Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

TỔNG QUAN VỀ DU LỊCH VÀ DU LỊCH SINH THÁI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.36 KB, 30 trang )

TỔNG QUAN VỀ DU LỊCH VÀ DU LỊCH SINH THÁI
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DU LỊCH
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Du lịch
Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến ở mọi nền
kinh tế trên thế giới. Nhưng con người vẫn chưa đưa ra được một khái niệm đầy đủ và
toàn diện về du lịch. Ở các quốc gia khác nhau hay đứng dưới các góc độ khác nhau,
khái niệm về du lịch được hiểu theo những cách khác nhau.
Theo cách hiểu truyền thống thì du lịch là hoạt động nhằm thỏa mãn tính tò mò
muốn tìm hiểu thế giới xung quanh, bên ngoài nơi sinh sống của họ, con người muốn
biết những nơi khác có cảnh quan ra sao, muốn biết về dân tộc, nền văn hóa, động vật,
thực vật và địa hình ở những vùng, quốc gia khác.
Dưới đây là một số khái niệm về du lịch dưới các góc độ khác nhau:
Địa lý: Du lịch là sự khởi hành và lưu trú tạm thời của con người ngoài nơi cư trú
thường xuyên của họ.
Kinh tế: Du lịch là tổng hòa việc tổ chức và chức năng của nó không chỉ về
phương diện khách vãng lai mà chính về phương diện giá trị do khách tạo ra và của
những khách vãng lai đến với một túi tiền đầy tiêu dùng trực tiếp, trước hết trong khách
sạn, và tiêu dùng gián tiếp cho các chi phí của họ nhằm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết và
giải trí (Picara Edmol).
Ý nghĩa hiện đại: Du lịch là một hiện tượng thời đại, dựa trên sự tăng trưởng về
nhu cầu khôi phục sức khỏe và sự thay đổi của môi trường xung quanh, dựa vào sự phát
sinh, phát triển tình cảm đối với vẻ đẹp thiên nhiên (Guer Freuler).
Tiếp cận cộng đồng: Du lịch là quan hệ tương hỗ do sự tương tác của 4 nhóm:
khách du lịch, đơn vị cung ứng, chính quyền và dân cư tại nơi du lịch tạo nên
(Coltman).
Một cách tổng quát hơn, du lịch được hiểu là sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm
thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích
phục hồi sức khỏe, nâng cao nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo
việc tiêu thụ một giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hóa và dịch vụ cho các cơ sở chuyên
nghiệp cung ứng.


Hay đó là một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu này sinh
trong quá trình di chuyển và lưu trú tạm thời trong thời gian nhàn rỗi của cá nhân hay
tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khỏe, nâng cao nhận thức tại chỗ về
thế giới xung quanh.
Năm 1963 tại hội nghị Liên hợp quốc về du lịch ở Roma đã đưa ra khái niệm về
du lịch thống nhất của tổ chức du lịch thế giới: Du lịch là tổng hợp mối quan hệ, hiện
tượng và hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay
tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hòa
bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ.
Tóm lại, Du lịch là một hiện tượng kinh tế - xã hội bao gồm 2 nội dung chính:
Kinh tế: Đó là hoạt động mang lại hiệu quả kinh tế từ kinh doanh nguồn tài
nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn.
Xã hội: là hoạt động giúp nâng cao dân trí, phục hồi sức khỏe cộng đồng, giáo dục
tình yêu thiên nhiên, tình yêu đất nước, yêu hòa bình và tình đoàn kết.
1.1.1.2. Khách du lịch
Xuất phát từ định nghĩa về du lịch được xác định tại hội nghị Liên hợp quốc về du
lịch năm 1963 ở Roma, khách du lịch là những người hội tụ 3 tiêu chuẩn:
- Người đi khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình.
- Không phải theo đuổi mục đích kinh tế mà cụ thể là động cơ lao động kiếm tiền.
