Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Gỉai pháp hoàn thiện hoạt động tín dụng đầu tư của chi nhánh ngân hàng phát triển đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (752.51 KB, 64 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
---- K ---

NGUYỄN THẾ DUY

BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN TỰ CÓ
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế tài chính – Ngân hàng
Mã số:60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS. PHẠM VĂN NĂNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2009


LỜI MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Tháng 12 năm 2008, thế giới tài chính toàn cầu sững sốt khi nghe tin
Lehmon Brother, một trong những ngân hàng đầu tư hàng đầu của Mỹ tuyên bố
phá sản. Điều này đã châm ngòi cho cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế tệ hại nhất kể từ cuộc đại suy thoái trong thập niên 30 của thế kỷ 19. Sự
sụp đổ của các tổ chức tài chính toàn cầu một thời là niềm kêu hãnh của quốc
gia có nền tài chính hùng mạnh nhất thế giới đem đến nhiều thắc mắc cho các
nhà kinh tế thế giới. Hàng loạt các câu hỏi, giả thuyết được đặt nhằm tìm hiểu
những lý do. Tuy nhiên, khi căn bệnh còn chưa kịp chuẩn đoán thì mức độ lây
lan càng thêm nghiêm trọng, khi mà chính phủ các nước giàu và nghèo cùng
nhau can thiệp bằng nhiều cách khác nhau để tránh một sự đổ vỡ mang tính dây
chuyền xảy ra.


Đến đây các nhà kinh tế cũng như những người dân nộp thuế tự hỏi rằng:
sự kiểm soát tính hiệu quả của việc sử dụng những đồng vốn tại các tổ chức tài
chính trong quá khứ như thế nào? Các chính sách kiểm soát độ an toàn hoạt
động, mức độ rủi ro kinh doanh và đầu tư đã được theo dõi khoa học, chặt chẽ
hay chưa?…Rất nhiều các câu hỏi được đặt ra trong các kỳ họp của hội đồng
kinh tế quốc gia hoặc khi Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) điều trần trước Quốc
hội.
Tại Việt Nam, mặc dù ảnh hưởng không nhiều từ cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu (do chúng ta chưa đầu tư vào các sản phẩm tài chính phức tạp
của thế giới) nhưng nền kinh tế nói chung và các tổ chức tài chính trong nước
nói riêng cũng bị ảnh hưởng theo từ cuộc suy thoái kinh tế thế giới. Do đó việc
nhìn nhận lại các cơ chế hay chính sách quản lý rủi ro, quản lý vốn tại các ngân
hàng thương mại cổ phần là việc cần phải làm và nên làm trong giai đoạn hiện
nay khi mà cả thế giới đã có những thay đổi trong quan điểm về tái cơ cấu nền
tài chính toàn cầu cũng như các phương pháp quản lý, điều hành kinh tế.


Và đây cũng là một trong những lý do mà tôi chọn đề tài này: “ Bảo toàn và
phát triển vốn tự có tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam ”.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
- Đánh giá việc bảo toàn và phát triển nguồn vốn tự có của các ngân hàng
thương mại cổ phần Việt Nam trong giai đoạn trong giai đoạn hội nhập kinh tế
toàn cầu và trước sự tác động của cuộc khủng hoãng tài chính thế giới.
- Chỉ ra các thực trạng trong công tác kiểm soát và phát triển nguồn vốn tự
có tại các ngân hàng thương mại cổ phần.
- Cuối cùng là đưa ra các đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo
toàn và phát triển nguồn vốn tự có trong hoạt động của các ngân hàng thương
mại cổ phần Việt Nam.
3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Đối tượng được nghiên cứu của đề tài là nguồn vốn tự có trong phạm vi hoạt

động của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CÚU:
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài này là phương pháp phân
tích thống kê, phương pháp quy nạp và kết quả nghiên cứu của một số nhà
nghiên cứu khác.
5. KẾT CẤU LUẬN VĂN:
Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn được kết cấu làm 03 chương:
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN TỰ
CÓ CỦA CÁC NHTMCP


Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN
TỰ CÓ TẠI CÁC NHTMCP VN
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO Hiệu quả
CÔNG TÁC BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN TỰ CÓ TẠI CÁC
NHTMCP VN


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN
TỰ CÓ CỦA CÁC NHTMCP
1.1. KHÁI NIỆM VÀ CHỨC NĂNG CỦA CÁC NH TMCP
1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng trước tiên là một tổ chức trung gian tài chính. Trung gian tài
chính là là một tổ chức, doanh nghiệp hoặc cá nhân thực hiện chức năng trung
gian giữa hai hay nhiều bên trong một hoạt động tài chính nhất định. Cũng có
thể hiểu theo một cách định nghĩa khác, trung gian tài chính là một tổ chức hỗ
trợ các kênh luân chuyển vốn giữa người cho vay và người đi vay theo phương
thức gián tiếp. Những tổ chức trung gian tài chính mà ta thường nghe nhắc đến
bao gồm: ngân hàng, tổ chức công nghiệp/ hiệp hội, tổ chức tín dụng nghiệp
đoàn, đơn vị tư vấn/cố vấn tài chính và môi giới, các hình thức công ty bảo

hiểm, quỹ tương hỗ, quỹ hưu trí. Ngân hàng có thể định nghĩa đơn giản là tổ
chức hoạt động kinh doanh cung cấp các dịch vụ ngân hàng để tìm kiếm lợi
nhuận. Ngân hàng phát triển qua nhiều hình thái, theo xu thế ngày càng mở
rộng. Sự mở rộng thể hiện ở lượng dịch vụ, quy mô dịch vụ và ở sự lan rộng
vượt ra ngoài mọi biên giới địa lý. Ngày nay người ta nhắc đến những khái
niệm là ngân hàng bán lẻ, ngân hàng bán buôn, ngân hàng đầu tư…Ngân hàng
bán lẻ chỉ những hệ thống ngân hàng lớn, nhiều chi nhánh mà đối tượng phục
vụ thường là các khách hàng cá nhân, đơn vị riêng lẻ và tập trung và các dịch
vụ là tiết kiệm, tạo tài khoản giao dịch, thanh toán, thế chấp , cho vay các các
nhân, các loại thẻ tín dụng…Ngân hàng bán buôn là loại ngân hàng chỉ cung
cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp, làm vai trò trung gian cho các doanh nghiệp.
1.1.2 Khái niệm ngân hàng thương mại cổ phần
Ngân hàng thương mại cổ phần là các ngân hàng hoạt động kinh doanh,
thương mại theo mô hình cổ phần và tuân theo các luật riêng của Chính phủ và
các quy chế, quy định của Ngân hàng nhà nước khi hoạt động. Ngân hàng
thương mại cổ phần có những đặc thù khác biệt với các ngân hàng thương mại


nhà nước và ngân hàng thương mại liên doanh và chi nhánh ngân hàng thương
mại nước ngoài.
1.1.3 Chức năng của NHTMCP
Chức năng tập trung vốn của nền kinh tế: Trong nền kinh tế có những chủ
thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa được sử dụng một cách triệt để (ví dụ như
vẫn còn cất giấu trong nhà chưa được mang ra lưu thông) nhưng họ cũng muốn
tiền này sinh lời cho mình và họ nghĩ là cho vay và có những chủ thể cần tiền
để hoạt động kinh doanh. Nhưng những chủ thể này không quen biết nhau và
cũng có thể không tin tưởng nhau nên tiền vẫn chưa được lưu thông. Ngân
hàng thương mại với vai trò trung gian của mình, nhận tiền từ người muốn cho
vay, trả lãi cho họ và đem số tiền ấy cho người muốn vay vay lại. Thực hiện
được điều này NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền

kinh tế, mặt khác với số vốn này NHTM sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn của nền
kinh tế để sản xuất kinh doanh. Qua đó nó thúc đẩy nền kinh tế phát triển và
NHTM vừa là người đi vay vừa là người cho vay và với số lãi suất chênh lệch
có được nó sẽ duy trì hoạt động của mình. Vai trò trung gian này trở nên phong
phú hơn với việc phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu,… NHTM có thể làm
trung gian giữa công ty và các nhà đầu tư, chuyển giao mệnh lệnh trên thị
trường chứng khoán, đảm nhận việc mua trái phiếu công ty…
Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh
toán: Chức năng này có nghĩa là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản
hay chi trả tiền theo lệnh của chủ tài khoản. Khi các khách hàng gởi tiền vào
ngân hàng, họ sẽ được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu
chi một cách nhanh chóng tiện lợi, nhất là đối với các khỏan thanh tóan có giá
trị lớn, ở mọi địa phương mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém khó khăn và
không an toàn (ví dụ: chi phí lưu thông, vận chuyển, bảo quản…)
Khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông
và độc quyền quản lý các công cụ đó (séc, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán…)


đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều vể chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân
chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa. Ở các nước phát triển phần
lớn thanh toán được thực hiện qua séc và được thực hiện bằng việc bù trừ thông
qua hệ thống ngân hàng thương mại. Ngoài ra việc thực hiện chức năng là thủ
quỹ của các doanh nghiệp qua việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán đã tạo
cơ sở cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay.
Hiện nay ở các nước công nghiệp phát triển việc sử dụng hình thức chuyển
tiền bằng đện tử là chuyện bình thường và chính điều này đưa đến việc không
sử dụng séc ngân hàng mà dùng thẻ như thẻ tín dụng. Họ thanh toán bằng cách
nối mạng các máy vi tính của các ngân hàng thương mại trong nước nhằm thực
hiện chuyển vốn từ tài khoản người này sang người khác một cách nhanh
chóng.

Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp:
Vào cuối thế kỷ 19 hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các ngân hàng
không còn họat động riêng lẽ nữa mà tạo thành hệ thống, trong đó ngân hàng
trung ương là cơ quan quản lý về tiền tệ, tín dụng là ngân hàng của các ngân
hàng. Các ngân hàng còn lại kinh doanh tiền tệ, nhờ họat động trong hệ thống
các NHTM đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền mặt.
1.2

KHÁI

NIỆM,

CHỨC

NĂNG

VÀ PHÂN

LOẠI

VỐN

TỰ

CÓ NHTMCP
1.2.1. Khái niệm vốn tự có: vốn tự có là nguồn vốn ban đầu để một doanh
nghiệp bắt đầu tiến hành quá trình hoạt động. Hay nói các khác vốn tự có là
nguồn vốn riệng của ngân hàng do chủ sở hữu đóng góp và nó còn được tạo ra
trong quá trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận giữ lại. Nguồn vốn này quyết
định quy mô hoạt động của một ngân hàng cũng như các khả năng bảo vệ chính

tổ chức sinh ra nguồn vốn này trong suốt quá trình hoạt động.


1.2.2. Chức năng của vốn tự có
Trong hoạt động của một ngân hàng, nguồn vốn có vai trò hết sức quan
trọng. Ngoài việc giúp duy trì hoạt động kinh doanh hằng ngày của ngân hàng,
một ngân hàng với nguồn vốn phong phú giúp tạo nên tính thanh khoản cho
toàn hệ thống tài chính thông qua các kênh phân phối vốn lại trên thị trường,
thực hiện các chỉ tiêu kinh tế của chính phủ trong từng thời kỳ cụ thể cũng như
các chiến lược kinh tế cơ bản của Nhà nước.
Trong tương quan so sách quy mô hoạt động của các ngân hàng trong nước
và các ngân hàng trong khu vực, nguồn vốn là chỉ tiêu so sánh cơ bản giúp
phản ánh sức mạnh, tiềm lực của từng ngân hàng cũng như khả năng chống đỡ
các cú sốc tài chính nếu xảy ra. Từ đó, giúp phân loại, xếp hạng các ngân hàng
với nhau để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, các chuyên gia kinh tế, các nhà
quản lý…đánh giá, lựa chọn, tìm cơ hội đầu tư và giám sát tốt hơn nền tài
chính của quốc gia.
Bởi vì là thành phần cơ bản trong nguồn vốn của ngân hàng nên vốn
tự có đóng vai trò rất quan trọng trong chức năng chung của nguồn vốn ngân
hàng. Và chức năng của vốn tự có giúp chúng ra có cái nhìn sâu hơn,
cụ thể hơn về chức năng của nguồn vốn. theo đó, bản thân vốn tự có có thêm
các chức năng chính sau đây:


