Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.48 KB, 28 trang )

: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH THỦY SẢN
VIỆT NAM
I. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG, MỤC TIÊU ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH
THỦY SẢN VIỆT NAM
1. Những cơ hội và thách thức trong những năm tới đối với phát triển sản
xuất và xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam
1.1. Những cơ hội phát triển sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
Thứ nhất
:
: đó là cơ hội để Việt Nam tiếp tục khai thác và phát huy lợi thế về tài
nguyên thiên nhiên (các nguồn lợi thuỷ sản). Theo đánh giá tiềm năng nguồn
taì nguyên thuỷ sản của Việt Nam vẫn còn khá phong phú cả trong lĩnh vực
đánh bắt xa bờ và nuôi trồng thuỷ sản. So với các nước khác, tài nguyên thuỷ
sản Việt Nam được xem là ở mức tương đương, thậm chí có phần vượt trội
hơn so với Thái Lan- nước xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu thế giới hiện nay.
Thứ hai:

đó là cơ hội để Việt Nam tận dụng và phát huy lợi thế về tiềm năng
lao động, đặc biệt là lao động nông nghiệp, nông thôn không có kỹ năng nhưng
với chi phí tiền công thấp. Đây là một trong những yếu tố quan trọng góp phần
làm tăng lợi thế cạnh tranh của hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam, đồng
thời cũng yếu tố quan trọng trong giai đoạn đầu của quá trình thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, hầu như
tuyệt đại bộ phận lao động trong nghề cá vốn là lao động giản đơn, chưa được
đào tạo nghề phù hợp với yêu cầu phát triển mới, do vậy đây cũng chính là một
thách thức trong quá trình thực hiện CNH, HĐH của chính ngành thuỷ sản Việt
Nam.
Thứ ba:

đó là cơ hội để phát triển mở rộng thị trường xuất khẩu hàng thuỷ sản
của Việt Nam. Trên thị trường thế giới, hàng thuỷ sản được xếp vào nhóm sản


phẩm cơ bản. Khác với mặt hàng nông sản xuất khẩu khác, hàng thuỷ sản xuất
khẩu thường trong tình trạng cung không đáp ứng được cầu ở quy mô thế
giớí. Hơn nữa, với sự năng động trong xuất khẩu thuỷ sản thế giới của các
nước đang phát triển, xu hướng mở rộng thị trường là một đặc điểm riêng có
của thị trường này. Nhiều cơ hội thị trường mới mở ra cho các sản phẩm thuỷ
sản chế biến sâu, thuỷ sản ăn liền và thuỷ sản tươi sống có giá trị cao. Có thể
nói rằng, thuỷ sản là một trong những ngành hàng triển vọng thị trường nhất
trong những mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam hiện nay.
Thứ tư:

đó là cơ hội tiếp cận công nghệ mới, phương thức quản lý tiên tiến để
đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu thuỷ sản. Là nước đi sau, Việt Nam đã và đang
tận dụng được cơ hội đi tắt, đón đầu để rút ngắn thời kỳ CNH, HĐH và thúc
đẩy sự phát triển kinh tế nói chung và ngành thuỷ sản nói riêng. Việt Nam có
khả năng đầu tư công nghệ tiên tiến, đặc bịêt trong công nghệ khai thác xa bờ,
công nghệ sinh học phục vụ nuôi thuỷ sản, nhất là nuôi cá biển và nuôi giáp
xác, công nghệ chế biến xuất khẩu…Cùng với cơ hội tiếp cận công nghệ mới,
Việt Nam cũng rút ra được những bài học kinh nghiệm quản lý từ những nước
thành công và thất bại trong chế biến và xuất khẩu hàng thuỷ sản, cũng như
tiếp cận các phương thức quản lý kinh doanh hiện đại trên thế giới.
1.2.Những thách thức đối với phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam
Mặc dù, những điều kiện thị trường thuận lợi cùng với xu hướng tự do hoá
thương mại toàn cầu nói chung và đối với các sản phẩm nông nghiệp, thuỷ sản
nói riêng đã tạo thuận lợi để thương mại hàng thuỷ sản thế giới ngày càng
phát triển. Tuy nhiên, những thất bại tại các vòng đàm phán Seatle, Doha và
nhất là tại hội nghị Cancun gần đây đã cho thấy những cản trở khó vượt qua
để đạt tới mục tiêu tự do thương mại toàn cầu về các sản phẩm nông nghiệp,
thuỷ sản. Do vậy, tuy đã đạt những thành tựu cơ bản trong chế biến và xuất
khẩu thuỷ sản, nhưng trong những năm tiếp theo, Việt Nam vẫn sẽ gặp phải
những thách thức lớn, như:

