THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TRONG
NHỮNG NĂM QUA
I.Thực trạng đầu tư vào ngành du lịch của tỉnh
1. Thực trạng cơ sở hạ tầng phục vụ cho ngành du lịch của tỉnh
1.1. Hệ thống giao thông
Mạng lưới giao thông trên địa bàn tỉnh những năm gần đây đã được xây dựng
tương đối hợp lí, rộng khắp toàn tỉnh ô tô đi được tới tất cả các xã trong tỉnh, việc đi lại
thuận tiện, nhanh chóng. Toàn tỉnh hiện có 2.278,2km đường bộ và 496 km đường sông
với các tuyến quan trọng nối liền thị xã với các huyện thị và tỏa đi các xã. Các tuyến
đường từ tỉnh xuống huyện được nâng cấp rải nhựa. Mạng lưới giao thông của Tỉnh
được phân bố tương đối đều: đường sắt, đường bộ, đường thủy.
٭Đường bộ: bao gồm hệ thống đường quốc lộ, tỉnh lộ, đường huyện, liên huyện,
đường xã và liên xã với tổng chiều dài 2.278,2 km. Ngoài quốc lộ 1A , trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình còn có các tuyến quốc lộ chạy qua như 10, 12B, 45, trong đó:
Đường quốc lộ: có 110,5 km
Đường tỉnh lộ: có 261,5 km
Đường huyện lộ: có 194,92 km
Đường xã, liên xã: có tổng chiều dài 911,5 km
Hiện nay mạng lưới giao thông đang được cải thiện ngày một tốt hơn. Tuy nhiên
hệ thống giao thông vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Hệ
thống các đường nội thị vẫn còn yếu kém, nhiều tuyến đường cần được cải tạo và mở
rộng. Đặc biệt cần nâng cấp, cải tạo toàn tuyến 1A trên địa bàn tỉnh nhất là đoạn đi qua
thành phố Ninh Bình. Đây chính là tuyến đường chủ đạo trong giao lưu kinh tế giữa
Ninh Bình với các tỉnh phía Bắc cũng như phía Nam, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng
hóa và hành khách qua Ninh Bình ngày càng lớn. Hệ thống giao thông nông thôn,
đường liên thôn liên xã đã được nâng cấp, rải nhựa, cải tạo và làm mới. Điều này có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc khai thác thế mạnh của vùng, nhằm phát triển kinh tế,
nâng cao mức sống người dân đặc biệt là mở rộng giao lưu với các địa phương trong
tỉnh, phát triển các tour liên huyện.
٭ Đường sắt: Ninh Bình nằm trên tuyến đường sắt quốc gia Bắc Nam, đây là tuyến
đường sắt đóng góp một phần rất lớn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh và
các địa phương khác trong vùng kinh tế và trên toàn quốc. Toàn tỉnh có 4 ga là : ga
Ghềnh, ga Đồng Giao, ga Cầu Yên và ga Ninh Bình. Ngoài ra tuyến tàu chạy Hà Nội –
Vinh đi qua Ninh Bình đi các tỉnh phía Nam.
٭Đường thủy: Ninh Bình có 22 sông có thể khai thác vận tải đường thủy với tổng
chiều dài 387,3km. Mật độ sông là 27,3km/km
2
( lớn hơn mật độ bình quân cả nước),
phần lớn là sông cấp II, III và IV mang đặc điểm chung của sông, kênh khu vực đồng
bằng sông Hồng. Toàn tỉnh có các sông chảy qua là sông Đáy, sông Hoàng Long, sông
Vạc, sông Vân, sông Lạng,.. giúp cho Ninh Bình có điều kiện thuận lợi và là đầu mối
quan trọng trong việc giao lưu kinh tế, văn hóa các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng và
toàn vùng Bắc Bộ rộng lớn.
1.2. Hệ thống cấp điện
Mạng lưới điện trong cả tỉnh đã được xây dựng với tổng chiều dài các đoạn
đường dãy trung cao áp là 770km. Hiện nay Tỉnh có 1 nhà máy điện Ninh Bình và 4
trạm điện phân phối. Nguồn điện hiện nay bao gồm cả mạng lưới điện phân phối về cơ
bản có thể đáp ứng cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt.
