam diện cũng khá nhiều mãnh tước đá. Trong
thời đại đá mới, ở vùng đất Quảng Ngãi đã tìm thấy các bằng chứng cư trú của
dân cư hậu kỳ đá mới, đó là di tích Trà Phong (huyện Tây Trà). Cư dân cổ Trà
Phong sống ở vùng thềm thung lũng ven sông suối nhỏ của vùng thượng
nguồn sông Trà Khúc, thuộc các huyện Tây Trà, Trà Bồng và kéo dài xuống
vùng tây huyện Bình Sơn. Cư dân cổ Trà Phong cư trú ở ngoài trời, gần sông
suối để bắt cá, ốc để sinh sống. Giai đoạn muộn hơn họ di chuyển dần xuống
vùng thấp hơn như Trà Xuân, Gò Na. Các công cụ đặt trưng của cư dân cổ Trà
Phong bao gồm loại hình rìu vai ngang, rìu vai có nấc nhỏ, có mặt cắt thấu
15



kính lồi, loại cuốc vai xuôi bằng đá lửa có kích thước nhỏ, lạo bàn mài đá có
đá granit. Niên đại văn hóa hậu kỳ đá mới so kì kim khí Trà Phong này cách
nay khoảng từ 4000 đến 3500 năm. Trong thời đại kim khí, từ sơ kì đồng thau
đến sơ kì sắt sớm cư dân cổ đã tiến dần xuống đồng bằng, định cư lâu dài. Các
làng cổ của họ tìm thấy qua các di tích Long Thạnh, Bình Châu I, II đã cho
thấy tầng văn hóa di chỉ cư trú dày đặc từ 1,5 đến 2m rất ổn định. Đây là
những dân cư tiền Sa Huỳnh thuộc thời đại đồng thau, họ để lại di sản văn hóa
vật chất phong phú bao gồm: đồ gốm, đồ đá, đồ đồng, đồ trang sức bằng đá
quý.Họ tiến ra đảo Lý Sơn khai thác hải sản, tạo dựng dạng văn hóa Sa Huỳnh
mang đậm sắc thái biển. Trong vùng đất liền, các cư dân thời đại đồng thau
bước vào thời đại sắt sớm, họ tạo dựng nên đỉnh cao văn hóa Sa Huỳnh sơ kì
sắt.Trong giai đoạn sơ kì sắt, cư dân Sa Huỳnh có những làng mạc lớn. Đồng
thời cư dân Sa Huỳnh có những khu nghĩa địa mộ táng lớn như Phú Khương,
Thạnh Đức, Gò Quê.
Người kinh hiện diện ở Quảng Ngãi bắt đầu chủ yếu từ thế kỷ XV trở
đi, đa số là những nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, vùng Thanh - Nghệ di cư
vào khẩn hoang đất đai thành lập làng mạc. Dưới thời các chúa Nguyễn có
một số người Hoa từ các vùng Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam
(Trung Quốc) đến sinh sống ở Thu Sà, các cửa biển Sa Cần, Sa Huỳnh và một
số điểm trung du. Dưới thời Pháp thuộc cho đến hết năm 1975, có một số
người Pháp, Mỹ, Ấn Độ, Chà Và (Java) đến sống ở Quảng Ngãi, nhưng chủ
yếu là chuyển cư tạm thời hoặc không thành cộng đồng riêng. Ở miền núi, về
dân tộc có sự ổn định hơn, có các dân tộc Hrê, Cor, Ca Dong sinh sống, họ là
cư dân bản địa lâu đời sống theo từng khu vực và có sự đan xen nhất định, có
sự giao lưu buôn bán với nhau với người Việt ở miền xuôi. Từ thời tiền sử,
trên vùng đất này phần nào đã có sự hợp chủng hòa huyết giữa các nhóm Nam
Đảo và các nhóm Nam Á. Các dân tộc thiểu số cùng nằm trong một khu vực
lịch sử - dân tộc học, có chung một vận mệnh lịch sử lâu đời, đã cùng nhau
tham gia vào những cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột.