Thứ nhất, tính cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu thuỷ sản giữa các nước
đang phát triển sẽ càng tăng lên dưới tác động của xu hướng tự do hoá
thương mại và xu hướng tham gia thị trường thuỷ sản thế giới của các nước
kém phát triển cũng tăng lên. Trong khi đó, năng lực nuôi trồng, đánh bắt và
chế biến thuỷ sản xuất khẩu bộc lộ những yếu kém nghiêm trọng. Mặc dù, đã
đạt được những kết quả tăng trưởng sản lượng đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản,
nhưng thời gian qua sản xuất, xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam vẫn bộc
lộ những tồn tại và yếu kém trong khai thác thuỷ sản xa bờ, trong nuôi thâm
canh thuỷ sản. Đồng thời, điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và
hậu cần nghề cá còn lạc hậu và thiếu thốn, ngành thuỷ sản chưa rhực sự có
nền tảng vững chắc để tiếp tục phát triển bền vững. Hiệu quả đánh bắt, nuôi
trồng thuỷ sản thấp do phụ thuộc vào sự thay đổi của điều kiện tự nhiên.
Trong ngành chế biến thuỷ sản xuất khẩu, phần lớn các xí nghiệp có thiết bị
đơn giản, tỷ trọng cơ giới hoá, tự động hoá sản xuất còn thấp, giá thành sản
phẩm chưa ổn định và chưa có sức cạnh tranh so với mặt hàng cùng loại của
các nước. Trong điều kiện thị trường cạnh tranh, việc xuất khẩu các sản phẩm
dưới dạng sơ chế, đông lạnh sẽ khó có hiệu quả và chắc chắn sẽ gây khó khăn
đáng kể cho các cơ sở chế biến vừa và nhỏ. Theo đánh giá chung, ngành công
nghiệp chế biến thuỷ sản của Việt Nam còn manh mún, thiếu những công ty lớn
và có quá nhiều công ty nhỏ dẫn đến việc bán hàng không theo tổ chức, chất
lượng sản phẩm của Việt Nam vì thế chưa ổn định. Hơn nữa, thuỷ sản Việt
Nam còn thiếu nhãn hàng có uy tín và thường bán với giá thấp hơn so với các
nguồn hàng của Thái Lan và Inđônêxia.
Thứ hai, dưới tác động của xu hướng tự do thương mại, các nước phát triển
( những nước nhập khẩu thuỷ sản chính trên thị trường thế giới) một mặt,
thực hiện các cam kết cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan,
các hàng rào thương mại, nhưng mặt khác, các nước này cũng đưa ra các quy
định chặt chẽ về an toàn thực phẩm, cũng như các biện pháp phòng vệ thương
mại tạm thời. Các sản phẩm “sạch” sẽ có khả năng thâm nhập thị truờng thế
giới dễ dàng hơn. Tuy nhiên, điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sức cạnh