1.3. Hệ thống cấp thoát nước và vệ sinh môi trường
Trong những năm gần đây tỉnh Ninh Bình đã từng bước phát triển đảm bảo nước
sinh hoạt cho vùng đô thị ( thành phố Ninh Bình, thị xã Tam Điệp và các thị trấn, huyện
lỵ). Các công trình cấp nước: giếng đào, bể chứa nước, nước tự chảy và giếng khoan.
Trong đó các khu tập trung dân cư và các khu vực thị trấn chủ yếu dùng nước tự chảy
và nước cấp từ bể chứa. Khả năng cung cấp nước trung bình vào mùa hè là 16.000
m
3
/ngày; vào mùa đông 14.000m
3
/ngày. Tổng số hộ gia đình được dùng nước sạch
trong toàn tỉnh là 26.000 hộ. Trữ lượng nguồn nước ngầm của tỉnh Ninh Bình là tương
đối lớn, việc khai thác nguồn nước ngầm tương đối thuận lợi. Về chất lượng, nguồn
nước này đảm bảo vệ sinh đủ tiêu chuẩn cần thiết để sử dụng cho ăn uống và sinh hoạt.
Mạng lưới thoát nước thải sinh hoạt tại các đô thị của tỉnh sử dụng hệ thống
thoát chung ( cho cả nước mưa và nước thải sinh hoạt). Hệ thống thoát nước mưa bao
gồm các lọai ống tròn bê tông cốt thép, cống hộp và mương có nắp đan. Nhìn chung các
tuyến thoát nước đều hoạt động tốt nhưng do mật độ còn quá thấp chưa đáp ứng được
nhu cầu nên ảnh hưởng không ít đến môi trường đô thị. Các lọai nước thải hầu không
được xử lí đến giới hạn cho phép và thường được xả trực tiếp ra sông suối. Nước thải
công nghiệp từ các nhà máy xi măng, nhà máy phân lân chưa được xử lí đến độ trước
khi xả ra sông suối. Nước thải bệnh viện được xử lí riêng đơn giản và xả vào hệ thống
thóat nước chung, phần lớn là hơn giới hạn cho phép. Lượng thu gom rác thải để xử lí
còn nhỏ. Các loại rác thải được xử lí chung, chôn lấp tự do. Chính vì thế, hiện nay
UBND tỉnh đã phê duyệt dự án và đang triển khai thi công xây dựng nhà máy xử lí rác
thải với công suất 2200 tấn/ngày.
1.4. Hệ thống bưu chính viễn thông
Mạng lưới thông tin liên lạc đã phủ kín các vùng trong tỉnh với hệ thống tổng đài
điện tử hiện đại của bưu điện trung tâm tỉnh và bưu điện của 7 huyện thị xã, hệ thống
viễn thông vi ba, cáp quang Bắc – Nam chạy qua đảm bảo cho liên lạc nhanh chóng
thuận tiện giữa Ninh Bình và các địa phương, các vùng trong nước và liên lạc quốc tế.
Hệ thống bưu cục: 32 trạm. Các tuyến, trạm truyền thông tin: 25 tuyến, trạm. Hiện toàn
tỉnh có khoảng 6,6 máy điện thoại/ 100 dân. Mạng điện thoại di động đã phủ sóng gần
hết lãnh thổ Ninh Bình. Đến cuối 2005 đã có 112 xã có điểm bưu điện văn hóa xã ( đạt
82%).