- Thời gian và khoảng cách từ nơi cư trú đến nơi du lịch, thời gian kéo dài trong
khoảng 24h đến 1 năm.
Khách du lịch là một trong 4 nhóm nhân tố chính, tham gia vào quá trình diễn ra
hoạt động du lịch: khách du lịch, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cư dân tại địa phương
và chính quyền nơi đón khách du lịch.
Khách du lịch thường được chia thành: khách du lịch quốc tế và khách du lịch nội
địa. Tại điều 20, chương IV của Pháp lệnh du lịch Việt Nam ban hành năm 1999:
“Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại Việt
Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam”.
“Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài vào Việt Nam du lịch và công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt

Nam ra nước ngoài du lịch”.
1.1.1.3. Sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch là dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho khách du lịch, được tạo nên
bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng các nguồn
lực: cơ sở vật chất kĩ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng, một quốc gia nào đó.
Nhóm các sản phẩm du lịch: xét theo quá trình tiêu dùng của khách du lịch trong
hành trình du lịch thì chia thành các nhóm sản phẩm chính như:
- Du lịch vận chuyển.
- Du lịch lưu trú ăn uống.
- Dịch vụ tham quan giải trí.
- Hàng hóa tiêu dùng, đồ lưu niệm.
- Dịch vụ khác phục vụ khách du lịch.
Đặc trưng của sản phẩm du lịch:
Sản phẩm du lịch về cơ bản là không cụ thể, thành phần chính là dịch vụ (80 –
90% về giá trị). Do vậy việc đánh giá chất lượng của sản phẩm du lịch thường mang
tính chủ quan, phụ thuộc du khách.
Sản phẩm du lịch thường tạo ra gắn liền với yếu tố tài nguyên du lịch như biển,
núi, rừng, sông, suối, thác ghềnh…, hay du lịch văn hóa như: lễ hội, chùa chiền, di tích
lịch sử…
Do hoạt động du lịch gắn liền với yếu tố tài nguyên tại một vùng, một địa phương
nhất định nên sản phẩm du lịch không thể dịch chuyển được, không thể đưa sản phẩm
du lịch đến nơi có khách du lịch mà bắt buộc khách du lịch phải đến nơi có sản phẩm
du lịch để thỏa mãn như cầu của mình thông qua việc tiêu dùng sản phẩm du lịch. Quá
trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm du lịch trùng nhau về không gian và thời gian.
Chúng không thể cất đi và tồn kho như các loại hàng hóa khác.
1.1.2. Đặc trưng của du lịch
Du lịch mang tính kinh tế
Ngành du lịch là ngành mà mục tiêu cơ bản của nó là ở chỗ thông qua thúc đẩy,
xúc tiến cung cấp hàng hoá và dịch vụ du lịch để tạo thu nhập của nền Kinh tế quốc
dân. Tuy nhiên cấu tạo chủ yếu của ngành du lịch là các doanh nghiệp du lịch, các

doanh nghiệp này thực hiện các hoạt động kinh doanh du lịch, do đó mục tiêu cuối cùng
là tối đa hoá lợi nhuận. Vì vậy ngành du lịch phải tiến hành hạch toán kinh tế. Với quan
niệm này, về cơ bản ngành du lịch phải là ngành mang rõ nét tính kinh tế.
Du lịch mang tính tổng hợp
Hoạt động du lịch là hoạt động mang tính tổng hợp, trong quá trình hoạt động du
lịch, khách du lịch có các nhu cầu về đi lại ăn ở, du ngoạn, vui chơi giải trí, mua sắm…
Để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của kinh doanh du lịch đòi hỏi phải có các ngành
nghề khác nhau cùng sản xuất và cung ứng các sản phẩm và dịch vụ cho khách du lịch
như: cung cấp, tư vấn tin tức, cung cấp các tuyến điểm du lịch, cung cấp phương tiện
giao thông, cung cấp nhà nghỉ cho du khách… Các sản phẩm và dịch vụ này không phải
là những sản phẩm độc lập, riêng biệt mà là một “chuỗi dịch vụ” vừa kết hợp với nhau
vừa đan xen với nhau, vừa lặp đi lặp lại nhiều lần. Vì thế, sản phẩm và dịch vụ du lịch
phải là sản phẩm tổng hợp của sự phối hợp liên ngành như công ty du lịch, đơn vị bán
hàng lưu niệm du lịch… đồng thời bao gồm các đơn vị sản xuất của các ngành như dệt,
xây dựng… và một số cơ sở sản xuất tư liệu phi vật chất như văn hoá, giáo dục, khoa
học kĩ thuật, y tế, tài chính, hải quan, bưu điện… cuối cùng phải được khách du lịch
chấp nhận.