tranh của những hàng hoá nông sản, thuỷ sản xuất khẩu vốn được xem là lợi
thế của các nước đang phát triển. Bởi vì, một mặt, nó làm tăng chi phí sản
xuất, mặt khác, nhiều nước phát triển đưa ra những quy định nghiêm ngặt về
tiêu chuẩn sản phẩm như một thứ rào cản đối với hàng hoá nhập khẩu từ các
nước khác.
Thứ ba, những khó khăn, thách thức mới nảy sinh từ các thị trường xuất khẩu
thuỷ sản chính của Việt Nam.
Thị trường châu Á được coi là thị trường xuất khẩu thuỷ sản trọng điểm của
Việt Nam trong thời gian qua. Trên thị trường Nhật Bản, xu hướng giảm tỷ
trọng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam trong thời gian gần đây cho thấy, thị
trường Nhật Bản nhìn chung đã bão hoà và khó tăng nhanh doanh thu xuất
khẩu. Trên thị trường các nước châu Á khác, việc duy trì thị phần của hàng
xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam cũng sẽ rất khó khăn do phụ thuộc rất lớn vào
cạnh tranh của các nước xuất khẩu khác trong vùng, đặc biệt là sự cạnh tranh
từ phía Trung Quốc, Thái Lan, Indonexia, Ấn Độ…Việc Trung quốc ra nhập
WTO cũng tác động bất lợi đến xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam vào thị
trường này.
Trên thị trường các nước có thu nhập cao như Mỹ và EU, tỷ phần nhập khẩu
hàng thuỷ sản của Việt Nam còn thấp. Trở ngại lớn nhất đối với xuất khẩu
thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường khu vực này là việc đảm bảo chất
lượng và an toàn hàng thuỷ sản theo những điều kiện HACCP. Hiện nay ở Việt
Nam mới có khoảng 60% doanh nghiệp chế biến đảm bảo các tiêu chuẩn
HACCP và được phép xuất khẩu vào thị trường EU.
Tại các thị trường có thu nhập vừa và thấp (ngoài châu Á) như Trung Đông,
Bắc Phi và đặc biệt là thị trường truyền thống như Nga, Đông Âu, tỷ trọng xuất
khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam còn rất nhỏ và chưa đựơc quan tâm đúng
mức trong những năm vừa qua.
Thứ tư, Việt Nam đang chịu những bất lợi thế của các nước đi sau. Đó là
những bất lợi về thiếu thông tin thị trường, năng lực quản lý, kinh nghiệm và
kiến thức tiếp cận thị trường xuất khẩu, khả năng phát triển hệ thống kinh

doanh tại các thị trường nước ngoài, phản ứng chính sách thường chậm và
kém hiệu quả, thường gặp nhiều rủi ro trong các cuộc cạnh tranh khu vực và
toàn cầu…
Thứ năm, năng lực cạnh tranh và tính năng động của nền kinh tế Việt Nam còn
yếu, cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý, cơ chế thị trường
vận hành chưa thực sự thông suốt. Hệ thống tài chính tiền tệ- một trong những
yếu tố quyết định sự thành bại của hoạt động xuất nhập khẩu- chậm được đổi
mới. Kết cấu hạ tầng còn thiếu và yếu, đặc biệt là đường xá, cảng biển và hệ
thống mạng viễn thông. Trình độ công nghệ còn lạc hậu. Cải cách doanh nghiệp
Nhà nước còn chậm. Thêm vào đó, tư duy kinh doanh, nghiệp vụ và phương
thức kinh doanh, tiếp thị, tổ chức kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam
còn ở trình độ của thế giới, gây ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tiếp cận,
thâm nhập và mở rộng thị trường cho các sản phẩm xuất khấu có lợi thế ở Việt
Nam.
2. Định hướng phát triển ngành thuỷ sản của Việt Nam đến 2010
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 nêu rõ:”phát huy cao
độ các nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả các sản phẩm, các ngành,
các lĩnh vực mà ta có lợi thế, đáp ứng cơ bản nhu cầu thiết yếu trong nước và
đẩy mạnh xuất khẩu”. Cụ thể hoá hơn một bước, định hướng chiến lược xuất
khẩu 10 năm tới là: “Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ các thành
phần kinh tế xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ, có cơ chế bảo hiểm hàng xuất
khẩu, đặt biệt là nông sản, đầu tư cho hoạt động hỗ trợ xuất khẩu.Phát triển
mạnh những sản phẩm hàng hoá dịch vụ cao khả năng cạnh tranh, giảm mạnh
xuất khẩu những sản phẩm thô sơ và sơ chế, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm
chế biến, tăng nhanh tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm, nâng dần tỷ trọng sản
phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Phát triển du lịch quốc tế xuất khẩu lao
động và các dịch vụ ngoại tệ khác. Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, tiến tới
cân bằng xuất nhập. Khuyến khích sử dụng thiết bị, hàng hoá sử dụng trong
nước. Thực hiện chính sách bảo hộ có lựa chọn, có thời hạn”. Về thị trường
xuất khẩu, chiến lược yêu cầu “ chủ động và tích cực thâm nhập thị trường

