Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

TỔNG QUAN VỀ TỈNH NINH BÌNH VÀ CÁC KHU DU LỊCH TRONG TỈNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.02 KB, 11 trang )

TỔNG QUAN VỀ TỈNH NINH BÌNH VÀ CÁC KHU DU LỊCH
TRONG TỈNH
I. Đặc điểm tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình
Ninh Bình là một tỉnh nằm ở cực Nam đồng bằng sông Hồng, phía Bắc giáp tỉnh
Hà Nam. Phía Đông giáp tỉnh Nam Định, phía Đông Nam giáp Biển Đông, phía Tây và
Tây Nam giáp tỉnh Thanh Hóa, phía Tây Bắc giáp tỉnh Hòa Bình. Ninh Bình cách thủ
đô Hà Nội hơn 90 km, có quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt chạy qua, cùng với hệ
thống sông ngòi phong phú với cảng Ninh Bình nên có điều kiện phát triển mạnh giao
thông cả đường bộ và đường thủy, giao lưu thuận lợi với các địa phương trong nước và
quốc tế.
Toàn bộ lãnh thổ của tỉnh nằm ở rìa Tây Nam đồng bằng sông Hồng, giáp với
đồng bằng sông Mã qua vùng núi thấp Tam Điệp là phần cuối cùng của vùng núi Tây
Bắc, trong khu đệm Hòa Bình – Thanh Hóa và tiếp giáp biển Đông. Do là vùng chuyển
tiếp nên địa hình Ninh Bình khá phong phú, đa dạng, bao gồm cả các núi, đồng bằng,
bờ biển. Đặc biệt là ở Ninh Bình, dạng địa hình Karst khá phổ biến và đây là dạng địa
hình đặc biệt tạo nên các hang động và cảnh quan hấp dẫn, rất có giá trị trong việc thu
hút khách du lịch.
Ninh Bình thuộc đới khí hậu gió mùa chí tuyến, á đới có mùa đông lạnh khô,
mùa hạ có gió mùa Tây Nam gây mưa nhiều. Do địa hình Ninh Bình phần lớn là đồng
bằng, chỉ có một phần nhỏ là đồi núi nên khí hậu ít có sự phân hóa theo lãnh thổ. Nhìn
chung khí hậu Ninh Bình tương đối thuận lợi cho hoạt động du lịch cả năm.
Ninh Bình có mật độ sông ngòi ở mức trung bình. Các sông thường chảy theo
hướng Tây Bắc – Đông Nam. Quan trọng nhất trong mạng lưới sông ngòi ở Ninh Bình
là sông Đáy, ngoài ra còn có sông Hoàng Long là phụ lưu sông Đáy và một số sông
ngòi nhỏ khác. Tại Ninh Bình còn một số hồ, đầm, tiêu biểu là đầm Cút và dãy hồ Đồng
Thái.
Về các hệ động thực vật, nơi lưu giữ được thảm thực vật và động vật rừng có giá
trị nhất tại Ninh Bình là Vườn quốc gia Cúc Phương. Rừng Cúc Phương là loại rừng
mưa nhiệt đới điển hình với cấu trúc thảm thực vật nhiều tầng và phong phú về thành
phần loài. Gần đây Ninh Bình đã thành lập khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long là khu
bảo tồn sinh cảnh đặc trưng cho hệ sinh thái núi đá ngập nước.


Ninh Bình có tổng diện tích đất tự nhiên là 138. 420 ha, trong đó đất cho sản
xuất nông nghiệp là 67.605 ha ( chiếm 48,87% diện tích tự nhiên), đất lâm nghiệp là
19.972 ha ( chiếm 14,4% diện tích tự nhiên), đất chuyên dùng 16.769 ha ( chiếm 12,1%
diện tích tự nhiên), đất khu dân cư 5.068 ha ( chiếm 0,37% diện tích tự nhiên) và đất
chưa sử dụng 28.961 ha ( chiếm 21% diện tích tự nhiên). Hiện nay, diện tích đất chưa
sử dụng có khả năng đưa vào khai thác cho các hoạt động kinh tế là 16.497 ha.
Dân số của Ninh Bình là 936.262 người trong đó số dân trong độ tuổi lao động
xấp xỉ 60%, mật độ dân số 659 người/ km
2
. Dân tộc ngoài dân tộc Kinh và dân tộc
Mường chiếm 1,7% dân số thì các dân tộc khác như Tày, Nùng, Thái, Hoa, H’Mông,
Dao…mỗi dân tộc có từ trên một chục đến hơn một trăm người. Dân tộc Mường đã
định cư khá lâu đời ở các xã thuộc miền núi cao như Nho Quan, Tam Điệp, còn lưu giữ
được nhiều giá trị văn hóa truyền thống hấp dẫn du lịch. Các dân tộc khác sống rải rác ở
các địa phương trong tỉnh, không hình thành cộng đồng dân tộc nhất định, đa số có
quan hệ hôn nhân và chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong tục tập quán sinh hoạt, sản
xuất, truyền thống văn hóa của người Kinh.
Trong những năm qua, Ninh Bình đã thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-
xã hội mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII và XIV đề ra với kết quả năm
sau cao hơn năm trước. Kinh tế phát triển, cơ sở hạ tầng được tăng cường, văn hoá - xã
hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân ổn định và được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế hàng năm đạt cao; tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn từ năm 1996-2000 đạt bình
quân: 8,12%/ năm; từ năm 2001-2005 bình quân đạt 11,9%/năm; năm 2006 đạt 12,6%;
cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. Thu
nhập bình quân đầu người năm 1991 đạt 0,51 triệu đồng, năm 2006 đạt 6,42 triệu đồng,
tăng 12,5 lần. Thu ngân sách năm 1991 đạt 24,4 tỉ đồng, năm 2006 đạt 878 tỉ đồng, tăng
35,98 lần.
Về nông nghiệp: tỉnh đã tập trung chỉ đạo chuyển được gần 9000 ha đất nông
nghiệp trồng cây có giá trị thấp sang nuôi trồng các loại cây, con có giá trị kinh tế cao
như: nuôi tôm sú, trồng cói ở Kim Sơn, nuôi tôm càng xanh, trồng dứa ở Tam Điệp,