16


Đến năm 2005, dân tộc Kinh chiếm 88,8%, Hrê 8,58%, Cor 1,8%, Ca
Dong 0,7%; số người thuộc 13 dân tộc thiểu số khác chỉ chiếm 0,12% dân số.
Do vậy, nếu tính về dân tộc thì ở Quảng Ngãi có đến 17 dân tộc, nhưng thực
chất cũng chỉ có 4 dân tộc có số lượng cư dân đáng kể. Nhìn chung, khối cộng
đồng dân cư Quảng Ngãi phát triển theo tiến trình của lịch sử, cùng đoàn kết,
chung sức chung lòng trong công cuộc chống phong kiến - đế quốc, dựng xây
quê hương giàu đẹp.
Có thể cư dân Việt đã có mặt đầu tiên ở Quảng Ngãi vào đầu thế kỷ
XV. Năm 1402, qua cuộc xung đột giữa phong kiến Đại Việt và phong kiến
Chămpa, vua Chămpa nhượng hai châu Chiêm Động và Cổ Lũy Động cho nhà
Hồ. Hồ Quý Ly đổi đặt thành 4 châu Thăng, Hoa (Quảng Nam), Tư, Nghĩa
(Quảng Ngãi). Hồ Quý Ly ra lệnh cho dân có của cải mà không có ruộng đất ở
vùng Nghệ An, Thanh Hóa đem vợ con di cư vào vùng đất mới để khai khẩn;
việc di dân này phần nào có tính bắt buộc. Những người không có của cải,
phương tiện canh tác thì nhà Hồ cấp phát trâu cho họ. Nhà nước vận động dân
chúng: ai có trâu đem hiến nộp sẽ được cấp phẩm tước. Hồ Quý Ly bắt buộc
những người nông dân di cư không được quay về bản quán, sau khi đã thích
dấu hiệu lên cánh tay của họ. Các sử sách chép rằng: chữ Châu được thích lên
cánh tay những người lưu dân. Đây là cuộc di dân đầu tiên của người Kinh
đến vùng đất Quảng Ngãi.
Năm 1472, sau cuộc chinh phạt Chămpa của vua Lê Thánh Tông, vùng
đất từ nam đèo Hải Vân đến núi Thạch Bi nằm trong sự quản lý của Đại Việt
và được đặt thành đạo thừa tuyên Quảng Nam, gồm có 3 phủ: Thăng Hoa, Tư
Nghĩa và Hoài Nhân. Nhà Lê chiêu mộ dân chúng vào khai khẩn đất hoang và
đồng thời khuyến khích quân lính ở lại mở mang đồn điền, phát vãng những tù
nhân lưu đày vào nơi đây. Đây là những nguồn nhân lực chủ yếu để khai phá
vùng đất mới. Nhà nước không có chế độ hạn điền, cho phép dân chúng mặc

sức khai khẩn đất đai, cho phép thu lợi 3 năm trên vùng đất ấy rồi mới thu
thuế. Đây là cuộc di dân lần thứ hai của người Kinh đến vùng đất Quảng Ngãi.

17


Cuộc di dân này rất quan trọng; đây là thời điểm bắt đầu hình thành nên những
làng người Việt và những dòng họ lớn ở trên vùng đất thừa tuyên Quảng Nam.
Thời chúa Nguyễn, cư dân Việt ở Quảng Ngãi tương đối ổn định nhưng
vẫn còn thưa thớt. Với ý đồ cát cứ phương Nam, chúa Nguyễn tiếp tục khuyến
khích dân Việt từ vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay vào đây khai khẩn,
lập nghiệp. Năm 1648, chúa Nguyễn đánh thắng chúa Trịnh ở Quảng Bình, bắt
sống 30.000 quân lính, phiên đặt họ cứ 50 người thành một ấp, dọc theo bờ
biển, bắt đầu từ Quảng Nam trở vào phía nam. Dấu vết của làng Việt này còn
thấy ở làng Tráng Liệt (huyện Tư Nghĩa) mà gia phả còn truyền lưu.
Quá trình phát triển của dân tộc Kinh, được trình bày trên, là quá trình
phát triển lâu dài theo chiều thời gian, cụ thể là càng ngày cư dân càng phát
triển lớn về số lượng.
Vùng cư trú hiện nay của người Kinh tập trung chủ yếu ở vùng đồng
bằng và các thị tứ, thị trấn ở miền núi tỉnh Quảng Ngãi; một số sinh sống đan
xen với người dân tộc thiểu số ở miền núi. Khu vực đồng bằng, dân tộc Kinh
có khoảng 1.077.841 người, chiếm 83,7% dân số toàn tỉnh và chiếm 94,8%
tổng số dân tộc Kinh ở Quảng Ngãi.
1.2.3. Địa danh và địa giới hành chính tỉnh Quảng Ngãi trước tháng
9 - 1945.
Danh xưng Quảng Ngãi ra đời và tồn tại cho đến ngày nay hơn 415 năm
khi tiên chúa Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm Thuận - Quảng, đổi phủ Tư Nghĩa
thành dinh Quảng Nghĩa (1602). Sau đó Minh Mạng thứ 13 đổi lại thành Quảng
Ngãi - Quảng Nghĩa) còn vùng đất Quảng Ngãi (tức Cổ Lũy động) dưới thời Hồ
tính đến nay đã có hơn 600 năm và trải qua nhiều lần thay đổi về tên gọi đơn vị