quốc tế, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế giới, mở rộng thị phần
trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội mở thị trường mới. Từng
bước hiện đại hoá phương thức kinh doanh phù hợp với xu thế mới của
thương mại thế giới”.
Các mục tiêu phát triển xuất khẩu của Việt Nam tới 2010 được đặt ra là:
+ Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, đặt biệt là xuất khẩu hàng hoá, đưa
tỉ trọng xuất khẩu so với GDP lên 65,9 %;
+ Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tiếp tục gia tăng tỷ
trọng của sản phẩm chế biến, chế tạo; chú trọng phát triển các sản phẩm có
hàm lượng công nghệ cao. Đến năm 2010, tỷ trọng của nhóm nguyên liệu và
nông lâm hải sản sẽ giảm xuống còn 19-25% so với trên 40% hiện nay; các mặt
hàng chế biến, chế tạo sẽ tăng từ 30% lên khoảng 40-45%; các sản phẩm có
hàm lượng công nghệ và chất xám cao, chủ yếu là hàng điện tử - tin học chiếm
khoảng 12-14% kim ngạch xuất khẩu;
+ Mở rộng và đa dạng hoá thị trường, đặc biệt chú trọng các thị trưòng
nhập khẩu lớn (Mỹ, Nhật, EU, ASEAN, NIC) và tìm kiếm các thị trường mới ở
Mỹ latinh, Châu Phi.
Để thực hiện các mục tiêu xuất khẩu, Đảng và nhà nước chủ trương tập
trung phát triển những ngành có lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh nhằm nâng
cao năng lực của hàng hoá xuất khẩu, tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững. Trong đó phát triển nông nghiệp, nông thôn mở rộng thị
trường tiêu thụ nông phẩm, tạo thêm nhiều việc làm, tăng thêm thu nhập cho
các tầng lớp nhân dân ở khu vực này được xem là xuất phát điểm quan trọng
của chiến lược. Đồng thời, để có thể phá triển kinh tế nhanh, Nhà nước chủ
trương tăng cường đầu tư vào những ngành có hàm lượng khoa học công
nghệ cao, tạo bước đi ban đầu vững chắc trong quá trình hội nhập vào nền
kinh tế tri thức.
Việc xem xét chiến lược phát triển kinh tế tổng thể của Việt Nam thời kì 2001-
2010 cho thấy, trong giai đoạn trung và dài hạn, ngành thuỷ sản là một trong
những ngành đáp ứng được yêu cầu lựa chọn của các chiến lược phát triển. Rõ