Du lịch mang tính phục vụ
Vì sản phẩm du lịch chủ yếu cung cấp dịch vụ thoả mãn nhu cầu khách du lịch
như: dịch vụ thiết kế các chương trình du lịch, dịch vụ hướng dẫn, dịch vụ vận chuyển
khách bằng các phương tiện khác nhau, dịch vụ làm thủ tục liên quan tới quá trình du
lịch, dịch vụ cho thuê chỗ trọ, dịch vụ phục vụ ăn uống… Do đặc điểm của dịch vụ là
sản phẩm phi vật chất, vô hình, không nhìn thấy được, khó nhận biết được bằng các
giác quan, đồng thời chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố tác động như nguồn cung cấp
dịch vụ, người mua dịch vụ (khách du lịch); quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ
diễn ra đồng thời, nên cung cầu dịch vụ không thể tách rời nhau được; dịch vụ không
thể tổ chức sản phẩm trước, không thể lưu kho, hoặc dự trữ sử dụng dần.
Du lịch mang tính thời vụ
Tính thời vụ thể hiện ở thời gian hoạt động du lịch tập trung với cường độ cao
trong năm, xảy ra dưới tác động của một số yếu tố xác định, có yếu tố mang tính tự

nhiên (sự thay đổi của thời tiết, khí hậu, sự vận động của mặt trời, mặt trăng, sự thay
đổi bốn mùa), có yếu tố mang tính kinh tế - xã hội, tổ chức kĩ thuật, có yếu tố mang tính
tâm lý… thể hiện ở nhiều loại hình du lịch, nhất là ở các loại hình du lịch nghỉ biển, thể
thao theo mùa.
Du lịch mang tính quốc tế
Cùng với sự phát triển của du lịch quốc tế, việc tìm mọi cách để thu hút khách
nước ngoài tới nước mình du lịch đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều nước
trên thế giới, nếu muốn ngành du lịch phát triển. Bởi vì kinh doanh du lịch quốc tế
không chỉ tăng thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước, góp phần xây dựng cơ sở vật chất kĩ
thuật cho đất nước. Ngoài ra sự phát triển của du lịch quốc tế còn có ý nghĩa quan trọng
đến việc mở rộng, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau vì tình hữu nghị của nhân dân các
nước, thúc đẩy giao lưu khoa học kĩ thuật văn hoá theo các hướng: kí kết hợp đồng trao
đổi khách giữa các nước, các tổ chức và hãng du lịch, tham gia các tổ chức quốc tế về
du lịch.
