Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Thương nghiệp vùng thuận quảng thời chúa nguyễn (1558 1774)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.83 MB, 120 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ THỂ

THƯƠNG NGHIỆP VÙNG THUẬN QUẢNG
THỜI CHÚA NGUYỄN (1558 - 1774)

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 03 13

LUẬN VĂN THẠC SĨ SỬ HỌC

Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS. Đỗ Bang

Huế, 2016

i


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết
quả nghiên cứu nêu trong Luận văn là trung thực, chưa từng được công bố trong bất
kỳ một công trình nào khác. Những tài liệu tham khảo phục vụ cho Luận văn có
nguồn gốc rõ ràng. Nếu có gì sai sót tôi xin chịu trách nhiệm.

Tác giả

Nguyễn Thị Thể



ii


LỜI CẢM ƠN
Luận văn tốt nghiệp được hoàn thành tại Đại học Huế. Để hoàn thành được
công trình luận văn lịch sử này, ngoài sự cố gắng, nổ lực của bản thân, cho phép
tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc đến: Ban giám hiệu, Phòng
đào tạo sau đại học trường Đại học Sư phạm Huế (ĐHSP); Phòng tư liệu khoa Lịch
sử trường ĐHSP Huế, Thư viện trường ĐHSP Huế, Phòng tư liệu khoa Lịch sử
trường ĐHKH Huế, Trung tâm học liệu Đại học Huế, Thư viện tỉnh Thừa Thiên
Huế; Qúy thầy cô trong tổ Lịch sử Việt Nam, khoa Lịch sử trường ĐHSP Huế đã
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề
tài luận văn này.
Đặc biệt, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo – PGS.TS Đỗ Bang,
khoa Lịch sử trường ĐHKH Huế - đã trực tiếp hướng dẫn, dìu dắt, giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình triển khai, nghiên cứu và hoàn thành đề tài.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, chia sẻ, ủng hộ, quan tâm
và động viên của gia đình, thầy cô, bạn bè đã dành cho tôi trong suốt khóa học vừa
qua và đồng thời cũng mong nhận được sự đóng góp, của quý Thầy Cô, các nhà
khoa học, đọc giả và các bạn học viên cho đề tài này.
T.T.Huế, tháng năm 2016
Tác giả

Nguyễn Thị Thể

iii


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................... ii
LỜI CẢM ƠN .......................................................................................................... iii
MỤC LỤC ..................................................................................................................1
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT ...................................................3
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ....................................................................................5
2.1. Giai đoạn trước năm 1975 .........................................................................6
2.2. Giai đoạn sau năm 1975 .............................................................................6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................8
3.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................8
3.2. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................8
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................9
4.1. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................9
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................9
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ........................................................9
5.1. Nguồn tài liệu ..............................................................................................9
5.2. Phương pháp nghiên cứu .........................................................................10
6. Đóng góp của luận văn ........................................................................................10
7. Bố cục của luận văn.............................................................................................11
Chương 1: VÀI NÉT VỀ VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI THUẬN QUẢNG
DƯỚI THỜI CHÚA NGUYỄN .............................................................................12
1.1. Điều kiện tự nhiên ............................................................................................12
1.2. Tài nguyên thiên nhiên ....................................................................................15

1


1.3. Tình hình chính trị - xã hội .............................................................................18
1.4. Chính sách của chúa Nguyễn đối với việc phát triển kinh tế thương nghiệp

...................................................................................................................................24
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH THƯƠNG NGHIỆP THUẬN - QUẢNG TỪ NĂM
1558 - 1774 ...............................................................................................................31
2.1. Tình hình nội thương .......................................................................................31
2.1.1. Hệ thống các chợ làng............................................................................31
2.1.2. Thành phần tham gia buôn bán. ..........................................................34
2.1.3. Hình thức và các mặt hàng trao đổi .....................................................35
2.1.4. Giao thương kinh tế giữa các vùng ......................................................45
2.2. Tình hình ngoại thuơng ...................................................................................48
2.2.1. Thành phần thương nhân nước ngoài .................................................48
2.2.2. Hoạt động buôn bán ở các thương cảng ..............................................57
2.2.3. Các loại hàng hóa buôn bán ..................................................................62
2.2.4. Các phương thức mua bán....................................................................66
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA THƯƠNG NGHIỆP
VÙNG THUẬN QUẢNG THỜI CHÚA NGUYỄN .................................................69
3.1. Đặc điểm của thương nghiệp Thuận Quảng 1558 - 1774 .............................69
3.2. Vai trò - tác động của thương nghiệp Thuận Quảng ...................................81
3.2.1. Đối với Chính trị - Quân sự ..................................................................82
3.3.2. Đối với kinh tế - xã hội ..........................................................................83
3.2.3. Đối với giao lưu văn hóa ........................................................................85
KẾT LUẬN ..............................................................................................................88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................90
PHỤ LỤC ................................................................................................................ P0

2


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

ĐHKH


: Đại học Khoa học

ĐHSP

: Đại học Sư phạm

NCLS

: Nghiên cứu lịch sử

NXB

: Nhà xuất bản

P.1

: Phụ lục số 1

[23]

: Xem ở tài liệu tham khảo số 23

[23, tr. 90]

: Dẫn theo tài liệu tham khảo số 23, trang số 90.

3



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử dân tộc Việt Nam gắn liền với quá trình Nam tiến, mở rộng lãnh thổ,
tầm ảnh hưởng văn hóa về phương Nam. Thuận - Quảng là vùng đất đứng chân chiến
lược của chúa - vua Nguyễn, là trung tâm kinh tế của Đàng Trong vốn thuộc chủ
quyền của Đại Việt từ các thế kỷ trước. Qúa trình Nam tiến đã thực sự tạo nên những
ảnh hưởng lớn lao đối với lịch sử dân tộc mà kết quả trực tiếp của nó là tạo nên một
vùng đất mới rộng lớn ở phía Nam, trong đó có vùng Thuận - Quảng trù phú.
Năm 1613, trước khi qua đời, Nguyễn Hoàng căn dặn với Nguyễn Phúc
Nguyên và Triều thần: “ Đất Thuận Quảng phía Bắc có Hoành Sơn và Linh Giang
hiểm trở, phía Nam có núi Hải Vân và núi Đá bia vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển
có cá muối. Thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh
để chống chọi với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời. Ví bằng thế lực
không địch được thì cố giữ vững đất đai để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dạy của
ta”[82, tr.44]
Chúa Nguyễn rất quan tâm đến đời sống cũng như vấn đề phát triển kinh tế,
hoạt động thương mại. Thực hiện chính sách trọng thương, triệt để khai thác nguồn
lực của đất nước, chúa Nguyễn đã đặt vương quốc của mình trên nền tảng kinh tế
ngoại thương, phát triển Đàng Trong trở thành một thể chế biển (Maritime polity),
phát huy truyền thống khai thác, phát triển giao thương và giao lưu văn hóa trên
biển. Sự hưng thịnh của hoạt động kinh tế ngoại thương, sự xuất hiện tấp nập của
những đoàn thuyền buôn ngoại quốc đã mang lại cho vương quốc của chúa Nguyễn
một mô hình phát triển hoàn toàn khác so với vùng đất Đàng Ngoài của họ Trịnh.
Đàng Trong nói chung và vùng Thuận Quảng nói riêng, hoạt động thương
mại đó là sự tích hợp của yếu tố nội sinh và ngoại sinh. Đến thế kỷ XVIII, kinh tế
vùng Thuận - Quảng đã có những bước khởi sắc mới: các chợ làng, chợ huyện, chợ
phủ…mọc lên khắp nơi, bên cạnh đó việc giao lưu buôn bán với nước ngoài trở
thành một nhu cầu lớn. Các thương cảng ra đời như Hội An, Thanh Hà, Nước Mặn
vào thế kỷ XVII-XVIII. Các thương cảng này đều nằm trên đất Thuận Quảng
(tương đương với vùng đất hiện thuộc các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng


4


Nam - Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên). Chính sự phát triển kinh tế
đó đã tạo cơ sở cho chúa Nguyễn mở mang lãnh thổ Đàng Trong, chống Trịnh
thành công và tạo nên một diện mạo mới cho miền Trung Việt Nam.
Tìm hiểu thương nghiệp vùng Thuận Quảng từ 1558 - 1774 là nghiên cứu về
một loại hình kinh tế - xã hội - văn hóa dưới thời các Chúa Nguyễn có quan hệ đến
sản xuất hàng hóa, thương nghiệp, phát triển đô thị trong mối quan hệ giao lưu kinh
tế và văn hóa với các nước bên ngoài. Vì vậy, việc nghiên cứu về kinh tế thương
nghiệp ở vùng Thuận - Quảng có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc.
Về ý nghĩa khoa học, đề tài góp phần làm rõ những biến chuyển trong nền
kinh tế ở vùng Thuận - Quảng. Sự phát triển của nông nghiệp và thủ công nghiệp
cùng với nhu cầu cuộc sống đang lên khiến cho chợ búa mọc lên khắp nơi. Đồng
thời, nhu cầu giao lưu buôn bán với các thương nhân nước ngoài ngày càng lớn. Đó
chính là cơ sở cho sự ra đời nền kinh tế thương nghiệp phát triển và dẫn đến sự xuất
hiện của mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Về ý nghĩa thực tiễn, ở một mức độ nhất định đề tài góp phần rút ra được một
số bài học, kinh nghiệm để thực hiện có hiệu quả các biện pháp, chính sách về kinh tế
trong công cuộc đổi mới hiện nay. Một số nội dung của luận văn có thể sử dụng làm
tài liệu tham khảo, giảng dạy lịch sử về việc tổ chức các hoạt động kinh tế, và bổ
sung vào nguồn tư liệu cho phần lịch sử dân tộc thời trung đại. Qua đó, chúng ta thấy
sự cần thiết phải tìm hiểu và nghiên cứu hoạt động kinh tế thương nghiệp.
Với tất cả ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài “Thương nghiệp vùng Thuận Quảng
thời chúa Nguyễn (1558 - 1774)” để làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử
Việt Nam của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Thương nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế và là một lĩnh vực đặc biệt
quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, do đó cũng đã có nhiều tác

giả trong và ngoài nước nghiên cứu về vấn đề này. Các nhà nghiên cứu với những
đề tài khác nhau, phạm vi nghiên cứu rộng hẹp khác nhau, cũng đã đề cập đến vấn
đề thương nghiệp vùng Thuận Quảng thế kỉ XVI-XVIII trong công trình của mình,
nhưng mức độ sâu rộng cũng khác nhau.

5


2.1. Giai đoạn trước năm 1975
- Lê Quý Đôn với Phủ biên tạp lục, bản dịch xuất bản năm 1976. Sách gồm 6
tập nói về những vấn đề liên quan đến sứ Thuận Hóa và Quảng Nam như: sự khai
thiết khôi phục hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam, về hình thế núi sông, thành lũy,
đường sá, bến đò…cũng như các tình tiết về kinh tế xã hội, về các chính sách của
nhà nước, về sản vật, thuế khóa, về phương thức trao đổi mua bán…
- Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn. Sách chia làm 2 phần:
Tiền biên và chính biên. Trong đó, phần Tiền biên ghi chép về sự nghiệp của chín
chúa Nguyễn, bắt đầu từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa (1558) đến hết
thời chúa Nguyễn Phúc Thuần (1777). Vào năm 1962, Viện Sử học bắt đầu cho
công bố bản dịch bộ Đại Nam thực lục tập 1 phần Tiền biên, đến năm 1978 thì in
tập XXXVIII, hoàn thành công việc xuất bản trọn bộ Đại nam thực lục.
- Việt sử xứ Đàng Trong, của tác giả Phan Khoang, xuất bản lần đầu tiên năm
1969. Đây được xem là công trình nghiên cứu toàn diện đầu tiên về xứ Đàng Trong,
đã vạch ra con đường chinh phục về phía Nam của các chúa Nguyễn, trong đó ở
chương III và chương IV đề cập đến khu vực hành chính, thuế điền, thuế đò, thuế
vàng bạc, muối sắt, thuế đầu nguồn, về phép đo lường, tiền tệ, về kinh tế canh nông
thương mãi, tiểu công nghệ của người dân xứ Đàng Trong, mối quan hệ ngoại giao
buôn bán với các nước trong khu vực.
2.2. Giai đoạn sau năm 1975
2.2.1. Các cuốn sách, luận văn liên quan tới đề tài
Giai đoạn này đã có nhiều tác giả quan tâm, tìm hiểu và nghiên cứu về hoạt

động kinh tế thương nghiệp.
- Năm 1996, tác giả Đỗ Bang với cuốn Phố cảng vùng Thuận Quảng thế kỷ
XVII-XVIII, là tác phẩm nghiên cứu về một loại hình kinh tế - xã hội - văn hóa dưới
thời các chúa Nguyễn. Trong đó đề cập đến sự phát triển thương mại dẫn đến việc
hình thành các phố cảng, các trung tâm thương mại như Hội An, Thanh Hà, Nước
Mặn.- Xứ Đàng Trong của Christophoro Borri, bản dịch xuất bản năm 1998 đề cập
một cách tổng thể bối cảnh và tình hình kinh tế, xã hội, tôn giáo… của vương quốc
Đàng Trong
- Năm 1999, trên cơ sở nguồn tư liệu khá phong phú, Li Tana, với tác phẩm
6


Xứ Đàng Trong lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỉ XVII và XVIII, cung cấp
những tư liệu về những ảnh hưởng của quá trình giao thương buôn bán đến sự phát
triển kinh tế, dành trọn chương 3 và 4 viết về thành phần thương gia, tiền tệ và
thương mại ở xứ Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn.
- Những người Châu Âu ở An Nam của tác giả Chales Maybon, bản dịch năm
2006 cũng cung cấp những sự kiện về việc trao đổi, buôn bán với các nước.
Gần đây, có một số Luận văn Thạc sĩ có liên quan đến đề tài:
- Trương Thị Thu Thảo (2010), Chợ làng ở Thừa Thiên Huế (thế kỷ XVIXIX), Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại học Sư phạm Huế đã khái quát về quá
trình hình thành và phát triển của các hệ thống chợ ở Thừa Thiên Huế.
- Lê Thị Hương (2011), Kinh tế ngoại thương Đàng Trong thế kỉ XVII XVIII, Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại học Sư phạm Huế cũng đã đi sâu
nghiên cứu về tình hình thương mại, trao đổi mua bán ở miền này dưới thời các
chúa Nguyễn.
- Nguyễn Viết Minh (2012), Kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp vùng
Thuận- Quảng dưới thời Chúa Nguyễn, Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại học
Sư phạm Huế, trình bày về các chính sách nông nghiệp, các loại hình, làng nghề thủ
công nghiệp ở vùng Thuận Quảng.
- Trương Thị Quỳnh Nga (2013), Nguồn hàng và thị trường ở Đàng Trong
thế kỷ XVII - XVIII, Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại học Khoa học Huế, trình