ràng, xét về điều kiện phát triển, ngành thuỷ sản đang có những tiềm năng và
lợi thế lớn về lao động và lợi thế tài nguyên. Thuỷ sản cũng vẫn là một trong
những mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam trong những năm tới
không chỉ dựa trên lợi thế so sánh, dựa trên xu hướng phát triển thương mại
hàng thuỷ sản thế giới, mà điều quan trọng hơn thuỷ sản là một trong những
ngành có điều kiện thuận lợi để thực hiện CNH, HĐH theo hướng xuất khẩu
của nền kinh tế .
Phù hợp với chiến lược chung của nền kinh té, ngành thuỷ sản nước ta đã xác
định mục tiêu chiến lược phát triển sản xuất thuỷ sản đến năm 2010 là huy
động tổng hợp mọi tiềm năng để có thể phát triển ngành thuỷ sản, nhằm đóng
góp có hiệu quả vào nền kinh tế quốc dân và nâng cao các điều kiện kinh tế - xã
hội của ngư dân. Trong đó, các mục tiêu cụ thể là:
+ Duy trì tỉ lệ đóng góp của ngành thuỷ sản trong GDP khoảng 2,85%;
+ Tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và mức sống của các cộng
đồng dân cư sống dựa vào nghề cá. Đến năm 2005 số lao động trong nghề cá
khoảng 3,9 triệu người và năm 2010 là 4,4 triệu người. Trong đó lao động nuôi
trồng thuỷ sản và lao động chế biến, dịch vụ thuỷ sản sẽ tăng gấp 2 lần. Đa
dạng hoá ngành nghề trong nghề cá sễ tạo điều kiện tốt nhất cho ngư dân tạo
ra việc làm và tăng thêm thu nhập;
+ Tăng mức cung cấp sản phẩm thuỷ sản cho thị trường trong nước và tạo
điều kiện thuận lợi để người dân có thể mua được các sản phẩm này, qua đó
góp phần nâng caomức dinh dưỡng cho dân cư. Muc tiêu đảm bảo nhu cầu
thuỷ sản cho nhân dân ở mức 25kg/người/năm vào năm 2010;
+ Đảm bảo toàn bộ các hoạt động của ngành thuỷ sản mang tính bền vững
trên cơ sở xây dựng và áp dụng các chính sách, chiến lược bảo vệ môi trường
và các phương pháp mới cho quản lý và khai thác nghề cá;
+ Tăng cường xuất khẩu các sản phẩm thuỷ sản và thu ngoại tệ. Gía trị xuất
khẩu thuỷ sản sẽ đạt 3,5-4,5 tỉ USD vào năm 2010;
+ Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành thuỷ sản và các ngành dịch
vụ thuỷ sản để nâng cao hiệu quả kinh tế nhằm duy trì và phát huy những lợi

thế so sánh của ngành thuỷ sản.
2.1. Dự báo một số chỉ tiêu phát triển thuỷ sản Việt Nam đến 2010
2.1.1 Dự báo về sản xuất và tiêu thụ thuỷ sản trong nước
• Dự báo lượng thuỷ sản
Trên cơ sở phân tích thực trạng sản xuất thuỷ sản ở nước tahiện nay, cs thể
nêu một số xu hướng phát triển sản lượng thuỷ sản đến năm 2010, như sau:
- Cơ cấu sản lượng thuỷ sản sẽ tiếp tục thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng
sản lượng thuỷ sản nuôi trồng. Bởi vì, hiện nay còn khoảng 38% diện
tích nuôi trồng thuỷ sản chưa được sử dụng và khả năng tăng năng suất
nuôi trồng còn tiếp tục diễn ra. Dự báo đến năm 2010 sản lượng nuôi
trồng sẽ vượt sản lượng khai thác đạt 51,25% sản lượng chung.
Bảng 16: Dự báo sản lượng thuỷ sản Việt Nam thời kỳ 2005-2010
(Đơn vị: 1000 tấn)
Năm 2003 2005 2010
Tổng số 2.854,8 3.300 4.000
Cá 1.976,2 2.350 2.700
Tôm 340,5 460 610
Thuỷ sản khác 538,2 490 690
1. Sản lượng nuôi trồng 998,3 1.350 2.050
Cá 559,8 800 1.150
Tôm 237,7 350 500
2. Sản lượng khai thác 1856,5 1.950 1.950
Cá 1.416,4 1.550 1.550
Tôm 102,8 110 110
2.1. Khai thác biển 1.647,5 1.810 1.830
2.2. Khai thác nội địa 209,0 190 170
Nguồn: Bộ thuỷ sản
- Tỷ trọng sản lượng thuỷ sản khai thác tiếp tục giảm. Từ 2005 đến 2010
sản lượng khai thác không tăng thêm chủ yếu do sản lượng đánh bắt
gần bờ và khai thác nội địa giảm dần, trong khi đó khả năng tăng sản