Du lịch mang tính nhạy cảm
Trong cung cấp dịch vụ cho khách du lịch cần bố trí chính xác về thời gian, có kế
hoạch chu đáo, chi tiết về nội dung hoạt động du lịch, cần phải kết hợp hữu cơ, chặt chẽ
giữa các khâu đi lại, ăn nghỉ, du ngoạn, vui chơi giải trí, mua sắm… Chỉ cần một khâu
nào đó để xảy ra trục trặc ngoài ý muốn thì có thể gây nên hàng loạt phản ứng dây
chuyền, làm mất sự phối hợp nhịp nhàng về cung cấp của toàn ngành du lịch, ảnh
hưởng tới việc thực hiện mục tiêu và lợi ích kinh tế của ngành du lịch. Ngoài ra, các
yếu tố thiên nhiên, chính trị, kinh tế và xã hội v.v… đều ảnh hướng đối với ngành du
lịch dẫn tới sự đình đốn du lịch như: động đất, biến đổi khí hậu , dịch bệnh…
Du lịch mang tính phụ thuộc
Tính phụ thuộc của ngành trước hết biểu hiện ở sự phát triển du lịch của mỗi quốc
gia mang tính định hướng tài nguyên du lịch. Một trong những điều kiện quan trọng để
phát triển du lịch cần có là tài nguyên du lịch phải độc đáo, hấp dẫn. Hơn nữa, tính phụ
thuộc của ngành du lịch còn biểu hiện ở tính phục thuộc vào trình độ phát triển của nền
kinh tế quốc dân. Nguồn khách là yếu tố sống còn của ngành du lịch, mà việc thu hút
khách được quyết định bởi trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia hoặc khu vực;

và ngược lại, trình độ kinh tế nước tiếp đón lại quyết định tới khả năng tiếp đón đối với
khách du lịch và ảnh hưởng tới chất lượng các dịch vụ ở mức độ nhất định. Biểu hiện
khác nữa về tính phụ thuộc đó là sự phụ thuộc vào sự hợp tác toàn diện, sự phát triển
hợp lý giữa các ngành, nghề có liên quan tới du lịch. Bất cứ một ngành nghề nào đó có
liên quan tới du lịch mà tuột khỏi “mắt xích” thì hoạt động kinh doanh của ngành du
lịch sẽ khó có thể đạt được kết quả như mong muốn.
1.1.3. Vai trò của du lịch đối với phát triển kinh tế xã hội
1.1.3.1. Đối với phát triển kinh tế
Du lịch có ảnh hưởng rõ nét lên nền kinh tế của địa phương thông qua tác động
qua lại của quá trình tiêu dùng và cung ứng sản phẩm du lịch. Quá trình này tác động
lên lĩnh vực phân phối, lưu thông và do vậy có ảnh hưởng đến lĩnh vực khác nhau của
quá trình tái sản xuất xã hội. Du lịch đóng góp phần quan trọng trong GDP của vùng,
nơi có hoạt động du lịch phát triển.
Hoạt động du lịch có tác dụng biến đổi cán cân thu chi của khu vực và đất nước.
Du khách quốc tế mang ngoại tệ vào đất nước du lịch làm tăng thêm nguồn thu ngoại tệ
cho đất nước đến. Ngược lại, phần chi ngoại tệ sẽ tăng lên đối với những quốc gia có
nhiều người đi du lịch nước ngoài. Trong phạm vi một đất nước, cán cân thu chi được
thực hiện giữa các vùng có trình độ kinh tế khác nhau, tuy không làm biến đổi cán cân
kinh tế của đất nước song có tác dụng điều hòa nguồn vốn từ vùng kinh tế phát triển
sang vùng kinh tế kém phát triển hơn, kích thích sự phát triển kinh tế của vùng du lịch,
đặc biệt là đối với các vùng sâu vùng xa.
Khi một địa phương trở thành một địa điểm du lịch thì các ngành kinh tế khác
cũng được kích thích phát triển, đặc biệt là nông nghiệp và công nghiệp chế biến…
ngành cung cấp hàng hóa cho du lịch. Bên cạnh đó do các đòi hỏi cao của khách du lịch
nên có hàng hóa được sản xuất ra phải đảm bảo về mặt chất lượng, buộc các đơn vị sản
xuất phải quan tâm đầu tư trang thiết bị và sử dụng công nhân có tay nghề cao.
Du lịch quốc tế cũng đem lại nguồn lợi xuất khẩu tại chỗ được nhiều mặt hàng
không phải qua nhiều khâu nên tiết kiệm được chi phí. Đồng thời du lịch cũng là hoạt
động xuất khẩu tại chỗ nên có thể xuất được cả những mặt hàng dễ hư hỏng mà ít bị rủi
ro như hoa quả, rau tươi…, các mặt hàng được tiêu thụ tại chỗ nên không cần đóng gói,

bảo quản phức tạp.