hành chính, về địa giới cũng đã diễn ra không ít lần tách ra, nhập vào.
Đặc biệt ta cần phân biệt danh xưng này ở hai thời kỳ lớn:
- Thừa tuyên Quảng Nam trong đó có Quảng Ngãi (sau đổi thành xứ, rồi
trấn)giai đoạn này kéo dài đời hậu Lê ( tức Lê Thánh Tông về sau) năm Hồng
Đức thứ hai (1471) cho đến khi Gia Long cải tổ các khu vực hành chính trong
cả nước (1803).
18


- Năm 1801, đã đánh chiếm Quảng Ngãi từ Tây Sơn. Năm Gia Long thứ
hai (1803), đổi phủ Hòa Nghĩa thành dinh Quảng Nghĩa. Đến năm Gia Long
thứ bảy (1808) đổi dinh thành trấn. Trấn Quảng Nghĩa năm 1813 đời vua Gia
Long có phủ Tư Nghĩa và ba huyện Bình Sơn, Chương Nghĩa và Mộ Hoa.
Đến năm Minh Mạng thứ 13 (1832) đổi trấn thành tỉnh. Địa danh và địa giới
tỉnh Quảng Ngãi từ Minh Mạng thứ 13 đến nay không đổi, những thay đổi về
đơn vị hành chính diễn ra bên trong địa giới cùa nó mà thôi.
* Từ năm 1402 đến hết thời chúa Nguyễn
-Năm 1402, cuộc xung đột gay gắt giữa hai chính quyền phong kiến Đại
Việt và Chămpa đã khiến cho vua Chămpa là Ba Đích Lại (Jaya Sinhavarman
V) phải cắt nhượng đất Chiêm Động (Indrapura) và Cổ Lũy Động. Nhà Hồ sáp
nhập đất Chiêm Động và Cổ Lũy Động 1 vào Đại Việt và cử con trai Chế Bồng
Nga là Chế Ma Nô Dã Nam làm quan cai trị. Hồ Quý Ly vừa chiêu mộ vừa
bắt buộc dân chúng các xứ Thanh, Nghệ không có ruộng đất vào Chiêm Động
và Cổ Lũy Động khẩn hoang lập làng.
- Nhà Hồ đổi đặt vùng đất Chiêm Động và Cổ Lũy Động thành lộ
Thăng Hoa, gồm bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa.
- Hai châu Thăng, Hoa thuộc vùng đất tỉnh Quảng Nam ngày nay.
- Hai châu Tư, Nghĩa bao gồm vùng đất tỉnh Quảng Ngãi ngày nay. Châu Tư
nằm phía bắc sông Trà Khúc gồm hai huyện Trì Bình và Bạch.Châu Nghĩa nằm
phía nam sông Trà Khúc gồm ba huyện Nghĩa Thuần, Nga Bôi và Khê Cẩm 2.

-Đại Nam nhất thống chí phần Quảng Ngãi chép huyện Trì Bình và
huyện Bạch Ô như sau: "Đất Man Thanh Cù là huyện Bạch Ô xưa. Miền
thượng lưu sông Trà Khúc là đất Thanh Cù".
1. Sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi chép Nam Giới (tức vùng đất ky my ở phía Nam dưới triều Lê, bao gồm
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định) xưa thuộc bộ Việt Thường, nội bạn của châu Tỷ Ảnh, thời Nội thuộc bị Chiêm lấy
mất, người Chiêm chia làm Chiêm Chiêm và Chiêm Lũy (tr. 214). Chính sử chép: Người Chiêm dâng đất Chiêm Động,
Quý Ly ép dâng cả Cổ Lũy Động. Giáo sư Hà Văn Tấn hiệu đính Chiêm Chiêm tức Chiêm Động và Chiêm Lũy tức Cổ
Lũy Động. Trong đó chữ Chiêm 占 chép nhầm sang chữ Cổ 古
2.Ức Trai dư địa chí chép là Khê Miên (tr. 597), Đại Nam nhất thống chí chép là Khê Cẩm.