1.5. Hệ thống dịch vụ tài chính, ngân hàng
Các cơ sở dịch vụ về tài chính, ngân hàng của Ninh Bình bao gồm hệ thống ngân
hàng nhà nước và các ngân hàng chuyên doanh, hệ thống kho bạc từ tỉnh đến các
huyện, thị xã, công ty bảo hiểm, các quĩ tín dụng nhân dân… Hệ thống các cơ sở dịch
vụ này hiện tại thường xuyên được cải tiến về nghiệp vụ chuyên môn và phong cách
phục vụ, tăng cường trang bị kĩ thuật hiện đại, thực hiện vi tính hóa trong quản lí và
thanh toán… đang ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu về vốn cho sản xuất – kinh
doanh, đáp ứng tốt hơn các công tác thanh toán, trao đổi hàng hóa – dịch vụ; phục vụ
kịp thời cho công tác lãnh đạo, quản lí của các cấp, các ngành; góp phần tích cực cho
phát triển kinh tế, caỉ thiện đời sống nhân dân trong tỉnh.
1.6. Hệ thống nhà hàng, khách sạn
Thời gian qua, với vị thế đã có và khai thác có hiệu quả tiềm năng phong phú về
tài nguyên phục vụ phát triển du lịch, Ninh Bình đã dần khẳng định du lịch là một
ngành kinh tế quan trọng của tỉnh, nhiều công trình cơ sở hạ tầng được xây dựng, tu bổ
tôn tạo để phục vụ phát triển du lịch. Hạ tầng Ninh Bình thay đổi mạnh mẽ và nhanh
chóng, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội và đặc biệt là hoạt động du
lịch.
Cùng với xu hướng chung của cả nước hiện nay, do lượng khách quốc tế ngày
càng tăng và khách nội địa có nhu cầu đi nghỉ nhiều hơn nên các khách sạn nhà trọ
được xây dựng thêm để đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách du lịch. Ngành du lịch
Ninh Bình cũng không ngừng nâng cấp, xây mới khách sạn, nhà nghỉ phục vụ khách du
lịch. Số lượng khách sạn, nhà nghỉ của các thành phần kinh tế tăng nhanh cả về số
lượng và qui mô và phương thức hoạt động.
Năm 1992, toàn tỉnh chỉ có duy nhất 1 khách sạn Hoa Lư được tách ra từ công ty
du lịch Hà Nam Ninh với 33 phòng nghỉ. Hiện tại, Ninh Bình có 290 cơ sở lưu trú du
lịch trong đó có 67 khách sạn với 1.680 phòng ngủ ( có 359 phòng đạt tiêu chuẩn quốc
tế); 8 bể bơi, 1 sân golf, 48 sân tennis, 82 phòng xông hơi - massage - vật lí trị liệu và
128 cơ sở phục vụ ăn uống với 9.107 chỗ ngồi. Trong đó có 7 cơ sở với 266 buồng đã
được thẩm định đạt tiêu chuẩn 2 sao và 1 cơ sở với 17 buồng đạt tiêu chuẩn 1 sao. Công
suất sử dụng khách sạn bình quân đạt khoảng 50%. Qui mô xây dựng hầu hết là vừa và
nhỏ, trang thiết bị nội thất chưa đồng bộ. Nhìn chung chất lượng của các khách sạn của
tỉnh còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch, đặc biệt là
khách du lịch thương mại. Giá phòng trung bình của các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh
cũng không cao lắm. Mức giá tương đối cạnh tranh so với hầu hết các địa phương khác
trong vùng.
Bảng 2.1. Cơ cấu cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, giai đoạn 2004-2008
Đơn vị 2004 2005 2006 2007 2008
Cơ sở lưu trú Cơ sở 60 76 222 244 290
- Số lượng phòng Phòng 815 883 1277 1407 1680
- Số lượng giường Giường 937 1600 3300 3600 4100
Phân theo loại hình Cơ sở
- Khách sạn Cơ sở 28 38 47 57 67
- Nhà hàng, nhà nghỉ Cơ sở 20 30 36 38 48
Nguồn: Cục thống kê Ninh Bình
Trong năm 2008, cả tỉnh có 10 cơ sở lưu trú mới xây dựng. Trong đó có 1 khách
sạn 1 sao, 1 khách sạn 2 sao với tổng số vốn là 50 tỷ đồng. So với nhu cầu thực tế, khả
năng đáp ứng về cơ sở lưu trú của Ninh Bình còn rất thiếu, nhất là các cơ sở lưu trú cao
cấp.