1.1.3.2. Đối với phát triển xã hội
Đối với xã hội, du lịch có vai trò giữ gìn, phục hồi sức khỏe và tăng cường sức
sống cho con người. Trong một chừng mực nào đó thì du lịch có tác dụng hạn chế bệnh
tật, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động cho con người.
Những chuyến du lịch tại các di tích lịch sử, các công trình văn hóa, các khu thắng
cảnh thiên nhiên có tác dụng giáo dục tinh thần yêu thiên nhiên, yêu văn hóa của đất
nước. Khi tiếp xúc trực tiếp với các công trình này, du khách mới thực sự cảm nhận
được giá trị to lớn của chúng.
Khi đi du lịch mọi người có điều kiện tiếp xúc với nhau, gần gũi nhau hơn, nhờ đó
du lịch là cơ hội tăng cường tình đoàn kết cộng đồng. Mỗi chuyến du lịch còn thường
để lại cho du khách một số kinh nghiệm, tăng vốn hiểu biết về địa lý và kiến thức văn
hóa nói chung.
Ngành du lịch phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác, do
đó nhu cầu về lao động tại địa phương sẽ tăng thêm nhằm phục vụ cho nhu cầu về nhân
công của bản thân ngành du lịch và cả các ngành kinh tế khác, thông qua đó tạo thêm
việc làm, giảm bớt nạn thất nghiệp, nâng cao mức sống cho người dân.
Phát triển du lịch còn có ý nghĩa lớn khi nó làm sống lại những ngành nghề thủ
công truyền thống. Bởi hiện nay du lịch văn hóa các làng nghề rất được du khách ưa
thích, vì tâm lý muốn tìm hiểu cuộc sống văn hóa, lao động của người dân bản địa nơi
họ đến thăm. Đồng thời du khách mỗi khi đi du lịch tại một địa phương nào đó thường
muốn mua một vài sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm thủ công để làm kỉ niệm hay làm
quà cho người thân, bạn bè.
1.1.4. Xu hướng phát triển du lịch hiện nay
1.1.4.1. Du lịch là một xu thế tất yếu và ngày càng rộng lớn của thế giới
Du lịch đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử loài người. Khi mà đời sống kinh tế xã
hội ngày càng phát triển thì hoạt động du lịch ngày càng được mở rộng và hoàn thiện cả
về số lượng và chất lượng. Bên cạnh đó, những bước đột phá lớn về khoa học công
nghệ với những phát minh thế kỉ, hay sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công
nghiệp… đã mở ra khả năng đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí dễ dàng hơn. Sự phát

triển của phương tiện giao thông đã làm mất dần khái niệm xa xôi đối với khách du
lịch, du khách có thể mau chóng và thuận tiện dù chỉ là đi du lịch ở một nơi rất xa so
với nơi cư trú thường xuyên.
Ở những thập kỉ cuối của thế kỉ XX, nền kinh tế toàn cầu phát triển mạnh, cuộc
sống con người ngày càng văn minh hiện đại. Và kéo theo đó, hàng loạt căn bệnh xuất
hiện và trở nên phổ biến: stress, béo phì, tim mạch… khiến con người cần phải quan
tâm nhiều ơn tới việc giữ gìn và bảo vệ sức khỏe của mình. Bên cạnh đó, bầu không khí
ngày càng ô nhiễm, hiệu ứng nhà kính làm nhiệt độ của trái đất tăng lên khiến du khách
có xu hướng muốn đi du lịch ở những nơi có bầu không khí trong trẻo và tự nhiên,
những làng quê yên tĩnh với các lễ hội dân gian truyền thống.