bày về các mặt hàng, nguồn hàng, luồng hàng buôn bán trong và ngoài nước.
- Phạm Nhân Đức (2014 – Đại học Sư phạm Huế) với luận văn Thương
nghiệp Quảng Trị thế kỉ XVI - XIX, đã trình bày chi tiết về tình hình nội thương,
ngoại thương Quảng Trị trong gần 4 thế kỉ, cũng như vạch ra các con đường thương
mại liên vùng, liên tỉnh thời các chúa Nguyễn và vua Nguyễn.
2.2.2. Các bài viết trong các kỷ yếu hội thảo khoa học, tạp chí có liên quan
Trong Kỷ yếu hội thảo khoa học (2008) “Chúa Nguyễn và vương triều
Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỉ XVI - đến thế kỉ XIX” đã có nhiều bài viết
liên quan tới đề tài: như bài viết của Nguyễn Quang Ngọc với “Nguyễn Phúc
Nguyên: vị chúa của những kỳ công mở cõi đầu thế kỉ XVII, Nguyễn Thị Huê với
“Sự thịnh suy của hoạt động ngoại thương ở Đàng Trong thế kỷ XVII - XVIII”,

7


Phạm Thị Ưng, Lê Trí Duẩn với “Vai trò một số vị chúa tiêu biểu dưới thời các
chúa Nguyễn”, Andrew Hardy với “Nguồn” trong kinh tế hàng hóa ở Đàng Trong,
Đỗ Bang “Đô thị Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn”…đã cung cấp cho tôi
nguồn tư liệu quan trọng và những quan điểm, đánh giá nhìn nhận mới về chúa
Nguyễn trong lịch sử để từ đó làm cơ sở cho người nghiên cứu sau này có điều kiện
đi sâu tìm hiểu về các vấn đề liên quan tới thời chúa Nguyễn, trong đó đặt biệt là
vấn đề kinh tế.
Ngoài ra, còn phải kể đến các bài viết của các nhà nghiên cứu công bố trên
tạp Nghiên cứu lịch sử, tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, tạp chí Huế xưa & nay
như: Nguyễn Trọng Văn, Mai Phương Ngọc “Quan hệ thương mại của Đàng Trong
với người Hoa thế kỉ XVI - XVIII”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Đỗ Bang với “Phố
cảng Thanh Hà - Bao Vinh trong tiến trình lịch sử Phú Xuân - Huế thế kỷ XVII XIX”, Tạp chí Nghiêncứu lịch sử, Dương Văn Huy “ Quản lý ngoại thương của
chính quyền Đàng Trong thế kỷ XVII-XVIII”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á.
Nhìn chung, các công trình trên dù ở những góc độ nghiên cứu khác nhau
đều góp phần làm rõ hoạt động về thương mại, kinh tế Đàng Trong nói chung và

vùng Thuận- Quảng nói riêng thế kỉ XVI - XVIII. Tuy nhiên, chưa có một công
trình nào đề cập một cách toàn diện và hệ thống về kinh tế thương nghiệp ở Thuận Quảng từ năm 1558 đến 1774. Đây là nhiệm vụ cơ bản mà tác giả đặt ra và giải
quyết trong Luận văn này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài đó chính là tình hình kinh tế thương
nghiệp của vùng Thuận - Quảng dưới thời chúa Nguyễn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: vùng Thuận - Quảng xưa, ngày nay bao gồm các tỉnh
Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng, Quảng Ngãi,
Bình Định, khảo sát và nghiên cứu về tình hình thương nghiệp diễn ra ở xứ Đàng
Trong. Tuy nhiên khi nghiên cứu không tách rời các hoạt động diễn ra trong cả đất
nước ta.
- Về thời gian: từ năm 1558, khi chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng

8


Thuận Hóa đến năm 1774, trước khi quân Trịnh vào đánh chiếm Phú Xuân.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục tiêu nghiên cứu
Dựa trên nguồn tư liệu sưu tầm được, luận văn tập trung nghiên cứu, cung
cấp sự hiểu biết một cách có hệ thống về tình hình nội thương và ngoại thương vùng
Thuận - Quảng thời các chúa Nguyễn. Phản ánh một cách sinh động về các hình
thức mua bán, trao đổi hàng hóa, phương tiện đi lại để buôn bán, các đối tượng
tham gia buôn bán, các yếu tố tác động đến thương mại…Để từ đó có cách nhìn,
đánh giá đúng đắn hơn về đặc điểm cũng như vai trò và tác động của nó đối với
vùng Thuận Quảng nói riêng và xứ Đàng Trong nói chung.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài thực hiện các nhiệm vụ sau:

Một là, sưu tầm, tập hợp, nghiên cứu, đánh giá các tài liệu liên quan đến kinh
tế thương nghiệp Thuận- Quảng và các tài liệu viết về kinh tế Đàng Trong từ năm
1558 đến 1774.
Hai là, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, đánh giá tài liệu sau đó chọn lọc tài liệu
và thông tin liên quan đến đề tài.
Ba là, hệ thống hóa nội dung cho phù hợp với từng giai đoạn, từng khía cạnh
của đề tài để đi sâu tìm hiểu về kinh tế thương nghiệp và vai trò của nó đối với vùng
Thuận-Quảng.
Bốn là, rút ra kết luận, nhận xét, đánh giá về kinh tế thương nghiệp cũng như
vai trò của nó đến nền kinh tế Đàng Trong từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XVIII. Từ đó
thấy tầm quan trọng của kinh tế thương nghiệp đối với sự phát triển và ổn định đất
nước Đàng Trong.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
Nguồn tài liệu được sử dụng để thực hiện trước tiên là các thư tịch cổ viết về
vùng đất Thuận Hóa thế kỉ XVII - XVIII như: Phủ biên tạp lục của Lê Qúy Đôn,
Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn…Đây là những cuốn sách có
nhiều thông tin cụ thể, quý giá có liên quan đến nội dung chúng tôi cần tìm hiểu.
Các công trình chuyên khảo như: Phố cảng vùng Thuận quảng thế kỉ XVII - XVIII

9


của tác giả Đỗ Bang… phản ảnh một khía cạnh nhất định tình hình kinh tế, xã hội
của vùng Thuận- Quảng.
Sự phát triển của thương mại ở Đàng Trong đã thu hút nhiều các thuyền
buôn, thương nhân nước ngoài đến buôn bán. Những ghi chép của họ đã cung cấp
nhiều thông tin quan trọng về thương nghiệp ở Đàng Trong. Phải kể đến như: “Xứ
Đàng Trong năm 1621” (Nxb TPHCM) của nhà truyền giáo Cristophoro Borri,
“Những người Châu Âu ở nước An Nam” của tác giả Chales Maybon…là một trong

những nguồn tư liệu tham khảo chính phục vụ cho luận văn. Bên cạnh đó, chúng tôi
còn sử dụng các bài nghiên cứu được in trên các tạp chí, hay các tài liệu tiếng anh,
internet có liên quan đến vấn đề này.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện luận văn này, chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, kết
hợp với phương pháp logic. Trình bày theo từng vấn đề, trân trọng tính khách quan
của lịch sử. Khi xử lí tài liệu chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, đối
chiếu để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đi vào nghiên cứu một cách tương đối toàn diện, có
hệ thống về thương nghiệp vùng Thuận Quảng thời chúa Nguyễn từ năm 1558 đến
năm 1774.
Luận văn cung cấp những tư liệu mới về thương mại như các chợ làng, các
trung tâm trao đổi mua bán, hoạt động nội thương, các thương cảng. Phân tích một
cách có hệ thống những thương phẩm được buôn bán, trao đổi trong thương mại ở
vùng Thuận Quảng, không những các mặt hàng bản địa mà còn cả các mặt hàng
trao đổi với bên ngoài. Đồng thời luận văn cũng đi sâu chỉ ra được đặc điểm, tác
động và vai trò của thương nghiệp đối với vùng và đối với cả nước.
Luận văn là nguồn tài liệu bổ sung vào các công trình nghiên cứu lịch sử về
mặt kinh tế. Là tài liệu tham khảo cho sinh viên ngành lịch sử ở các trường Cao
đẳng, Đại học.
Luận văn còn là nguồn tài liệu tham khảo cho việc hoạch định các chính sách
về phát triển thương mại của vùng, đặc biệt là việc sản suất và phát triển có trọng