19


-Như vậy có thể là huyện Bạch Ô và huyện Trì Bình bao gồm cả các
huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, một phần huyện Sơn Hà và huyện Trà Bồng ngày nay.
-Huyện Nghĩa Thuần theo Đại Nam nhất thống chí bao gồm huyện
Chương Nghĩa và đất Minh Long, Tử Tuyền.
- Huyện Khê Cẩm bao gồm cả hai huyện Mộ Đứcvà Đức Phổ ngày nay.
-Năm 1407, nhà Minh đem quân xâm chiếm Đại Việt, nhà Hồ sụp đổ,
cha con Hồ Quý Ly bị bắt đưa về Trung Hoa. Nhân cơ hội đó, vua Chămpa là
Jaya Sinhavarman V tiến quân chiếm lại Chiêm Động và Cổ Lũy Động.
Nhưng sau đó nhà Minh sai Trương Phụ thu hồi lại vùng đất lộ Thăng Hoa
vốn là đất cũ đã thuộc về Đại Việt dưới thời Hồ Quý Ly. Nhà Minh đổi lộ
Thăng Hoa thành phủ Thăng Hoa, gồm 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Vùng
đất Quảng Ngãi thuộc hai châu Tư Châu và Nghĩa Châu. Tư Châu chia thành
hai huyện Trì Bình và Bạch Ô. Nghĩa Châu chia thành 3 huyện Nghĩa Thuần,
Nga Bôi và Khê Cẩm. Như vậy dưới thời thuộc Minh, địa giới và tên gọi phủ
huyện vẫn giữ nguyên như thời nhà Hồ. Tuy Trương Phụ có cắt đặt quan cai
trị nhưng thực chất vùng đất 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa vẫn do người
Chăm cai quản.

-Theo Ức Trai Dư địa chí thì buổi đầu thời Lê sơ vùng đất Quảng Nam,
Quảng Ngãi, trên bản đồ được ghi là Nam Giới và xem là đất "ky my" (tức là
chỉ ràng buộc vào) như một phên giậu của Đại Việt. Năm Hồng Đức thứ 2
(1471) xảy ra cuộc xung đột giữa phong kiến Đại Việt và phong kiến Chămpa.
Vua Lê Thánh Tông thân chinh và đánh thắng Chămpa, cắt đặt vùng đất từ
phía nam đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông làm thừa tuyên Quảng Nam. Hệ
thống hành chính của nhà Lê ở đạo thừa tuyên gồm: đạo thừa tuyên, phủ,
huyện, xã. Từ năm Quang Thuận thứ 7 (1466) trở về sau, mỗi đạo thừa tuyên
lại đặt 3 chức: Thừa chính, Tham chính, Tham nghị gọi là Thừa ty. Các chức
Hiến sát sứ, Hiến sát phó sứ gọi là Hiến ty. Đô tổng binh các đạo thừa tuyên
đều đặt Tổng binh sứ, Đồng tổng binh, Thiêm sự, Đô quan, Giang quan thuộc
vào Thừa hiến đô ty quản lĩnh. Bộ máy cai trị của nhà Lê ở các đạo thừa tuyên
còn gọi là Tam Ty, tức Thừa ty, Hiến ty và Thừa hiến đô ty.
20