Phát triển cũng đồng nghĩa với việc năng suất lao động được nâng cao và con
người được giải phóng sức lao động nhiều hơn. Do đó có nhiều thời gian và điều kiện
vật chất để dành cho du lịch giải trí, khám phá hơn. Và với xu thế phát triển như hiện
nay, nhu cầu giải trí khám phá sẽ không những mở rộng, đặc biệt theo chiều sâu. Từ đó
có thể thấy du lịch sẽ trở nên phổ biến ở mọi nên trên thế giới.
1.1.4.2. Xu hướng phát triển của cầu du lịch
Việc xác định xu hướng thay đổi của cầu về du lịch sẽ giúp chúng ta có định
hướng chính xác hơn trong quá trình tìm ra các giải pháp để khai thác tiềm năng du lịch
theo hướng đáp ứng đầy đủ và tốt các nhu cầu du lịch của du khách. Trong thời gian tới,
theo dự đoán thì cầu du lịch phát triển mạnh, có 4 xu hướng quan trọng sau:
- Sự thay đổi về hướng và phân bố của luồng khách du lịch: khu vực Đông Á –
Thái Bình Dương thu hút khách ngày càng đông hơn, đặc biệt là các nước Đông Nam
Á. Bên cạnh đó, vấn đề an ninh quốc phòng và an ninh chính trị cũng ảnh hưởng nhiều
đến cầu du lịch, du khách có khuynh hướng lựa chọn những điểm du lịch có mức độ an
toàn cao.
- Sự thay đổi trong cơ cấu chi tiêu của khách du lịch: mức chi tiêu tăng, trong đó tỉ
trọng chi cho dịch vụ cơ bản (ăn, ở, vận chuyển) giảm, tỷ trọng chi cho dịch vụ bổ sung
tăng (tham quan, giải trí, mua sắm hàng hóa và đồ lưu niệm).
- Sự thay đổi trong hình thức tổ chức chuyến đi của khách du lịch: khách chỉ sử
dụng một phần dịch vụ của tổ chức kinh doanh du lịch, không sử dụng dịch vụ trọn gói

nhằm tăng khả năng tự do của bản thân.
- Sự gia tăng điểm đến du lịch trong một chuyến du lịch. Du khách thích đi thăm
nhiều nước, nhiều điểm du lịch trong cùng một chuyến đi du lịch của mình.
1.1.4.3. Xu hướng phát triển của cung du lịch
Đối với các địa phương đang trong giai đoạn đầu khai thác tiềm năng du lịch thì
hết sức cần thiết phải quan tâm tới xu hướng cung du lịch trên thị trường nhằm xây
dựng kế hoạch khai thác cho phù hợp với nguồn tài nguyên và phù hợp với yêu cầu của
thị trường, nắm bắt kịp thời xu thế phát triển. Cung du lịch có các xu hướng chính như
sau:
- Đa dạng hóa sản phẩm du lịch
- Phát triển hệ thống bán sản phẩm du lịch
- Tăng cường hoạt động truyền thông du lịch
- Đẩy mạng CNH – HĐH trong du lịch: vận dụng KHCN để phát triển công
nghiệp du lịch lữ hành, công nghiệp khách sạn, công nghiệp vận chuyển khách.
- Đẩy mạnh quá trính khu vực hóa, quốc tế hóa sản phẩm du lịch
Tổng hợp tiềm năng bằng việc cho điểm từng chỉ tiêu, thang điểm cho từng chỉ
tiêu tối đa là 4 điểm, tối thiểu là 1 điểm. Hệ số điểm của từng yếu tố phụ thuộc vào từng
mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đến sức hút du lịch tài nguyên. Trong đó, độ hấp
dẫn được tính tới hệ số 3; thời gian khai thác và môi trường tính hệ số 2; các yếu tố còn
lại tính hệ số 1.
Tổng điểm của tất cả 5 yếu tố, sau khi đã nhân với trọng số tương ứng sẽ là mức
điểm phản ánh mức độ lớn hay nhỏ của tiềm năng du lịch. Số điểm càng lớn chứng tỏ
tiềm năng càng lớn và ngược lại.