10


tâm các mặt hàng có tiềm năng trong trao đổi mua bán.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục;

nội dung của luận văn được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Vài nét về vùng đất và con người Thuận Quảng dưới thời chúa Nguyễn.
Chương 2: Tình hình thương nghiệp ở Thuận Quảng từ năm 1558 - 1774.
Chương 3: Đặc điểm, vai trò và tác động của thương nghiệp Thuận Quảng
thời chúa Nguyễn.

11


Chương 1: VÀI NÉT VỀ VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI THUẬN QUẢNG
DƯỚI THỜI CHÚA NGUYỄN
1.1. Điều kiện tự nhiên
Đàng Trong còn gọi là Nam Hà, xuất hiện từ thời Trịnh - Nguyễn phân tranh
thế kỷ XVII. Và vùng đất Thuận - Quảng, chỉ phần lãnh thổ Đại Việt từ nam sông
Gianh (tỉnh Quảng Bình hiện nay) trở vào tới Bình Định. Vùng đất Đàng Trong của
các chúa Nguyễn là “một dải đất dài và hẹp, nằm giữa núi và biển. Địa hình của
vùng đất này có hai đặc điểm: thứ nhất là dãy Trường Sơn, phủ đầy rừng rậm, chạy
suốt chiều dài của nước này, và càng xuống phía nam càng thấp dần. Thứ hai là dãy
núi đã bị nhiều con sông nước chảy mạnh và mũi núi cắt ngang làm thành một số
lưu vực nhỏ và hẹp, ít gắn với nhau về mặt địa lý”[65, tr. 21].
Xứ Đàng Trong theo Li Tana, được chia thành ba vùng tự nhiên khác nhau.
Hai vùng đầu có những diện tích tương đối rộng thích hợp với nông nghiệp. Vùng
thứ nhất, ngày nay là Quảng Nam, là một đồng bằng phì nhiêu, khoảng 1.800 cây số
vuông. Nước do sông Thu Bồn và nhiều nhánh của con sông này cung cấp. Vùng
thứ hai tương ứng với đồng bằng Bình Định trù phú ngày nay, có tổng diện tích là
1.550 cây số vuông, có hai dãy núi khác nhau bao quanh. Hai thung lũng của vùng
đất này sử dụng nước của hai con sông Đà Rằng và Lại Giang. Vùng thứ ba gồm ba
thung lũng thông thương với nhau một cách dễ dàng, một vùng khác biệt”.[65,
tr.22]
Về vị trí của xứ Đàng Trong, hướng Nam giáp vĩ tuyến 11, hướng Bắc giáp

xứ Đàng Ngoài, hướng Đông giáp biển Đông và hướng Tây giáp với nước Lào. Xứ
Đàng Trong có chiều dài hơn một trăm dặm nằm theo dọc bờ biển, từ vĩ tuyến 11,
cho tới khoảng vĩ tuyến 17, chỗ ranh giới giữa Đàng Trong với Đàng Ngoài. Chiều
rộng không lớn lắm, nơi có chiều ngang hẹp nhất chỉ khoảng 40 km, đất bằng
phẳng, phía Đông là dải đồng bằng nằm sát biển, còn phía tây là dãy núi chạy dài.
Vùng Thuận Quảng, từ Nam sông Gianh cho tới Quy Nhơn có địa hình đa dạng,
phức tạp. Núi cao, sông suối nhiều và dốc, đồng bằng hẹp lại có những dải cát trắng
ven biển, vịnh biển và đầm phá mênh mông. Vì vậy mà thảm động, thực vật cũng
rất phong phú, nhiều chủng loại của đồng bằng, biển cả, đầm phá, sông suối, núi

12


rừng, gò đồi…
Do ở vào giữa vĩ tuyến 11 và 17, do đó, mùa hạ kéo dài liên tục, gây nóng
bức. Mùa đông, mưa liên tục với lượng mưa lớn, do đó hay có lũ lụt gây thiệt hại rất
lớn: “Cứ mười lăm hôm lại xảy ra một trận lụt và mỗi lần kéo dài ba ngày” [16,
tr.10]. Lũ về mang theo một lượng phù sa lớn bồi đắp cho đồng ruộng làm cho đất đai
phì nhiêu, cây cối tốt tươi, lúa tốt được mùa. Nên người dân nơi đây họ rất mong lũ
về, họ chấp nhận sống với lũ vì sau mỗi đợt lũ về mang lại cho họ một mùa vụ bội
thu, năng suất lúa cao. Như Christophoro Borri nói: “Mọi người ở đây đều mong nước
lũ, không những để được mát mẻ và dễ chịu, mà còn để cho đồng ruộng được mầu
mỡ. Thế nên khi thấy mùa nước tới, họ để lộ hẳn sự vui mừng và thích thú: họ thăm
hỏi nhau, chúc mừng nhau, ôm nhau hò hét vui vẻ và nhắc đi nhắc lại “đã đến lụt, đã
đến lụt” có nghĩa là nước đã tới, nước đã tới rồi. Nói tóm lại là không ai là không
bày tỏ niềm vui, từ kẻ già đến chúa cũng vậy .[16, tr.10]
Xứ Đàng Trong chia thành năm tỉnh. Tỉnh thứ nhất là trung tâm của Đàng
Trong - nơi chúa ở ngay sát Đàng Ngoài là Thuận Hóa. Tỉnh thứ hai là Cacciam
(Quảng Nam), nơi hoàng tử trấn thủ. Tỉnh thứ ba là Quamguia (Quảng Ngãi). Thứ
tư là Quingnim (Quy Nhơn), nguời Bồ đặt tên là Pulucambis và tỉnh thứ năm là

Renran (Phú Yên) [16, tr.5]
Vị trí Thuận Quảng nằm ở khoảng giữa đất nước ta, dọc theo bờ biển miền
Trung, từ Quảng Bình vào đến giáp Phú Yên, thuộc khu vực Trung Trung Bộ; chiều
dài gần 800 km, từ bắc vĩ độ 12,54 đến 18 độ. Phía Tây là dãy Trường Sơn và cao
nguyên Trung Bộ, phía đông là biển. Đây là đoạn bờ biển khúc khuỷu, có nhiều cửa
sông tạo thành nhiều vịnh sâu kín gió. Dọc theo bờ biển hiện nay đã xây dựng nhiều
bãi tắm đẹp. Đoạn bờ biển này có nhiều bãi cát và cồn cát kéo dài, một phần được
phù sa sông bồi đắp, tạo thành chuỗi đồng bằng hẹp ven biển - chân núi. Đoạn bờ
biển này có nhiều sóng to gió lớn nên hình thành nhiều đụn cát cao. Dài nhất là đầm
phá Tam Giang, rộng nhất là đầm Cầu Hai ở phía Bắc. Phá Trường Giang - sông Cổ
Cò ở giữa và đầm Thị Nại, đầm Ô Loan ở phía Nam.
Đây còn là khu vực nằm giữa hai đèo cao: đèo Ngang (tức Hoàng Sơn) ở
phía Bắc và đèo Cả (tức Đại Lãnh) ở phía Nam. Ngoài ra, trên dải đất “gập ghềnh