Chức năng bảo vệ: Trong hoạt đông kinh doanh có rất nhiều rủi ro,
những rủi ro này khi xảy ra sẽ gây ra những thiệt hại lớn cho ngân hàng,
đôi khi nó có thể dẫn ngân hàng đến chỗ phá sản. Khi đó vốn tự có sẽ
giúp ngân hàng bù đắp được những thiệt hại phát sinh và đảm bảo cho
ngân hàng tránh khỏi nguy cơ trên. Trong một số trường hợp ngân hàng
mất khả năng chi trả thì vốn tự có sẽ được sử dụng để hoàn trả cho

khách hàng. Ngoài ra, do mối quan hệ hỗ tương giữa ngân hàng với
khách hàng, vốn tự có còn có chức năng bảo vệ cho khách hàng không
bị mất vốn khi gửi tiền tại ngân hàng.




Chức năng hoạt động: Thể hiện ở chổ vốn tự có có thể được sử dụng để
cho vay, hùn vốn hoặc đầu tư chứng khoán nhằm mang lại lợi nhuận cho
ngân hàng. Tuy nhiên, do vốn tự có chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng
nguồn vốn kinh doanh nên lợi nhuận mà nó mang lại cũng không cao.
Vì vậy chức năng hoạt đông ở đây cũng chỉ là thứ yếu.



Chức năng điều chỉnh: Vốn tự có là đối tượng mà các cơ quan quản lý
ngân hàng thường hướng vào đó để ban hành những quy định nhằm điều
chỉnh hoạt động của các ngân hàng, là tiêu chuẩn để xác định tính an
toàn (ví dụ như các ngân hàng không được đầu tư vào tài sản cố định
vượt qúa 50% vốn của ngân hàng). Vốn tự có còn là căn cứ để xác định
và điều chỉnh các giới hạn hoạt động nhằm đảm bảo ngân hàng an toàn
trong kinh doanh.

1.2.3 Phân loại vốn tự có:
Vốn tự có của các ngân hàng thương mại được chia ra làm cấp :


Vốn cấp 1 bao gồm vốn điều lệ và các quỹ dự trữ . Ở VN, vốn cấp 1 về
cơ bản gồm (i) vốn điều lệ, (ii) lợi nhuận giữ lại, (iii) các quỹ dự trữ
được lập trên cơ sở trích lập từ lợi nhuận của các tổ chức tín dụng như

quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tư
phát triển. Theo Quyết Định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 của
Ngân hàng Nhà nước, vốn cấp 1 được dung để xác định giới hạn mua,
đầu tư vào tài sản cố định của tổ chức tín dụng ( theo quy định hiện hành
là không quá 50%).



Vốn cấp 2 là các nguồn vốn tự bổ sung hoặc có nguồn gốc từ bên ngoài
của tổ chức tín dụng. Ở VN, vốn cấp 2 về cơ bản bao gồm (i) phần giá
trị tăng thêm do định giá lại tài sản của tổ chức tín dụng ( bao gồm 50%
giá trị tăng thêm đối với tài sản cố định, 40% giá trị tăng thêm đối với
các loại chứng khoán đầu tư), (ii) nguồn vốn gia tăng hoặc bổ sung từ
bên ngoài (bao gồm trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và một số
công cụ nợ thứ cấp nhất định) và (iii) dự phòng chung cho rủi ro tính