- Đạo thừa tuyên Quảng Nam gồm ba phủ: phủ Thăng Hoa lãnh 3
huyện, phủ Tư Nghĩa lãnh 3 huyện, phủ Hoài Nhân lãnh 3 huyện. Ranh giới
phủ Tư Nghĩa thời Lê sơ bao gồm cả vùng đất tỉnh Quảng Ngãi ngày nay.
Phủ Tư Nghĩa lãnh ba huyện Bình Sơn, Mộ Hoa, Nghĩa Giang.
- Huyện Bình Sơn có 17 xã, huyện Mộ Hoa có 15 xã, huyện Nghĩa
Giang có 17 xã.
- Huyện Bình Sơn dưới thời thuộc Minh là đất các huyện Trì Bình và Bạch
Ô, thuộc Tư Châu, phủ Thăng Hoa. Thời Lê sơ đặt làm huyện Bình Sơn, sau đổi
thành huyện Bình Dương, tiếp đó lại đổi thành huyện Bình Sơn. Ranh giới
huyện Bình Sơn thời Lê bao gồm đất huyện Bình Sơn và Sơn Tịnh ngày nay.
huyện Nghĩa Giang dưới thời thuộc Minh là đất các huyện Nghĩa
Thuần và Nga Bôi, thuộc châu Nghĩa Châu, phủ Thăng Hoa. Đến thời Lê sơ
đặt làm huyện Nghĩa Giang, sau đó nhà Lê đổi thành huyện Chương Nghĩa.
Huyện Nghĩa Giang (Chương Nghĩa) dưới thời Lê bao gồm đất huyện Tư

Nghĩavà một phần đất huyện Nghĩa Hành ngày nay.
-Huyện Mộ Hoa dưới thời thuộc Minh là đất huyện Khê Cẩm, thuộc
châu Nghĩa Châu, phủ Thăng Hoa, thời Lê sơ đặt thành huyện Mộ Hoa. Huyện
Mộ Hoa dưới thời Lê là hai huyện Mộ Đức và Đức Phổ ngày nay.
-Dưới thời nhà Mạc, từ năm 1527, vùng đất Quảng Ngãi vẫn giữ
nguyên tên gọi hành chính như dưới thời nhà Lê sơ.
- Đến năm 1545, vua Lê Trang Tông cử Bắc quân đô đốc Trấn quận công
Bùi Tá Hán vào thừa tuyên Quảng Nam đánh quân nhà Mạc 1 và mộ dân di cư
vào khai khẩn đất hoang, bình ổn vùng đất mới. Tên gọi và địa giới hành chính
của các phủ huyện ở xứ Quảng Nam vẫn giữ nguyên như dưới thời Lê sơ.
-Năm Mậu Ngọ 1558, đời vua Lê Anh Tông, Đoan quận công Nguyễn
Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa. Năm 1568, Trấn thủ xứ Quảng Nam là Bùi Tá
1. Theo Lê Hồng Long - Vũ Sông Trà: Tư liệu thư tịch và di tích về nhân vật lịch sử Bùi Tá Hán, Sở
Văn hoá - Thông tin Quảng Ngãi, 1996. Phần Phủ tập Quảng Nam ký sự của tác giả Mai thị có ghi Bùi Tá
Hán đánh quân Mạc. Nhưng trong sách Đại Việt sử ký toàn thư thì không thấy ghi ai đánh lấy.

21


Hán chết, Nguyễn Bá Quýnh thay thế nhưng năm sau được điều chuyển ra
Bắc.Năm 1570, vua Lê Anh Tông giao cho Nguyễn Hoàng kiêm quản cả trấn
Quảng Nam. Nguyễn Hoàng có điều kiện xây dựng Đàng Trong thành một thế
lực để đối nghịch với Đàng Ngoài dưới sự cai quản của chúa Trịnh. Năm
1602, chúa Nguyễn Hoàng đổi thừa tuyên Quảng Nam thành dinh Quảng Nam
có 5 phủ, đổi tên phủ Tư Nghĩa thành phủ Quảng Nghĩa (hay Ngãi) thuộc dinh
Quảng Nam. Dinh Quảng Nam gồm phủ Quảng Nghĩa, phủ Điện Bàn, giữ
nguyên tên phủ Thăng Hoa, đổi phủ Hoài Nhơn thành phủ Quy Nhơn (1742),
lấy đất phía nam đèo Cù Mông đặt thành hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa
thuộc phủ Phú Yên. Như vậy, địa danh Quảng Nghĩa hay Quảng Ngãi xuất
hiện từ những năm đầu thế kỷ XVII và tồn tại đến ngày nay 1.