1.2. DU LỊCH SINH THÁI VÀ SẢN PHẨM DU LỊCH SINH THÁI
1.2.1. Du lịch sinh thái
1.2.1.1. Khái niệm
“Du lịch sinh thái” (Ecotourism) là một khái niệm tương đối mới và đã thu hút
được sự quan tâm của nhiều người, thuộc các lĩnh vực khác nhau. Đây là một khái niệm
rộng, được hiểu từ nhiều góc độ khác nhau. Đối với một số người DLST được hiểu đơn
giản là sự kết hợp của 2 từ ghép “du lịch” và “sinh thái” vốn đã quen thuộc. Song đứng

ở góc độ nhìn rộng hơn, tổng quát hơn thì một số người quan niệm DLST là du lịch
thiên nhiên, là khái niệm mà trong thực tế đã có từ đầu những năm 1800. Với khái niệm
này, mọi hoạt động du lịch có liên quan đến thiên nhiên như tắm biển, nghỉ núi… đều
được hiểu là DLST.
Có thể nói cho đến nay khái niệm về DLST vẫn còn được hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau, với những tên gọi khác nhau. Tuy nhiên, mặc dù những tranh luận vẫn còn
tiếp tục để đi đến một số định nghĩa chung được chấp nhận về DLST, nhưng đa số các ý
kiến tại diễn đàn quốc tế chính thức về DLST đều cho rằng: “DLST là loại hình du lịch
dựa vào thiên nhiên, hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn và được quản lý bền vững về
mặt sinh thái”. Du khách sẽ được hướng dẫn tham quan, được lý giải về môi trường để
nâng cao hiểu biết, cảm nhận được những giá trị thiên nhiên và văn hóa mà không gây
ra những tác động có hại đối với các hệ sinh thái và văn hóa bản địa.
Về nội dung, DLST là loại hình du lịch tham quan, thám hiểm, đưa du khách tới
những môi trường còn tương đối nguyên vẹn, về các vùng thiên nhiên hoang dã, đặc sắc
để tìm hiểu, nghiên cứu các hệ sinh thái và các nền văn hóa bản địa độc đáo, làm thức
dậy ở du khách tình yêu và trách nhiệm bảo tồn phát triển đối với tự nhiên và cộng
đồng địa phương. Nói một cách khác, DLST là loại hình du lịch với những hoạt động
có nhận thức mạnh về thiên nhiên và ý thức trách nhiệm đối với xã hội. Ở đây thuật ngữ
“Du lịch trách nhiệm” luôn gắn liền với khái niệm DLST. Vậy DLST là hình thức du
lịch trách nhiệm, không làm ảnh hưởng đến các ý nghĩa bảo tồn thiên nhiên, không ảnh
hưởng đến môi trường mặt khác còn góp phần vào việc duy trì, phát triển cuộc sống
cộng đồng người dân địa phương.
Một số cách hiểu về DLST:
Theo tổ chức bảo tồn thực vật hoang dã (World Wide Fund): DLST đề cập tới các
hoạt động du lịch đi tới những khu vực tự nhiên hoang dã, gây tác động tối thiểu tới
môi trường tự nhiên và cuộc sống của các loài động thực vật hoang dã trong khi mang
lại một số lợi ích kinh tế cho cộng đồng địa phương và những người địa phương phục
vụ tại đó.
Theo tổ chức du lịch thế giới (UNWTO): DLST là loại hình du lịch được thực hiện
tại những khu vực tự nhiên còn ít bị can thiệp bởi con người, với mục đích chính là để

chiêm ngưỡng, học hỏi về các loài động thực vật cư ngụ trong khu vực đó, giúp giảm
thiểu và tránh được các tác động tiêu cực tới khu vực mà khách đến thăm. Ngoài ra
DLST phải đóng góp vào công tác bảo tồn những khu vực tự nhiên và phát triển những
khu vực cộng đồng lân cận một cách bền vững đồng thời phải nâng cao được khả năng
nhận thức về môi trường và công tác bảo tồn đối với mỗi người dân địa phương và du
khách đến thăm.