dụng (tối đa bằng 1,25% tổng tài sản “Có” rủi ro). Tuy nhiên, Quyết
Định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 của Ngân hàng Nhà nước
đưa ra một số hạn chế về vốn cấp 2. Ngoài một số điều kiện khác, tổng
giá trị vốn cấp 2 tối đa bằng 100% tổng giá trị vốn cấp 1 và tổng gía trị
trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và các công cụ nợ khác tối đa
bằng 50% vốn cấp 1.
Việc xác định vốn tự có theo hai cấp theo Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN
ngày 19/04/2005 của Ngân hàng Nhà nước sẽ cho phép các ngân hàng thương
mại trong nước tính toán cụ thể và nâng cao được mức vốn tự có của mình vốn
dĩ trước đây phần lớn chỉ được tính trên cơ sở vốn cấp 1. Do đó, hiện nay các
tổ chức tín dụng cũng sẽ dễ dàng hơn trong việc tuân thủ các tỷ lệ an toàn tính
trên cơ sở vốn tự có.
Ngoài ra một điều đáng lưu ý là: các tổ chức tín dụng phải trừ ra khỏi vốn

tự có của mình (i) toàn bộ phần giá trị giảm đi của các tài sản cố định hay các
chứng khoán đầu tư do định giá lại, (ii) tổng số vốn góp hoặc cổ phần trong tổ
chức tín dụng khác, (iii) phần góp vốn, liên doanh, mua cổ phần của quỹ đầu
tư, doanh nghiệp vượt mức 15% vốn tự có, và (iv) lỗ kinh doanh kể cả các
khoản lỗ luỹ kế.
1.3 CÁC BIỆN PHÁP BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN TỰ CÓ CỦA
CÁC NHTMCP
1.3.1 Nguồn bên ngoài
• Phát

hành cổ phiếu thường:

Ưu điểm: Không phải hoàn trả cho người mua cổ phiếu, cổ tức của cổ phiếu
thường không phải là gánh nặng về tài chính cho ngân hàng trong những năm
làm ăn thua lỗ. Phương pháp này làm tăng quy mô vốn nên cũng làm tăng khả
năng vay nợ của ngân hàng trong tương lai.


Nhược điểm: Chi phí cao và có thể làm loãng quyền sở hữu ngân hàng
(Dulution), giảm mức cổ tức trên mỗi cổ phiếu (Earning per share), làm giảm
tỷ lệ đòn bẩy tài chính mà ngân hàng có thể tận dụng.
• Phát

hành cổ phiếu ưu đãi vĩnh viễn:

Ưu điểm: Không phải hoàn trả vốn và không làm phân tán quyền kiểm soát
ngân hàng, tăng khả năng vay nợ của ngân hàng trong tương lai.
Nhược điểm: Cổ tức phải trả cho các cổ đông là gánh nặng tài chính trong
những năm ngân hàng bị thua lỗ, chi phí phát hành cao, giảm mức cổ tức trên
mỗi cổ phiếu.

• Phát

hành giấy nợ thứ cấp (thời hạn tối thiểu 7 năm):

Ưu điểm: Chi phí thấp và không làm phân tán quyền kiểm soát của ngân hàng.
Đây là phương pháp hiệu qủa vì trái phiếu này được các nhà đầu tư ưa chuộng
trên thị trường.
Nhược điểm: Phải hoàn trả cho người mua trái phiếu khi đến hạn, lãi trả cho
trái phiếu là gánh nặng cho ngân hàng về tài chính.
Ngân hàng còn có thể thực hiện các biện pháp tăng vốn từ nguồn bên ngoài
khác như bán tài sản và thuê lại, chuyển đổi chứng khoán nợ thành cổ phiếu...
1.3.2 Nguồn bên trong:
Chủ yếu do tăng lợi nhuận giữ lại. Đây là lợi nhuận ngân hàng đạt được trong
năm, nhưng không chia cho các cổ đông mà giữ lại để tăng vốn.
Ưu điểm: Không tốn kém chi phí, không làm loãng quyền kiểm soát ngân hàng
và không phải hoàn trả. Phương pháp này giúp ngân hàng không phụ thuộc vào
thị trường vốn nên tránh được chi phí huy động vốn.