2. Vốn đầu tư và cơ cấu vốn đầu tư
2.1. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng thường không mang lại những lợi ích kinh tế cụ thể
hay thời gian thu được lợi nhuận là rất dài, đồng thời đây là lĩnh vực yêu cầu nguồn vốn
khá lớn. Chính vì vậy các nhà đầu tư thường không đủ khả năng hoặc không mong
muốn đầu tư vào lĩnh vực này. Nhưng cơ sở hạ tầng lại là yếu tố tiên quyết để phát triển
kinh tế - xã hội. Vậy để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Nhà nước
có vai trò rất quan trọng trong việc điều tiết nguồn vốn. Trong thời gian qua, những
công trình lớn, trọng điểm đầu tư vào cơ sở hạ tầng thường là do Nhà nước đầu tư. Sự
hỗ trợ từ ngân sách, kết hợp cả nguồn vốn địa phương và nguồn vốn đầu tư phát triển
hạ tầng du lịch của Trung ương thật sự là “xúc tác” góp phần quan trọng trong việc tạo
ra môi trường thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư trong nước và quốc tế. Tỉnh Ninh
Bình có nguồn tài nguyên du lịch phong phú nhưng với ngân sách địa phương eo hẹp
nên những năm trước đây đã không cho phép tỉnh đầu tư phát triển trong lĩnh vực này.
Từ năm 2000 đến nay, với nguồn vốn hỗ trợ của Ngân sách Trung Ương nhiều dự án
đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ chiến lược phát triển du lịch đã được triển khai.
Bảng 2.2. Tổng hợp các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ 2001-2008
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Thời gian
thực hiện
Dự toán
được duyệt
Vốn giải ngân
đến
31/12/2008
I. Ngân sách địa phương: 5.384 4,335
1. XD Trụ sở làm việc của Sở Du lịch
2004-
2005 5.181,6 4,185.20
2. Qui hoạch khu DL Kênh Gà - Vân
Trình 2004 102,4 50
3. Bổ sung Qui hoạch Khu DL Tam 2005- 100 100
Cốc- Bích Động 2006
II. Ngân sách Trung ương 4.119.121 908.919,6
1.Khu du lịch Kênh Gà, Vân Trình, Vân
Long
2002-
2007 43.289 21.300,6
2.Khu DL vườn QG Cúc Phương
2003-
2008 36.619 36.619
3.Khu DL Tam Cốc Bích Động, Tràng
An
2008-
2010 4.020.257 836.000
4. XD CSHT Khu DL các làng nghề
truyền thống
2002-
2006 18.956 15.000
Tổng số 4.124.505 913.254,6
Nguồn: Sở Văn hóa – Thể thao – Du Lịch Ninh Bình
Tính đến 31/12/2008, cơ sở hạ tầng của du lịch Ninh Bình đã được đầu tư
913,2546 tỷ đồng tập trung vào 11 dự án, bằng 29,1% tổng mức đầu tư đã được duyệt.
Trong đó vốn đầu tư từ Ngân sách Trung ương là 908,9196 tỷ đồng, riêng khu du lịch
Tràng An được xác định là điểm nhấn quan trọng để thu hút khách du lịch đến Ninh
Bình. Cùng với đó Tỉnh phối hợp với Viện Kiến trúc nhiệt đới – Trường Đại học Kiến
trúc Hà Nội từng bước hoàn chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Ninh Bình giai
đoạn 2007 – 2015, có một số khu du lịch đã quy hoạch đến năm 2020. Các bản quy
hoạch của từng vùng du lịch được công bố công khai để từng người dân được biết, từ
đó họ ý thức hơn về làm du lịch, đây cũng là điều kiện thuận lợi để tiến đến xã hội hóa
du lịch. Trong những năm qua, Tỉnh đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các khu du lịch.
Những khu du lịch trọng điểm của Ninh Bình được ưu tiên vốn đầu tư, đang gấp rút xây
dựng và hoàn thành xong phần cơ bản về hạ tầng, bắt đầu tiến hành khai thác như khu
Tam Cốc – Bích Động, Tràng An, núi chùa Bái Đính, nước nóng Kênh Gà. Các dự án
khác như: Cơ sở hạ tầng tuyến du lịch đường thủy Bích Động- Hang Bụt, Thạch Bích-
Thung Nắng, cơ sở hạ tầng Khu du lịch các làng nghề truyền thống cũng đang được gấp
rút hoàn thiện để đưa vào khai thác.