Theo hội thảo xây dựng chiến lược Quốc gia về phát triển DLST 9/1999 tại Hà
Nội: DLST là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa địa phương, có tính
giáo dục môi trường và đóng góp cho các nỗ lực bảo tồn và phát triển với sự tham gia
tích cực của cộng đồng địa phương.
Nhận xét:
Mặc dù các định nghĩa về du lịch sinh thái có khác nhau về cách diễn đạt và ngôn
từ thể hiện, nhưng trong các định nghĩa trên đều có sự thống nhất cao về nội dung của
DLST ở ba điểm:
Thứ nhất: Du lịch sinh thái phải được thực hiện trong môi trường tự nhiên còn
hoang sơ hay tương đối hoang sơ gắn với văn hóa bản địa.
Thứ hai: DLST có tính giáo dục môi trường cao và phải có trách nhiệm với môi
trường.
Thứ ba: DLST phải mang lợi ích kinh tế trực tiếp cho cư dân địa phương và phải
có sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương.
1.2.1.2. Đặc điểm của du lịch sinh thái
Dựa trên địa bàn hấp dẫn về tự nhiên cả các yếu tố văn hóa bản địa: Đối tượng của
DLST là những khu vực hấp dẫn về tự nhiên, kể cả những nét văn hóa bản địa đặc sắc.
Đặc biệt, những khu vực tự nhiên còn tương đối nguyên sơ, ít bị tác động lớn. Chính vì
vậy, hoạt động DLST thường diễn ra và thích hợp tại lãnh thổ các vườn Quốc gia và các
khu bảo tồn tự nhiên có giá trị.
Đảm bảo bền vững về sinh thái, ủng hộ bảo tồn: Đây là một đặc trưng khác biệt vì
nó được phát triển trong môi trường có những hấp dẫn ưu thế về mặt tự nhiên. Vì thế,
trong DLST, hình thức, địa điểm và mức độ sử dụng cho các hoạt động du lịch phải
được duy trì và quản lý cho sự bền vững của cả hệ sinh thái và bản thân ngành du lịch.

Điều này được thể hiện ở quy mô nhóm khách tham quan thường có số lượng nhỏ, yêu
cầu sử dụng các phương tiện, dịch vụ về tiện nghi của du khách thường thấp hơn các
yêu cầu về đảm bảo kinh nghiệm du lịch có chất lượng. Các hoạt động trong DLST
thường ít gây tác động đến môi trường và du khách sẵn sàng chi trả cho việc bảo vệ môi
trường.
Có giáo dục môi trường: Đặc điểm giáo dục môi trường trong DLST là một yếu tố
cơ bản phân biệt DLST với các loại hình du lịch khác. Giáo dục và thuyết minh môi
trường bằng các nguồn thông tin, truyền tải thông tin đến du khách thông qua tài liệu,
hướng dẫn viên, các phương tiện trên điểm, tuyến tham quan là những hình thức quan
trọng trong việc làm giàu kinh nghiệm du lịch, nâng cao nhận thức về môi trường và
bảo tồn.
Giáo dục môi trường trong DLST có tác dụng trong việc làm thay đổi thái độ của
du khách, cộng đồng và chính ngành du lịch đối với giá trị bảo tồn, và sẽ góp phần tạo
nên sự bền vững lâu dài của những khu tự nhiên.
Khuyến khích cộng đồng địa phương tham gia và hưởng lợi ích du lịch: DLST cải
thiện đời sống, tăng thêm lợi ích cho cộng đồng địa phương trên cơ sở cung cấp về kiến
thức, những kinh nghiệm thực tế để đa số người dân có khả năng tham gia vào quản lý,
vận hành dịch vụ DLST. Đó cũng là cách để người dân có thể trở thành những người
bảo tồn tích cực.

×