Nho Quan, nuôi thả cá chim trắng ở Gia Viễn, Hoa Lư, cấy các giồng lúa đặc sản: tám,
nếp, dự... ở Kim Sơn, Yên Khánh.... Cả tỉnh có 294 trang trại mỗi năm doanh thu bình
quân từ 20 triệu đồng trở lên.
Về công nghiệp: tỉnh đã phê duyệt quy hoạch 22 khu công nghiệp, cụm công
nghiệp với diện tích 880 ha trong đó có các khu công nghiệp, cụm công nghiệp lớn như:
khu công nghiệp Tam Điệp, khu công nghiệp Ninh Phúc, cụm công nghiệp Gián
Khẩu.... Ninh Bình đã ban hành các cơ chế, chính sách như: chính sách khuyến khích,
ưu đãi đầu tư vào các khu công nghiệp, khu du lịch; chính sách khuyến khích tài năng
thu hút nhân tài; quỹ khuyến công ; quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển. Trên địa bàn tỉnh đã
khởi công nhiều công trình lớn về giao thông, thuỷ lợi, du lịch, thể thao như: hồ Yên
Thắng; dự án phân lũ, chậm lũ Nho Quan và Gia Viễn; sân vận động, Nhà thi đấu trung
tâm; Nhà máy cán thép Tam Điệp công suất 36 vạn tấn/ năm; Nhà máy xi măng Tam
Điệp công suất 1,4 triệu tấn/ năm....Các công trình đầu tư trên lần lượt đưa vào sử dụng
sẽ tạo ra bước chuyển biến mạnh trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Các hoạt động dịch vụ
vận tải, bưu chính viễn thông, bảo hiểm, tín dụng, du lịch... đều đạt mức tăng trưởng
bình quân trên 25%/ năm. Thu ngân sách tăng bình quân trên 20%/ năm
II. Tài nguyên du lịch của tỉnh
1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
♦ Vườn quốc gia Cúc Phương
Cúc Phương là vườn quốc gia đầu tiên của Việt Nam, thành lập vào ngày
7/7/1962. Vườn quốc gia Cúc Phương có một quần thể hệ động thực vật vô cùng phong
phú, đa dạng và độc đáo. Vườn có diện tích 22.000 ha, trong đó ¾ là núi đá vôi cao từ
300 đến 600m so với mặt biển. Địa hình phức tạp, rừng ở dạng nguyên sinh chứa nhiều
bí ẩn và cảnh quan độc đáo. Tại đây có nhiều chứng tích văn hóa lâu đời như động
Trăng Khuyết, động Chúa, động Thủy Tiên, động Người Xưa, hang Con Moong, động
San Hô.
Trong vườn có suối nước nóng, hệ động thực vật phong phú, đặc biệt có những
cây chò xanh, cây sấu cổ thụ trên dưới 1000 tuổi và những loài thú quí, lạ. Hiện nay,
vườn quốc gia Cúc Phương đã trở thành môt trung tâm cung cấp các lòai thực vật quí
hiếm, có giá trị kinh tế cao phục vụ cho chương trình trồng rừng trong khu vực và trên