Cơ sở hạ tầng được đầu tư cải thiện là đệm phóng cho những dự án đầu tư của
khu vực tư nhân. Những năm gần đây, các doanh nghiệp trong Tỉnh cũng như ở trong
nước đang liên tiếp đăng kí đầu tư. Hiện nay, các dự án đang được triển khai thực hiện
đầu tư theo đúng tiến độ đã phê duyệt. Nhiều hạng mục công trình của các dự án đã đưa
vào khai thác, sử dụng phục vụ khách du lịch hiệu quả.
Bảng 2.3. Phân loại nguồn vốn trong nước theo khu du lịch của tỉnh Ninh Bình
tính đến 31/12/2008
Đơn vị: triệu đồng
STT Khu du lịch Vốn tư nhân
Vốn Ngân
sách
Tổng vốn
đầu tư
1 Khu DL Kênh Gà, Vân Trình, Vân Long 484.930 43.289 528.219
2 Khu DL vườn QG Cúc Phương 355.082 36.619 391.701
3 Khu phòng tuyến Tam Điệp- Biện Sơn 23.583 0 23.583
4 Khu DL Hồ Yên Thắng, Đồng Thái 1.074.840 0 1.074.840
5 Khu DL Kim Sơn, nhà thờ đá Phát Diệm 10.107 0 10.107
6 Khu DL Trung tâm thành phố Ninh Bình 973.160 0 973.160
7 Khu DL Tam Cốc Bích Động, Tràng An 639.597 4.020.257 4.659.854
Tổng vốn đầu tư vào DL của Tỉnh 3.561.299 4.100.165 7.661.464
Nguồn: Sở Văn hóa – Thể thao – Du Lịch Ninh Bình
Đến hết ngày 31/12/2008 UBND tỉnh Ninh Bình đã chấp thuận 45 dự án trong
nước kinh doanh dịch vụ với tổng số vốn là 7.661,464 tỷ đồng ( trong đó có 34 dự án tư
nhân) và 2 dự án 100% vốn nước ngoài. Trong những năm gần đây, đầu tư trong lĩnh
vực này tăng lên nhanh chóng cả về số dự án và vốn đầu tư. Năm 2007 có 6 dự án đầu
tư được chấp thuận đầu tư với tổng mức vốn đầu tư là 610,347 tỷ đồng. Năm 2008, đã
có 8 dự án lớn được chấp thuận với tổng số vốn đầu tư là 4.055 tỷ đồng. Năm 2009, các
doanh nghiệp phấn đấu đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho các dự án du lịch với số vốn
1.097,956 tỷ đồng.
Đặc biệt là các dự án lớn đều tập trung vào các khu du lịch trọng điểm như:
♦ Khu trung tâm liên hợp du lịch và thể thao sân golf 54 lỗ Hồ Yên Thắng ( huyện Yên
Mô và Thị xã Tam Điệp), trên diện tích 670 ha, với tổng vốn đầu tư 1.757 tỷ đồng, giai
đoạn 1 là 495,6 tỷ đồng.
♦ Dự án Ninh Bình Anna Mandara Resort có diện tích 16 ha do công ty Cổ phần du lịch
Tân Phú đầu tư với tổng vốn đầu tư là 255 tỷ đồng ( tại khu du lịch Vân Long, huyện
Gia Viễn).
♦ Dự án Suối nước khoáng Kênh Gà- huyện Gia Viễn, tổng vốn đầu tư 11 tỷ đồng (tại
tuyến du lịch Kênh Gà – Vân Trình).
♦ Dự án Khách sạn và văn hóa Cung đình Vân Long, do công ty TNHH Thảo Sơn đầu
tư với tổng vốn đầu tư 27 tỷ đồng ( tại Vân Long, Gia Viễn).