Nhược điểm: Chỉ áp dụng với các ngân hàng lớn, làm ăn có lãi liên tục và đều
đặn. Hình thức này không thể áp dụng thường xuyên vì nó làm ảnh hưởng đến
quyền lợi của cổ đông.
Phương pháp này phụ thuộc vào:


Chính sách cổ tức của ngân hàng: Chính sách này cho biết ngân hàng
cần phải giữ lại bao nhiêu thu nhập để tăng vốn phục vụ cho mở rộng
kinh doanh và bao nhiêu thu nhập sẽ được chia cho các cổ đông.

Ta có:

Tỷ

lệ thu

nhập

giữ lại
(Lợi

Mức thu nhập giữ
= lại

nhuận

không

Thu nhập sau thuế

chia)

Tổng
Tỷ lệ chi

cổ tức

trả cổ tức =

Thu

giá trị


nhập

sau

thuế

Tỷ lệ thu nhập giữ lại quá thấp sẽ làm cho mức tăng trưởng vốn ngân hàng sẽ
chậm, dẫn đến giảm khả năng mở rộng tài sản sinh lời, tăng rủi ro phá sản.
Ngược lại, nếu tỷ lệ thu nhập giữ lại quá lớn sẽ làm giảm thu nhập của cổ đông
dẫn đến thị giá cổ phiếu của ngân hàng bị giảm.




Tốc độ tăng vốn từ nguồn nội bộ: Một tỷ lệ tăng trưởng vốn từ nguồn
nội bộ lý tưởng phải đáp ứng cả hai yêu cầu: Một là, ngân hàng tăng
trưởng được tài sản có (đặc biệt là các khoản cho vay); hai là, không làm
suy giảm quá mức tỷ số vốn/tài sản của ngân hàng.

Ở VN, các tổ chức tín dụng có thể dùng quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ để tăng
vốn điều lệ của mình theo Quyết định 797/2002/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 07
năm 2002 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam ký ban hành. Theo
đó, tại điều 22 có sửa đổi lại như sau: “Vốn điều lệ của Ngân hàng thương mại
cổ phần có thể được tăng bằng cách phát hành cổ phiếu mới hoặc được bổ sung
từ quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, đánh giá lại tài sản cố định và các quỹ khác
theo quy định của pháp luật nhưng phải được Đại hội đồng cổ đông thông qua
và phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản trước khi thực
hiện.”
Kết luận chương 1

Qua phần trình trong chương 1 cho chúng ta cái nhìn cơ bản về những khái
niệm, đặc điểm, chức năng của các ngân hàng thương mại cổ phần. Gắn liền
với quá trình hình thành và phát triển của các ngân hàng thương mại thì nguồn
vốn tự có ban đầu là yếu tố vô cùng quan trọng. Vì thế các khái quát về công
tác bảo toàn và phát triển vốn tự có giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn tầm quan
trọng của nhân tố cơ bản này. Và từ đây giúp chúng ta có những hiểu biết ban
đầu về các đối tượng được đưa ra nghiên cứu trong chương này trước khi đi sâu
vào các thực trạng đang tồn tài ở chương tiếp theo.


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BẢO TOÀN VÀ PHÁT
TRIỂN VỐN TỰ CÓ TẠI CÁC NHTMCP VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
HỆ THỐNG NHTMCP VN:
Cho đến nay, ngành ngân hàng nước ta đã trải qua 59 năm (1951 đến nay)
xây dựng và phát triển, với nhiều chặng đường gay go và phức tạp nhưng
vẫn ổn định và phát triển tốt. Đặc biệt là chặng đường từ năm 1986 cho đến
nay, chặng đường đổi mới căn bản và toàn diện của hệ thống ngân hàng VN.
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện theo tinh thần của Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI (năm1986), Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng (nay là Thủ tướng
chính phủ) ký quyết định số 218/CT ngày 3.7.1987 cho làm thử việc chuyển
hoạt động ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh Xã hộ chủ nghĩa
HCN (làm thử đầu tiên tại TP.HCM từ tháng 7.1987, Hà Nội, Gia Lai...), sau
đó tổng kết và Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng đã ban hành Nghị định 53/HĐBT
ngày 26.3.1988 đổi mới mô hình tổ chức bộ máy ngân hàng Việt Nam, với sự
ra đời của hệ thống ngân hàng chuyên doanh. Đến năm 1990, cơ chế đổi mới
ngân hàng được hoàn thiện thông qua việc công bố hai Pháp lệnh ngân hàng
vào ngày 24.5.1990 (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước VN và Pháp lệnh ngân
hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính) đã chính thức chuyển cơ chế
hoạt động của hệ thống Ngân Hàng Việt Nam từ “một cấp” sang “hai cấp”.