- Phủ Quảng Ngãi dưới thời các chúa Nguyễn có ba huyện là Bình Sơn,
Chương Nghĩa, Mộ Hoa. Riêng ở miền núi phủ Quảng Ngãi, gồm 4 nguồn là
nguồn Phù Bà, nguồn Cù Bà, nguồn Ba Tư (hay Ba Tơ), nguồn Đà Bồng 2.
Các cửa nguồn của các dân tộc miền núi đều lệ thuộc vào các phủ huyện, kiểm
soát việc buôn bán trao đổi giữa miền xuôi và miền ngược và thu nộp thuế
hàng năm. Ở miền xuôi, cư dân tiếp tục khai khẩn, lập làng, hình thành thêm
nhiều làng xã mới.
-Từ đầu thời các chúa Nguyễn (đầu thế kỷ XVII), một yêu cầu đặt ra là
phải chia lập các đơn vị hành chính rõ ràng để đặt cơ sở cho một xã hội ổn định.

1. Cũng có người cho rằng khi Pháp cai trị thì "đổi" Quảng Nghĩa thành Quảng Ngãi nhưng không
đưa ra chứng liệu nào. Thực ra trước kia, khi văn tự chính thức viết bằng chữ Hán, chữ 義 có thể đọc là
Nghĩa, cũng có thể đọc là Ngãi (hai cách đọc khác nhau của một con chữ). Có lẽ vì vậy mà với các bậc Nho
học thường đọc là Nghĩa, còn dân gian quen đọc là Ngãi (như nhân nghĩa gọi là nhân ngãi), và khi phiên ra
quốc ngữ dùng con chữ Latinh người ta dùng âm phổ thông nhất là Ngãi. Từ đây trở đi, các tác giả sách này
dùng hai chữ "Quảng Ngãi" (thay vì "Quảng Nghĩa") theo thông lệ.
2.Theo Đất nước Việt Nam qua các đời của Đào Duy Anh thì tên nguyên gốc là nguồn Bà Địa
(tr.156). Theo H. Maitre: Les Jungle des hauts - Plateaux du Viet Nam central, Paris, 1909: Thời Bùi Tá Hán
trấn nhậm (1545 - 1568) đã đặt thành 4 nguyên là nơi giao dịch trao đổi hàng hóa giữa miền xuôi và miền
ngược. Bốn nguyên đó là Đà Bồng, Cù Bà, Phù Bà, Ba Tư. Xuôi, ngược là tính theo chiều nước chảy. Chữ
nguyên 源 có nghĩa là nguồn nước, xuất phát từ thực tế là nơi phát nguyên của các nguồn sông. Nên có thể

22


- Năm Canh Tý 1720, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Văn chức Nguyễn
Khoa Đăng (con cận thần Nguyễn Khoa Chiêm) "chia lập các ấp, các thuộc ở
Quảng Ngãi và Phú Yên". Năm Bính Ngọ 1726, chúa Nguyễn Phúc Chu lại
sai Nguyễn Khoa Đăng "định rõ chức lệ cho các thuộc mới lập". Điều này cho
thấy từ đời các chúa Nguyễn đã hình thành các tổng, thuộc1.Tổng, thuộc là