13


và dằng dặc” của khúc ruột miền trung còn chứa đựng cả điểm tận cùng của Trường
Sơn Bắc, đó là dãy Bạch Mã - Hải Vân, cao 1.444m, chân xọac ra tận biển Đông và
đầu đội đến chín tầng mây, chia cắt khu vực thành hai nửa Bắc, Nam với đặc điểm
khí hậu phần nào khác biệt, được một nhà thơ lớn của đất Bắc hồi đầu thế kỷ XX là
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu cảm nhận và khái quát hóa một cách tài tình trong câu
thơ: “ Hải Vân đèo lớn vừa qua, mưa xuân ai đã đổi ra nắng hè” [7, tr.28]
Dọc duyên hải có nhiều mỏm núi ăn ra tận biển thành các đèo như: Đèo
Ngang, đèo Hải Vân, đèo Cù Mông, Đại Lãnh…tạo thành địa giới của nhiều tỉnh.
Ngoài khơi có nhiều đảo và bán đảo như: Mũi Ròn, mũi Lài, đảo Cồn Cỏ, mũi Chân
Mây, bán đảo Sơn Trà, Cù Lao Chàm, Cù Lao Ré, mũi Ba Làng An, bán đảo
Phương Mai…Dọc theo bờ biển có nhiều hải cảng, lớn nhất là Đà Nẵng và Quy
Nhơn [11, tr.11]
Vùng Thuận - Quảng cũng có nhiều sông, phát nguyên từ dãy Trường Sơn và

cao nguyên phía Tây. Sông ngắn, độ dốc cao đổ ra biển Đông, tạo thành nhiều cửa
khẩu và thương cảng. Sông lớn nhất là sông Gianh, sông Nhật Lệ, sông Côn…Đây
cũng là nơi đã hình thành nhiều làng mạc, trung tâm thương nghiệp và phố cảng
(ven sông). Từ đầu thế kỉ XVII, Alexandre De Rhose cũng đã ghi nhận lợi ích của
sông ngòi Đàng Trong như sau: “Đàng Trong được dẫn nước bằng 24 con sông
đẹp. Nó mang đến một sự tiện lợi kỳ diệu cho việc đi lại trên sông trong toàn xứ sở,
nó còn tạo ra sự thuận tiện cho viêc buôn bán và du lịch”. [Dẫn theo 11, tr.12]
Vùng Thuận - Quảng, khí hậu chia làm hai mùa rõ rệt. Mùa khô từ tháng 2
đến tháng 7. Mùa mưa từ tháng 8 đến tháng 1. Việc sản xuất hàng hóa và mua bán
ngoài trời tấp nập thường diễn ra vào mùa khô khi trời tạnh ráo. Vào mùa mưa có
kèm theo bão lụt, tiếp đó là rét buốt nên chợ búa thưa thớt, phố xá vắng khách, các
thuyền buôn rời bến cảng để đưa hàng về nước.
Đầu thế kỷ XVII, khi có mặt ở Thuận - Quảng, Cristoforo Borri cho biết khí
hậu ở đây như sau:
Nếu trong mùa hè bao gồm các tháng 6,7,8 xứ này nóng vì ở trong vùng
nhiệt đới và mặt trời ở vào đỉnh điểm của nó thì trái lại tháng 9,10,11 là mùa thu,
cái nóng hết đi, không khí trở nên điều hòa nhờ những cơn mưa liên tục từ trên
14


miền núi cao, các dòng nước tuôn trào tràn ngập vương quốc, chảy ra đến tận biển.
Trong 3 tháng này mùa đông phân biệt với các mùa khác trong năm. Cuối cùng vào
tháng 3,4,5 người ta thấy hiệu quả của mùa xuân. Tất cả đều xanh tươi và nở hoa
[16, tr 10].
Điều kiện tự nhiên đó đã ảnh hưởng đến đời sống của cư dân và hoạt động
kinh tế của vùng Thuận - Quảng. Đặc điểm tự nhiên ở đây không giống như đồng
bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long. Là dải đồng bằng chật hẹp và được bồi
đắp bởi các con sông ngắn dốc, độ phì nhiêu cũng ít màu mỡ đã trở thành những
khó khăn ban đầu của cư dân vùng Thuận - Quảng. Nhưng cũng chính điều đó để
thấy rõ sự nỗ lực của các chúa Nguyễn trong việc xây dựng Đàng Trong nói chung

và vùng Thuận - Quảng nói riêng trở thành một khu vực trù phú, phát triển cả nông
nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp.
1.2. Tài nguyên thiên nhiên
Xuất phát từ điều kiện tự nhiên đã hình thành nên một vùng Thuận - Quảng
với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng. Hai xứ Thuận, Quảng giàu
có, giàu cả về lâm sản, nông sản và hải sản, nhất là xứ Quảng Nam. Lại có nơi đất
có vàng, sắt. Trong Phủ biên tạp lục của Lê Qúy Đôn viết:
Những sản vật quý phần nhiều xuất từ miền Nam…Xứ Quảng Nam (kể cả
Gia Định) là đất phì nhiêu nhất thiên hạ…Ở phủ Thăng Hoa, phủ Điện Bàn, đồng
ruộng rộng rãi ruộng lúa tốt…Ba phủ Quy Nhơn, Quãng Ngãi, Gia Định thì thóc
gạo nhiều không kể xiết, nhất là Gia Định đất đã màu mỡ mà không lo cái nạn hạn,
lụt…Ở Gia Định có nơi cấy một hộc thóc giống như gặt được 100 hộc thóc, có nơi
ruộng không cần cày, chỉ phát cỏ rồi cấy, cấy một hộc thóc giống gặt được 300 hộc
thóc” và “một tiền quý mua được 16 đấu thóc, bằng 30 bát quan đồng. Giá thóc rẻ
chưa nơi nào như thế. Gạo nếp, gạo tẻ đều trắng trẻo, tôm cá rất to béo, ăn không
hết” và : “Trước kia sự buôn bán với Đồng Nai được lưu thông, gạo ở Phú Xuân 10
thăng là một hộc (bằng 20 bát quan đồng), giá chỉ 3 tiền, có thể đủ một người ăn
trong một tháng. [52, tr.476]
Ở phủ Quảng Ngãi thì xã Phú Xuân huyện Bình Sơn, xã Bình Khang huyện
Chương Nghĩa, đất đai đều gần sông, đất, nước tốt lành, đồng điền rộng cao mà

15


bằng phẳng, ước hơn nghìn mẫu, cũng gọi là Tiểu Đồng Nai. Cũng theo Lê Qúy
Đôn, trên các cánh đồng ở Đàng Trong, người ta đã cấy đến 26 giống lúa nếp và 23
giống lúa tẻ.
Trong sách Hải Ngoại Ký Sự, Hòa thượng Thích Đại Sán viếng Hội An,
Thuận Hóa đời chúa Hiển Tông viết: “Hai đồng ruộng lúa xanh xanh chờ trổ bông,
hỏi thăm nghe nói ruộng không bỏ phân, một năm làm đến ba mùa, cũng khá tốt.