cả nước.
♦ Khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long
Là khu bảo tồn sinh cảnh đặc trưng cho hệ sinh thái núi đá ngập nước có diện
tích lớn nhất ở đồng bằng sông Hồng. Đây cũng là nơi khoanh vùng bảo vệ loài Vọoc
quần đùi trắng – là loài linh trưởng quí hiếm đã ghi trong Sách đỏ thế giới. Rừng Vân
Long có 8 loài thực vật, 9 loài động vật được ghi trong Sách đỏ Việt Nam.
Khu Vân Long có 32 hang động đẹp, nhiều hang động có giá trị. Nước ở đây
mênh mông phẳng lặng, không có gió to sóng lớn, mang phong cảnh một miền quê êm
ả - một Vịnh Hạ Long không song. Đây chính là một nơi du lịch sinh thái rất tốt, là hiện
trường nghiên cứu, học tập cho các nhà khoa học, sinh viên khi muốn nghiên cứu về
vùng đất ngập nước nội đồng của Việt Nam.
♦ Quần thể hang động Tràng An
Nằm ở thôn Tràng An, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, với những dải đá vôi, các
thung lũng và những dòng sông ngòi đan xen với nhau tạo nên một không gian huyền
ảo và thơ mộng. Du khách đến bến thuyền sông Sào Khê, từ đây những chiếc thuyền
nan lướt nhẹ trên mặt nước qua Xuyên Thủy Động vào đến quần thể hang động Tràng
An. Hai bên dòng sông là những phong cảnh hữu tình mà thiên nhiên đã ban tặng nơi
đây.
♦ Tam Cốc
Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động là một quần thể du lịch, một địa danh nổi
tiếng từ xa xưa, thuộc địa phận huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình; cách thủ đô Hà Nội 100
km về phía Nam. Nơi đây vẫn giữ được nét nguyên sơ, thiên tạo, với nhiều hang động,
di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng trong và ngoài nước như: đền Thái Vi, Tam Cốc, chùa
Bích Động, động Tiên, chùa Linh Cốc…
Tam Cốc nghĩa là ba hang: hang Cả, hang Hai và hang Ba. Du khách đi thăm
Tam Cốc chỉ có một con đường thủy duy nhất vào ra mất khoảng hai tiếng đồng hồ.
Những du khách ưa thích mạo hiểm có thể tiếp tục xuôi thuyền theo dòng Ngô Đồng
khoảng 2 km nữa tới thăm suối Tiên và tham gia chuyến du lịch mạo hiểm leo núi vào
đền Nội Lâm.
♦ Động Địch Lộng

Động thuộc huyện Gia Viễn, được nhân dân phát hiện từ năm 1739. Đến năm
1740 động được nhân dân trong vùng tu bổ thành một ngôi chùa để thờ Phật. Động
rộng chừng 10 gian nhà, trong động được bày nhiều tượng Phật, tượng La Hán, tượng
Hộ pháp đặt trên các bệ đá. Đặc biệt còn có 2 tượng phật được tác bằng đá xanh nguyên
khối, rất đẹp. Động gồm có 3 hang nối liền nhau, hang ngoài thờ Phật, rồi đến hang Tối,
hang Sáng. Cảnh đẹp của Địch Lộng được vua Minh Mạng ban tặng cho 5 chữ: “ Nam
thiên đệ tam động” – Động đẹp thứ 3 trời Nam.
♦ Động Tiên
Động nằm ở huyện Hoa Lư, cách Bích Động gần 1km. Động gồm có 3 hang lớn,
rộng và cao vời vợi. Trần động là vân đá, nhũ đá rủ xuống lấp lánh nhiều màu sắc.
Nhiều khối nhũ đá từ trên trần rủ xuống nền động cao hơn chục mét tựa như những rễ
cây đa cổ thụ. Xung quanh vách động và trên nền cũng có rất nhiều măng đá, nhũ đá.
Những nhũ đá được thiên nhiên chạm trổ vừa phóng khoáng, vừa tinh xảo mà sống
động. Đứng bên ngoài nhìn vào, dưới ánh sáng kì ảo, động Tiên như một lâu đài nguy
nga tráng lệ trong huyền thoại.
♦ Động Sinh Dược
Thuộc địa phận huyện Gia Viễn, là một động xuyên thủy dài gần 2km chạy dài
theo lòng núi Mắt Rồng, hai đầu hang là hai thung lũng rộng. Vào động bằng 1 trong 2
cửa: lối thứ nhất qua cửa hang Vồng – thung Nước và lối thứ hai là cửa hang thung áng
Nhồi. Hang Vồng là một chiếc cống bằng đá, mái uốn vòm cong tựa một chiếc cầu
vồng nhỏ bắc trên một dòng suối trong mát lạnh. Thung áng Nhồi là một lòng thung
rộng khoảng 3 ha, xung quanh là cây và hoa rừng, những thảm cỏ xanh mướt, không
khí trong lành.
♦ Đèo Tam Điệp
Đèo Tam Điệp còn có tên là đèo Ba Dội, thuộc thị xã Tam Điệp, cách thành phố
Ninh Bình 18km về phía Nam. Nơi đây có 3 dãy núi đá vôi chạy suốt từ Hòa Bình về,
ăn ra biển Đông theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Điều độc đáo là Đèo Tam Điệp có
đất đỏ. Từ đây du khách có thể quan sát cả một vùng rộng lớn. Toàn cảnh đèo là những
dãy núi hung vĩ, hiểm trở, quanh co như những con rồng uốn khúc, đan xen là những
thung lũng rộng và nhiều dòng suối trong xanh uốn lượn. Ngoài ra Đèo Tam Điệp còn

là một phòng tuyến lợi hại , có vị trí chiến lược trong quân sự, như bức tường thành
thiên nhiên án ngữ con đường Bắc Nam
♦ Suối nước nóng Kênh Gà

×