đơn vị dưới huyện, trên xã. Nói cách khác, từ các xã hình thành trước kia mà
hợp lại thành tổng, các xã thôn mới ra đời thì hợp lại thành thuộc. Mỗi huyện
có nhiều tổng, riêng thuộc chưa vào huyện mà có lẽ do phủ trực tiếp quản lý
(đến đời Minh Mạng thế kỷ XIX mới chính thức nhập vào huyện) 2.
-Từ đời chúa Nguyễn, hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng thuộc về
địa phận Quảng Ngãi: "Ở ngoài biển, về xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh
Quảng Ngãi có hơn 130 bãi cát cách nhau hoặc đi một ngày đường hoặc vài
trống canh, kéo dài không biết mấy ngàn dặm, tục gọi là "Vạn lý Trường Sa".
Trên bãi có giếng nước ngọt. Sản vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, ba ba…
Buổi quốc sơ đặt đội Hoàng Sa 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hằng
năm đến tháng 3 thì đi thuyền ra, độ ba đêm ngày thì về đến bãi, tìm lượm hóa
vật, đến tháng 8 thì về nộp. Lại có đội Bắc Hải, mộ người thuộc thôn Tư
Chánh thuộc Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào, sai đi thuyền nhỏ
đến các xứ Bắc Hải, Côn Lôn, để tìm lượm hóa vật; đội này cũng do đội
Hoàng Sa kiêm quản" 3.
1.Quốc Sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập 1, bản dịch của Viện Sử học, Nxb Sử học, 1962, tr.
186, 190, 191. Về đơn v thuộc, tr.191 sách ghi: "Bui quốc sơ [thời kỳ đầu chúa Nguyễn] mở mang bờ cõi dựng lập
phủ huyện, hễ những nơi gần núi ven biển thì lập làm thuộc (…). Phủ Quảng Ngãi có 4 thuộc (…). Phàm thuộc có
500 người trở lên thì đặt 1 Cai thuộc, 1 người Ký thuộc, 405 người trở xuống thì đặt 1 Ký thuộc, 100 người trở
xuống thì đặt một Tướng thần". Như vậy, ta có thể hiểu: Tổng 總 gồm nhiều xã, thôn đã hình thành trước, thuộc
vào huyện. Thuộc屬 gồm nhiều xã, thôn mới khai phá gần núi, biển, thuộc vào phủ.
2.Quốc Sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập 8, bản dịch của Viện Sử học, Nxb Khoa học,
Hà Nội, 1964. Tr. 233 chép: "Đổi các thuộc từ Thừa Thiên trở vào Nam đến Bình làm tổng, cho thuộc các
phận Sở hạt. Trước đây thuộc vẫn là thuộc, không lệ vào huyện…".
3.Quốc Sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập 1, bản dịch của Viện Sử học, sđd, tr. 222. Bắc
Hải tức là Trường Sa.

23



-Hệ thống quan lại ở dinh Quảng Nam dưới thời chúa Nguyễn Hoàng có
Trấn thủ, Cai bộ, Ký lục. Hai phủ Quảng Nghĩa và Quy Nhơn thì đặt riêng
chức Tuần vũ 1và Khám lý để cai trị.
* Thời Tây Sơn cải đặt phủ Quảng Nghĩa thành phủ Hòa Nghĩa thuộc
quyền quản lý của vua Thái Đức - Nguyễn Nhạc. Các đơn vị hành chính có thể
vẫn giữ nguyên như thời các chúa Nguyễn.
* Dưới thời các vua Nguyễn đầu thế kỷ XIX. Năm 1801 Nguyễn Ánh
đánh chiếm được Quảng Ngãi từ tay Tây Sơn.
Năm Gia Long năm thứ 2 (1803), đổi phủ Hòa Nghĩa thành dinh
(doanh) Quảng Nghĩa. Gia Long tách hai phủ Thăng Hoa và Điện Bàn đặt
thành dinh Quảng Nam, phủ Quy Nhơn đặt thành dinh Bình Định, phủ Phú
Yên thành dinh Phú Yên. Hệ thống quan lại ở dinh dưới thời Gia Long, đứng
đầu là quan Lưu thủ quản lý chung, quan Cai bạ coi về việc hộ, quan Ký lục
coi việc hình.
Đến năm Gia Long thứ 7 (1808) đổi dinh thành trấn. 4 dinh đổi thành 4
trấn, dinh Quảng Nghĩa thành trấn Quảng Nghĩa.
Năm Gia Long thứ 10 (1811), cải đổi tên chức Lưu thủ thành chức Trấn
thủ, giữ nguyên chức Cai bạ và Ký lục.
Trấn Quảng Ngãi năm 1813 đời vua Gia Long có phủ Tư Nghĩa và 3
huyện Bình Sơn, Chương Nghĩa, Mộ Hoa.
Huyện Bình Sơn có 7 tổng, thuộc: tổng Hạ, tổng Trung, tổng Thượng,
thuộc Đồn Điền, thuộc Hà Bạc, thuộc Hoa Châu và Nội phủ.
Huyện Chương Nghĩa có 6 tổng, thuộc: tổng Hạ, tổng Trung, tổng
Thượng, thuộc Đồn Điền, thuộc Hà Bạc, thuộc Hoa Châu.
Huyện Mộ Hoa có 6 tổng, thuộc: tổng Hạ, tổng Trung, tổng Thượng,
thuộc Đồn Điền, thuộc Hà Bạc, thuộc Hoa Châu 2.

1.Tuần vũ
2. Theo tài liệu về Địa bạ Quảng Ngãi của Giáo sư Nguyễn Đình Đầu .


24


×