Rừng cây trông hút mắt. Nơi làng xóm ở, nhà tranh phên trúc, ngang dọc như bàn
cờ, giống cây trồng có tre, mít, dừa, cam, hóa có thạch lựu, dinh hương, mộc lan,
hoa lài”…[92, tr.32]
Ngoài ngũ cốc, Thuận Quảng sản xuất nhiều cau, hạt tiêu, bo bo, hạt mè,
đường cát, đường phổi. Về lâm sản, dãy núi Trường Sơn sản xuất trầm hương, kỳ
nam, sừng tê, ngà voi, sáp ong, dầu rái, cây lụi tre tư lao (dùng làm cán dao)…Kỳ
nam, trầm hương là hai thứ người đương thời rất quý vì chữa được nhiều bệnh, ở
miền núi các phủ Phú Yên, Quy Nhơn, Diên Khánh, Bình Khương đều có. Chúa
Nguyễn có đặt đội An Sơn hằng năm cứ tháng 2 thì đi kiếm, tháng 6 thì đem về.
[52, tr.477]
Sự giàu có về tài nguyên phải kể đến ở đây là các núi vàng. Lê Qúy Đôn
chép lại trong Phủ biên tạp lục: “Trà Tế cũng như Trà Nô là những ngọn núi có kim
khí rất vượng, thường có một đường trong đất đi xiên xéo ra, khi vàng bốc nổi lên
trên cũng có đường đi thẳng, đường đi ngang qua núi khác. Núi nào có vàng thì đất
mềm, không có thì đất cứng” [26, tr.285 ]. Hầu như dinh phủ nào thuộc Thuận
Quảng bấy giờ đếu có núi sản vàng, dân cư nhiều địa phương đã biết đến nghề khai
thác vàng và thu lợi từ tài nguyên này.
“Xã Nam Phố hạ huyện Phú Vang, có một dải núi đất, gồm có bốn ngọn là
ngọn La Thiết, ngọn Cây Trâm, ngọn cây Bùi, ngọn Đồng Giá, chân núi đều sản
xuất vàng, một gánh đất mới được một phân vàng, vàng rất tốt, đáng 9, 10
tuổi”…Xứ Quảng Nam có nhiều núi sản suất vàng…Các núi Trà Nô, Trà Tế nguồn
Thu Bồn huyện Duy Xuyên phủ Thăng Hoa sản vàng…Dân thuộc đến đầu núi tìm
thấy mạch, đào lấy đất, làm nhà để che, chứa chất thành đống, múc nước dội vào,
chỗ đất đào hoặc sâu đến hơn nghìn thước. Rửa đãi một ngày, thường được vàng

16


vụn đầy một bong bóng trâu, nộp vào trường để nấu đúc…Phủ Quy Nhơn cũng
nhiều núi có vàng, dân thuộc Kim hộ đi khai thác và nộp thuế vàng cho phủ chúa

khá lớn…”[26, tr.285,286,287].
Núi rừng ở đây còn sản nhiều lâm sản quý giá phục vụ tốt cho đời sống con
người như: làm thuốc chữa bệnh, cung cấp thức ăn, vật liệu xây dựng nhà cửa,
phương tiện đi lại, làm nguyên liệu cho các nghề thủ công ra đời và phát triển. Có
rất nhiều sản phẩm sau này trở thành mặt hàng xuất khẩu quan trọng khi giao
thương phát triển.
Gỗ là thứ người Việt rất cần dùng thì Thuận, Quảng sản xuất rất nhiều và
nhiều thứ quý. Theo Phủ biên tạp lục thì các đầu nguồn từ Bố Chính trở vào đều có
nhiều thứ gỗ tốt. Các đầu nguồn huyện Khương Lộc có “gỗ tán” bền sắc đen như
sắt, dân địa phương dùng làm cột nhà, “gỗ bời lời” to mà sắc trằng dùng làm ván
cách…Mỗi năm tháng 8, khách buôn đóng bè chở xuống bán từng cây hoặc từng
súc lớn nhỏ, có đến nghìn, trăm. Như làm một ngôi nhà 5 gian gỗ rất tốt cũng không
quá 30 quan, dùng gỗ tạp xen vào thì 17, 18 quan . Còn đóng thuyền thì dùng “gỗ
huyện” rất dài và to, bề rộng, bề dài đều gấp đôi gỗ khác, sắc đỏ, chắc nhẹ hoặc
dùng “gỗ gụ”, “gỗ sến” còn “gỗ lim” thì quá nặng không ai dùng.
Gỗ kiền kiền cứng, bền, lâu hư chôn sâu xuống đất mấy thước, 100 năm
cũng không mục, ở đầu nguồn Nam Bố Chính và các huyện Khương Lộc, Quảng
Điền, Phú Vinh đều có. Nhà cửa, lầu gác, ghe thuyền của họ Nguyễn đều dùng gỗ
kiền kiền. “Gỗ sao” có thể làm vách thuyền, loại sản xuất đầu nguồn huyện Phú
Vinh, huyện Hương Trà nhẹ, vào nước thì nổi, dùng làm thuyền buôn và thuyền
đánh cá, dùng không quá 10 năm, như loại sản xuất ở Bình Khương và Gia Định rất
tốt, bền, đóng thuyền có thể lâu được 60 năm nhưng tính nặng, không nổi. Gỗ kiền
kiền nặng mà cứng, không chịu sóng gió, chỉ làm thuyền đi sông mà thôi, còn gỗ
sao chịu sóng gió có thể làm thuyền đi biển được. Họ Nguyễn có xây dựng cung
điện, nhà cửa thường lấy gỗ ở các phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi và Gia Định. Phủ
Gia Định sản xuất nhiều gỗ tốt, các xứ, nguồn, thuộc huyện Phước Long, huyện Tân
Bình, có nhiều gỗ sao, gỗ trắc, gỗ giáng hương, gỗ gụ. Nhưng loại gỗ tốt nhất của
hai xứ Thuận - Quảng là “gỗ hoa lệ” tục gọi là “gỗ trắc mật” thớ nó nhỏ mà trơn

17



nhuận, có mùi thơm như mía nướng, sắc nó ban đầu đỏ, để lâu thành đen, bền,
cứng, không ngọt người ta thường dùng làm rương, hòm, ghế, bàn. Đòn kiệu và các
đồ dùng; có thứ tên là thai bái sắc trắng như ngà voi, uốn không gãy. Lại có cây mít
trồng lâu năm thành gỗ tốt, sắc vàng dùng làm cột nhà hoặc làm ván, làm
vách…[52, tr.478-479]
Quả cây có công dụng về tiểu công nghệ, ở tổng Bái trời có cây dầu sơn do
người trồng, quả nó như quả hồng, lấy hột giả nhỏ, chưng sơ qua, rồi ép lấy dầu mà
sơn.[52, tr.479]
Các chúa Nguyễn có đặt hai đội Dầu sơn, gồm 60 người miễn trừ sai dư, lao
dịch, để lấy dầu sơn đem nạp. Ở Gia Định, đất ven vùng sản xuất nhiều sơn, từ thời
chúa Túc Tông đã mộ 500 dân, đặt làm 11 thuyền gọi là Ô Tất để lấy sơn đem nạp
(mỗi năm thu được 6528 cân sơn). Nghề nông là gốc, nhưng dọc theo bờ biển nhân
dân cũng sống về nghề chài lưới. Đánh cá, làm mắm, đem lại những nguồn lợi lớn
cho các miền duyên hải. Biển Thuận, Quảng còn có đồi mồi, xà cừ, các đảo trong
biển Quảng Nam, Bình Khương có yến sào. Ở Hà Tiên có huyền phách sắc đen như
sắt, người ta nói dùng nó tránh được gió độc, nên thường dùng làm tràng hạt.[52,
tr.479].
Với những điều kiện tự nhiên thuận lợi về vị trí địa lý kết hợp với sự phong
phú về tài nguyên thiên nhiên, mặt hàng nông sản và thủ công là một trong những
yếu tố thúc đẩy sự phát triển của kinh tế hàng hóa và thương nghiệp. Đàng Trong
mà cụ thể là vùng đất Thuận Quảng, hoạt động thương mại cũng bị chi phối bởi khí
hậu, thời tiết khá đậm nét. Việc sản xuất hàng hóa và mua bán ngoài trời thường
diễn ra tấp nập vào mùa khô khi trời tạnh ráo. Vào mùa mưa hay kèm theo bão lụt,
nên chợ búa thưa thớt và phố xá thường vắng khách hơn, các thuyền buôn nước
ngoài sau khi đã mua gom đầy hàng hóa bắt đầu rời cảng đưa hàng hóa về nước, tạo
thành mùa mậu dịch trong năm.
1.3. Tình hình chính trị - xã hội
Cho đến giữa thế kỷ XVIII, họ Nguyễn đã làm chủ một vùng đất rộng lớn từ