Trong đó phải kể đến 2 dự án FDI:
♦ Dự án khu du lịch sinh thái Đông Phương Sư ( 100% vốn của Đài Loan), tổng vốn
đầu tư là 32 triệu USD ( tại Vân Long, Gia Viễn)
♦ Làng quần thể du lịch Ninh Bình, cụm biệt thự bằng đá ( tại khu Tam Cốc- Bích
Động, huyện Hoa Lư) do tập đoàn Hotel Project BV – Hà Lan đầu tư với tổng số vốn
2,35 triệu USD.
2.2. Xúc tiến, quảng bá du lịch
Từ năm 2000, Sở văn hóa - thể thao - du lịch ( mà dưới đây gọi tắt là Sở du lịch)
đã tham mưu cho UBND tỉnh thành lập Ban chỉ đạo nhà nước về du lịch và xây dựng
qui chế, chương trình hành động về du lịch giai đoạn 2001-2005 làm cơ sở cho việc
đầu tư, phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh. Cũng trong năm 2000, Sở đã tổ chức các lớp
học tập, nghiên cứu về du lịch, tổ chức đi khảo sát và học tập kinh nghiệm thực tế tại
các tỉnh miền Trung và miền Nam, tham gia triển lãm gian hàng hội xuân Du lịch – Văn
hóa Việt Nam tại Vân Hồ - Hà Nội và đã đạt được giải ba toàn quốc; phối hợp với các
ban ngành trong tỉnh tổ chức thành công Lễ hội Trường Yên 2000.
Trong khuôn khổ chương trình hành động về du lịch của Tỉnh, năm 2002, Sở Du
lịch Ninh Bình đã chính thức đưa trung tâm xúc tiến đầu tư và phát triển du lịch đi vào
hoạt động và bước đầu đạt được kết quả tốt. Đơn vị này đã phối hợp với các doanh
nghiệp du lịch trên địa bàn tỉnh tích cực triển khai thực hiện các chương trình quảng bá,
xúc tiến hình ảnh du lịch Ninh Bình. Tổ chức thành công hội thi “ Nấu các món ăn dân
tộc Việt Nam ngành du lịch Ninh Bình – 2002”, phát động chương trình Báo chí viết
về du lịch Ninh Bình và đã thu hút được nhiều tầng lớp dân cư tham gia.
Nhằm đa dạng hóa các sản phẩm du lịch mang đặc trưng Ninh Bình, Sở Du lịch
đã tiến hành nghiên cứu, tổ chức thực hiện và đưa vào thử nghiệm đề tài “ Nghiên cứu
tổ chức đóng thử tàu chở khách trên sông”. Cũng trong khuôn khổ đề tài này, lần đầu
tiên du lịch Ninh Bình tiến hành khảo sát chuyên sâu và công bố kết quả về tuyến du
lịch sinh thái chùa Bái Đính – động Sinh Dược, công bố động Sinh Dươc dài 1.360 m –
một tài nguyên du lịch hết sức quí giá. Hiện nay, đang triển khai thực hiện đề tài “
Nghiên cứu cơ sở khoa học và giải pháp khai thác tiềm năng hang động Karst phục vụ
phát triển du lịch Ninh Bình” làm cơ sở để xây dựng và đưa vào khai thác các tuyến
tham quan du lịch mới nhằm từng bước đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ du lịch và nâng
cao sức hấp dẫn cho du lịch Ninh Bình.
Sở Du lịch phối hợp với Đài Truyền hình Việt Nam xây dựng 4 bộ phim giới
thiệu về tiềm năng du lịch Ninh Bình, gồm: “ Non nước Tràng An – Ninh Bình”, “ Non
nước Ninh Bình”, “ Làng đá Ninh Vân”, “ Về thăm Gia Viễn”. Xuất bản và đưa vào lưu
hành cuốn sách “ Non nước Ninh Bình”, đưa vào sử dụng website du lịch Ninh Bình,
xuất bản “ Thông tin du lịch Ninh Bình”.Ngành Du lịch tỉnh Ninh Bình cũng đã tổ chức
thành công các cuộc thi “ Hướng dẫn viên du lịch giỏi toàn ngành”, hoàn thiện 10 bài
thuyết minh tại các điểm du lịch nổi tiếng của Ninh Bình và đã được dịch ra tiếng Anh,
Pháp, Hoa làm tài liệu phục vụ công tác tuyên truyền quảng bá và cho hướng dẫn viên
làm tài liệu cơ sở để hướng dẫn du khách.