lượng thuỷ sản khai thác xa bờ không nhiều.
- Cơ cấu sản lượng theo sản phẩm chính cũng có sự thay đổi theo hướng
tăng tỷ trọng của sản phẩm tôm, nhưng không nhiều, chiếm khoảng
15.0% vào năm 2010. Đồng thời, tỷ trọng sản lượng cá và các loại thuỷ
sản khác sẽ giảm chút ít.
• Dự báo về tiêu thụ thuỷ sản trong nước
Thu nhập bình quân đầu người và sản lượng thuỷ sản tăng trong thời kỳ
2005-2010 tạo điều kiện cho mức tiêu thụ thuỷ sản bình quân đầu người
tăng lên. Tuy vậy, mức tăng sẽ chậm hơn thời kỳ trước do nhu cầu đã được
tăng cường đáp ứng trong các năm trước và tập quán tiêu dùng chưa thể
có sự biến động nhanh.
Dự báo: mức tiêu thụ thuỷ sản quy ra sản phẩm tươi sống bình quân đầu
người đạt 26 g trong năm 2010; mức tiêu thụ thuỷ sản quy ra sản phẩm
tươi sống của dân cư cả nước là 2,18 triệu tấn trong năm 2010.
2.1.2. Dự báo triển vọng phát triển công nghiệp chế biến thuỷ sản ở Việt Nam
Hiện nay, số nhà máy chế biến thuỷ sản cần xây dựng thêm trong “chương
trình xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2010” được thực hiện xong trong năm 2004.
Phần lớn các cơ sở chế bíên công nghiệp đã đạt tiêu chuẩn ngành về an toàn vệ
sinh thực phẩm và ngành thuỷ sản đang phấn đấu đến năm 2010 toàn bộ các
cơ sở chế biến công nghiệp đạt được tiêu chuẩn này.
Dự báo, đến năm 2010 do sự dư thừa công suất chế biến của các cơ sở công
nghiệp chế biến thuỷ sản cả nứơc, nên số nhà máy chế biến thuỷ sản xây dựng
thêm sẽ rất hạn chế. Các nhà máy hiện có sẽ nâng cấp và mở rộng công suất
thay thế một bộ phận lớn các cơ sở chế biến nhỏ không phải là cơ sở công
nghiệp có thiết bị và công nghệ lạc hậu. Đến năm 2010 công suất chế biến của
các cơ sỏ công nghiệp chế biến sẽ tăng thêm khoảng 45% so với hiện nay và
đạt công suất cấp đông 2.600 tấn/ngày.
2.2.3. Dự báo về xuất- nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam
Trong thời kỳ 2005-2010 tăng trưởng xuất khẩu sẽ chậm lại so với 10 nămm
trước. Tốc độ tăng giá trị kim ngạch sẽ nhanh hơn tốc độ tăng khối lượng xuất

khẩu do tỷ trọng hàng giá trị gia tăng trong ngành xuất khẩu, sẽ tăng 48% vào
năm 2010, do giá cả thuỷ sản thế giới sẽ tăng lên và các sản phẩm thuỷ sản
nuôi trồng và đánh bắt trong nước phù hợp hơn với nhu cầu thế giới. Tỷ trọng
kim ngạch xuất khẩu tôm vẫn là lớn nhất, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu cá lớn
thứ 2 và có xu hướng nhích dần lên. Các nước và khu vực xuất khẩu chính vẫn
là Nhật, Mỹ, Châu âu, các nước NICS và Trung Quốc.

×