nam dải Hoành Sơn cho đến mũi Cà Mau. Hình thành 12 đơn vị hành chính gọi là
dinh, trấn. Vùng Thuận Quảng cũ chia làm 6 dinh: Bố Chính, Quảng Bình, Lưu

18


Đồn, Cựu dinh, Chính dinh và Quảng Nam. Vùng đất mới chia làm 6 dinh: Phú
Yên, Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ (Vĩnh Long), một
trấn phụ thuộc là Hà Tiên. Mỗi dinh quản một phủ, dưới phủ có huyện, tổng, xã
(hay phường, thuộc). Riêng dinh Quảng Nam quản 3 phủ: Thăng Hoa, Quảng Ngãi,
Quy Nhơn. Thủ phủ ban đầu của chúa Nguyễn đóng ở xã Ái Tử thuộc Cựu dinh
(Quảng Trị ngày nay), sau nhiều lần dịch chuyển mới định vị tại Phú Xuân (Huế
ngày nay).
Dưới thời Nguyễn Hoàng, bộ máy cai trị ở Thuận - Quảng chủ yếu gồm các
quan lại chúa Trịnh cắt đặt và chịu sự chi phối của chính quyền Đàng Ngoài. Đến
năm 1614, chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho thải hồi các quan lại do họ Trịnh cử, cải
tổ lại bộ máy chính quyền. Ở trung ương là Chính Dinh đặt Tam ty phụ trách tất cả
công việc: Ty Xá sai (phụ trách hành chính và tư pháp) do Đô tri đứng đầu, Ký lục
giúp việc; Ty Tướng thần lại (phụ trách về tài chính, thu thuế, phát lương) do Cai bạ
đứng đầu; Ty lệnh sử (phụ trách về tế tự, nghi lễ) do Nha úy đứng đầu. Mỗi ty có
những nhân viên giúp việc gọi là Câu kê (3 người), Cai hợp (7 người), Thủ hợp (10
người), Ty lại (40 người). Ngoài Tam ty, Nguyễn Phúc Nguyên còn đặt thêm Ty
Nội lệnh sử kiêm coi các thứ thuế và 2 Ty Tả Hữu lệnh sử chia nhau thu tiền sai dư
ở hai xứ. Tại các dinh khác do chức Trấn thủ đứng đầu, do Cai bạ và Ký lục giúp
việc, và cũng có các Ty phụ trách công việc, tên gọi các ty cũng giống như ở Chính
dinh, nhưng thường không đặt đủ 3 ty như ở Chính dinh. Các dinh Quảng Nam,
Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên…chỉ có 2 Ty là Xá sai và Tướng thần lại; dinh
Phiên Trấn chỉ có Ty Tướng thần lại; dinh Cựu chỉ có Ty Lệnh sử. Dinh chia thành
phủ do Tri phủ đứng đầu. Ở một vài phủ đặc biệt như Quãng Ngãi, Quy Nhơn có
đặt chức Tuần phủ. Phủ chia thành huyện (hoặc châu) do Tri huyện (hoặc Tri châu)

đứng đầu. Huyện chia thành tổng do Cai tổng đứng đầu. Dưới châu là thuộc do Cai
thuộc đứng đầu. Tổng chia thành xã, là hành chính cơ sở, do Xã trưởng đứng đầu.
Buổi đầu, nhân dân Đàng Trong quen gọi dòng họ thống trị là Chúa, các
chúa Nguyễn vẫn chỉ xưng Quốc công. Đến năm 1692, Nguyễn Phúc Chu chủ
trương tách Đàng Trong thành khu vực riêng, tự xưng Đại Việt Quốc vương, nhưng
việc không thành. Nối tiếp ý đồ, năm 1744, Nguyễn Phúc Khoát tự xưng vương, lập

19


thành triều đình, đổi Phú Xuân làm “Đô thành”, cho xây dựng nhiều cung điện, dinh
thự làm nơi triều hội. Các Ty bị bãi bỏ, thay bằng các Bộ: Ty Xá sai biến thành Bộ
Lại (lấy từ Ký lục và thuộc viên) và Bộ Hình (lấy từ Đô tri và thuộc viên), Ty lệnh
sử biến thành Bộ Lễ (lấy từ Nha úy và thuộc viên), Ty Tướng thần lại biến thành Bộ
Hộ (lấy từ Cai bạ phó đoán sự và thuộc viên), cùng với hai Bộ mới đặt là Bộ Công
và Bộ Binh, họp thành Lục Bộ, do Thượng thư đứng đầu. Tổ chức cấp Bộ cũng theo
như cách tổ chức của nhà Lê cũ. Trên Lục Bộ có 4 viên quan cao cấp được gọi là
Tứ trụ đại thần (đặt từ thời Nguyễn Phúc Lan) gồm: Tả nội, Tả ngoại, Hữu nội, Hữu
ngoại, chọn từ những người thân tín và công thần cũ của họ Nguyễn. Lấy văn chức
đặt thành Hàn lâm viện. Các đơn vị hành chính địa phương vẫn gọi là Dinh do Trấn
thủ đứng đầu, có các Cai bạ và Ký lục giúp việc; bên dưới đặt 1-2 ty chuyên trách,
cùng với số nhân viên tùy thuộc. Mỗi dinh quản hạt một phủ do Tri phủ đứng đầu,
phụ thuộc vào Trấn thủ. Ở những phủ không là trị sở của dinh Trấn thủ thì đặt thành
Trấn do Đô đốc đứng đầu. Phủ chia thành huyện (hoặc châu), do Tri huyện (hoặc
Tri châu) đứng đầu; thuộc viên có Đề lại, Thông lại, Huấn đạo, Lễ sinh. Dưới huyện
là tổng do Cai tổng đứng đầu. Dưới Tổng là xã do Xã trưởng và Tướng thần phụ
trách. Số Xã trưởng và Tướng thần nhiều hay ít tùy thuộc theo số dân trong xã. Tại
miền núi, dưới châu là thuộc do Cai thuộc hoặc Ký thuộc (tùy theo thuộc lớn nhỏ)
đứng đầu. Ngoài ra, ở miền núi và ven biển còn có các đơn vị cơ sở là thôn,
phường, nậu, man. Bên cạnh quan chức cai trị, ở phủ, huyện, châu, tổng, thuộc,

chúa Nguyễn cho đặt ngạch quan chuyên thu thuế, tổ chức theo ngành dọc gọi là
Bản đường quan.
Trên cơ sở tổ chức của bộ máy chính quyền, các chúa Nguyễn đã ra sức thực
hiện các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, tích cực
khai khẩn, mở mang ruộng đất. Nhưng dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, ông
lại lấy ngoại thương làm điểm nhấn cho nền kinh tế ở Thuận - Quảng. Cũng chính
điều đó giải thích cho sự có mặt của các thương nhân nước ngoài như Nhật Bản, Bồ
Đào Nha, Trung Quốc… đến buôn bán ở đây. Sự phồn thịnh của các thương cảng
như Thanh Hà, Hội An, Nước Mặn, là minh chứng cho thấy rõ nét thời kỳ cực thịnh
của vùng Thuận - Quảng dưới thời các chúa Nguyễn. Và những bước đi táo bạo này
đã đưa vùng Thuận - Quảng phát triển thịnh vượng, dùng kinh tế thương nghiệp để
20