Đặc biệt, trong năm 2008 tỉnh đã tổ chức “ Tuần lễ du lịch” với nhiều nét văn
hóa đặc sắc, là dịp để quảng bá, giới thiệu tiềm năng du lịch Ninh Bình, không những
thu hút đông đảo du khách mà còn mời gọi mạnh mẽ đầu tư, nhất là đầu tư cơ sở hạ
tầng. Nhiều giải pháp tổng thể đã được đặt ra như: thu hút đi đôi với quản lí có hiệu quả
nguồn vốn; tạo các điểm vui chơi giải trí, dịch vụ, nhà hàng, khách sạn hấp dẫn, đào tạo
và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, nhân viên phục vụ và nâng cao kiến thức về du lịch cho
người dân.
2.3. Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Trong thời gian qua, được sự quan tâm đầu tư về cơ sở hạ tầng của Chính phủ,
các chính sách khuyến khích phát triển du lịch, xúc tiến đầu tư, tuyên truyền quảng bá
du lịch của tỉnh và ngành, du lịch Ninh Bình đã có những bước phát triển khá mạnh mẽ.
Năm 2007 số lượng khách đến Ninh Bình là 1.518.559 lượt, tăng 2,3 lần so với năm
2002. Trong đó lượng khách quốc tế đạt 457.920 lượt tăng so với năm 2002 là 1,8 lần,
khách nội địa đạt 1.060639 tăng 2,7 lần so với năm 2002, đưa tốc độ tăng trưởng lượng
khách trung bình giai đoạn 2002 -2007 đạt 18,6%. Đặc biệt năm 2008, mặc dù chịu
nhiều tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhưng Ninh Bình vẫn đón được
1,9 triệu lượt khách, tăng 26% so với năm 2007.
Tuy nhiên so với một số điểm du lịch khác ở nước ta, thì du lịch Ninh Bình có
nhiều lợi thế hơn về tài nguyên, nhưng chưa phát huy được lợi thế so sánh sẵn có để tạo
ra lợi thế cạnh tranh. Du lịch Ninh Bình phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế
mạnh của tỉnh. Hiệu quả kinh tế, xã hội còn ở mức độ thấp. Một trong những nguyên
nhân cơ bản của sự phát triển kém hiệu quả này, theo đánh giá của các chuyên gia là do
nguồn nhân lực du lịch của Ninh Bình hiện nay vừa thừa, vừa thiếu, vừa yếu, lại mất
cân đối về cơ cấu lao động trong du lịch. Đội ngũ cán bộ quản lý du lịch và lao động
làm dịch vụ du lịch còn vừa yếu về năng lực chuyên môn vừa yếu về ngoại ngữ, vừa
thiếu tính chuyên nghiệp và thái độ làm việc để thực thi các công việc theo chức danh
đảm nhiệm.
Theo thống kê của ngành, tính đến năm 2007, số lao động trực tiếp trong ngành
du lịch là 960 người tăng 2,3 lần so với năm 2002. Số lượng lao động trong ngành có
trình độ chuyên môn về du lịch: đại học, cao đẳng 196 người chiếm 20,4%, trung cấp
và nghề 410 người chiếm 42,7%. Đào tạo trong các lĩnh vực khác (chưa qua đào tạo về
du lịch) là 219 người chiếm 22,8%. Số lao động có khả năng sử dụng một trong 3 ngoại
ngữ phổ biến (Anh – Pháp – Trung) là 315 người chiếm 33%. Riêng đối với lao động
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về du lịch, ngành đã thực hiện tốt chủ trương thu
hút nhân tài về làm việc: Tuyển thẳng 01 sinh viên tốt nghiệp loại giỏi chuyên ngành du