đối trọng với Đàng Ngoài. Và cũng là lần đầu tiên, cư dân một nước có truyền
thống nông nghiệp lại sống chủ yếu bằng thương mại và cũng là lần đầu tiên Việt
Nam được thế giới biết đến một cách rộng rãi.
Đàng Trong là vùng đất mới khai phá, đất đai phì nhiêu và còn hoang hóa
nhiều, người dân không lo về nạn thiếu ruộng. Còn về con người, như lời giáo sĩ
Christoforo Borri nhận xét là: “ Người dân ở đây siêng năng, ưa làm lụng, tránh sự
ăn không ngồi rồi. Đàn bà khéo dệt vải lụa và làm bánh trái. Họ đối với người nước
ngoài rất hòa nhã, ân cần” [16, tr.11]. Đất và người là những điều kiện căn bản cho
nền kinh tế của Đàng Trong. Và sự phát triển kinh tế ấy đã khiến một thời gian dài
những mâu thuẫn xã hội ở Đàng Trong được giải quyết. Cuộc sống người dân tương
đối thư thả và các chúa cũng có điều kiện duy trì trật tự xã hội trong một thời gian
dài. Ngay từ thời trị vì của Tiên chúa Nguyễn Hoàng, vùng Thuận Quảng đã bắt đầu
thịnh vượng. Sách Việt Nam khai quốc chí truyện chép: “Năm Mậu Thân (1608),
niên hiệu Hoàng Định thứ 9, các nơi ở Đàng Ngoài thời tiết khô hạn, lúa má cháy
khô, một thưng gạo giá 1 mạch, có nhiều người chết đói, thậm chí có nơi người ta
ăn thịt lẫn nhau. Đói khổ như thế đến hơn một năm. Duy chỉ có hại xứ Thuận

Quảng mưa thuận gió hòa, một đấu gạo giá chỉ 3 tiền, ngoài đường không ai nhặt
của rơi, bốn dân đều được ăn cư lạc nghiệp”. [7, tr.41]
Sách Đại Nam thực lục tiền biên cũng nhận xét tương tự: “Bấy giờ Chúa ở
trấn hơn mười năm, chính sự rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang, nhân dân đều an cư
lạc nghiệp, chợ không bán hai giá, không có trộm cướp. Thuyền buôn của các nước
đến nhiều. Trấn trở nên một nơi đô hội lớn” .[82, tr.129]
Trên vùng đất mới Thuận - Quảng, đời sống văn hóa, xã hội cũng được xác
lập theo kiểu riêng. Sự phân chia giai cấp không rõ nét và khắc nghiệt như ở Đàng
Ngoài; con người sống phóng khoáng, cởi mở, văn hóa đa dạng có sự giao hòa, pha
trộn giữa văn hóa Việt với văn hóa bản địa, đồng thời chịu ảnh hưởng của các luồng
văn hóa ngoại nhập. Lãnh thổ Đàng Trong được hình thành trên cơ sở vùng đất
Thuận - Quảng và lớn mạnh theo đà Nam tiến mạnh mẽ dưới thời các chúa Nguyễn.
Với việc thực hiện các chính sách tích cực, góp phần giúp Thuận - Quảng đủ sức
đối trọng với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài.

21


Trong suốt thế kỷ XVII, dưới thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, chúa
Thượng Nguyễn Phúc Lan, chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần, chúa Nghĩa Nguyễn Phúc
Thái, chúa Quốc Nguyễn Phúc Chu, tình hình xã hội và đời sống nhân dân Đàng
Trong vẫn tiếp tục tốt đẹp. Sử cũ cho biết dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần: “bấy
giờ trong cõi vô sự, thóc lúa được mùa, chúa càng sửa sang chính trị, không xây
đài tạ, không gần con hát đẹp, nhẹ bớt dao dịch thuế má, trăm họ vui vẻ đều khen là
đời thái bình”.[82, tr.129] Còn Nguyễn Phúc Chu thì “chiêu hiền đãi sĩ, cầu lời nói
hay, nạp lời can dán, bỏ xa hoa, bớt chi phí, nhẹ thuế má dao dịch, bớt việc hình
ngục, trăm họ không ai là không vui mừng” [82, tr.146]
Ở một góc độ nào đó có thể nói rằng, Đàng Trong đã hình thành và phát triển
như một vương quốc độc lập, tạo nên một nước Việt Nam mới với những nét văn
hóa phong phú và đa dạng hơn. Thời kỳ hưng thịnh, phát triển nhanh của nền kinh

tế và sự ổn định xã hội của Đàng Trong chỉ kéo dài cho đến những năm nửa đầu thế
kỷ XVIII. Giữa thế kỷ XVIII, hoạt động kinh tế sa sút, đời sống nhân dân bắt đầu
gặp nhiều khó khăn. Người dân nghèo không còn thiết tha với đồng ruộng. Ruộng
đất công hoặc bị người có quyền thế hay nhà giàu chiếm đoạt hoặc người ta cầm cố,
đem bán, thậm chí bỏ hoang do trưng thu thuế má và phụ thu quá nặng nề. Điều này
một mặt bắt nguồn từ chính sách thuế khóa của nhà nước ngày càng nặng nề, phiền
phức, mặt khác còn do sự nhũng nhiễu, hạch sách của đội ngũ quan lại.
Quan lại ở Đàng Trong không được cấp lương bổng nhất định mà chỉ được
ban một số dân phu, được phép thu thêm một số tiền gạo ngoài thuế của dân. Điều
này dẫn đến một thực tế là quan lại tùy tiện đua nhau hạch sách dân, thu lợi cho
mình mà nhà nước không kiểm soát được. Lê Qúy Đôn viết trong Phủ biên tạp lục
rằng: “quan liêu ở Đàng Trong nhũng lạm quá lắm, hết thảy bổng lộc đều lấy vào
của dân, dân không chịu nổi” [26, tr.186-187]. Với chế độ buôn quan bán tước, bọn
quan lại kém tài ít đức dùng tiền của bóc lột để tiến thân trên đường chính trị và bọn
địa chủ phú hào cũng dùng tiền của bóc lột để mua quan tước, gia nhập vào bộ máy
quan liêu. Nửa sau thế kỷ XVIII, sự khủng hoảng của chính thể Đàng Trong càng
trở nên trầm trọng khi triều đình bị lũng đoạn bởi quốc phó Trương Phúc Loan.
“Phúc Loan chuyên quyền hơn 30 năm, tham lam tàn nhẫn, giết chóc rất nhiều. Ăn

22


×