Theo đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về
tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng, là ngân hàng duy nhất
được phát hành, là ngân hàng của các ngân hàng, là ngân hàng của Nhà
nước…, còn hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng do các
tổ chức tín dụng thực hiện. Các tổ chức tín dụng bao gồm: ngân hàng thương
mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính. Tháng
12.1997 trước yêu cầu cao của thực tiễn hai Pháp lệnh ngân hàng đã được Quốc
hội nâng lên thành hai luật về ngân hàng (có hiệu lực từ ngày 1.10.1998) và sau
đó Luật NHNN và Luật các TCTD được sửa đổi và bổ sung vào năm 2003,


2004. Như vậy, hệ thống ngân hàng thương mại VN đã chính thức đánh dấu
sự ra đời và phát triển khoảng trên 20 năm (từ 1990 đến nay). Trải qua chặng
đường trên, hệ thống NHTM VN đã không ngừng phát triển về quy mô (vốn
điều lệ không ngừng gia tăng, mạng lưới chi nhánh…), chất lượng hoạt động và
hiệu quả trong kinh doanh. Mạng lưới ngân hàng thương mại VN đến cuối
năm 2009 đã có những buớc phát triển mạnh phủ khắp quận huyện và hình
thành cả trong các trường học. Hệ thống NHTM ở nước ta bao gồm: 5 NHTM
nhà nước (Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng đầu tư và phát triển VN,
Ngân hàng phát triển VN, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn,
Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long), 39 NHTM cổ phần đô
thị và nông thôn, 24 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 05 ngân hàng liên doanh,
05 ngân hàng 100% vốn tại VN và 01 Quỹ tín dụng nhân dân. Vốn điều lệ của
các NHTM VN không ngừng gia tăng, NHTMNN sau nhiều lần bổ sung vốn đã
nâng tổng vốn chủ sở hữu của 05 NHTMNN lên trên 20.000 tỷ đồng tăng gấp 3
lần so với thời điểm cuối năm 2000. Vốn điều lệ của NHTMCP được gia tăng
đáng kể từ lợi nhuận giữ lại, sáp nhập, các quỹ bổ sung vốn điều lệ, phát hành
thêm cổ phiếu… từ đó giúp tổng vốn điều lệ NHTMCP đến cuối năm 2009
tăng rất nhanh 2000, nhiều NHTMCP có vốn điều lệ trên 1000 tỷ đồng.

2.2 KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NHTMCPVN
2.2.1 Điểm mạnh và điểm yếu của các ngân hàng Việt Nam khi gia nhập
WTO:
Nói đến điểm mạnh của các ngân hàng trong nước trước hết là mạng lưới
hoạt động. Các NHTM trong nước có một mạng lưới rộng khắp thông qua các
chi nhánh và sở giao dịch. Thứ hai, các ngân hàng trong nước đã thiết lập được
mối quan hệ với các hệ thống các khách hàng. Mỗi ngân hàng đã có hệ thống
khách hàng truyền thống để chăm sóc và ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ từ
nhiều năm, đặc biệt là khối các ngân hàng thương mại nhà nước. Thứ ba, với
thâm niên hoạt động của mình, các ngân hàng nội địa rất am hiểu tập quán


phong tục, tâm lý khách hàng Việt Nam. Đây là một lợi thế trong việc chăm
sóc khách hàng.
Các ngân hàng trong nước vẫn còn nhiều hạn chế: Thứ nhất, năng lực tài
chính của các ngân hàng nội địa còn rất non yếu. Theo dự đoán của VAFI Hiệp hội các nhà đầu tư Tài chính Việt Nam, quy mô trung bình của hệ thống
ngân hàng thương mại Việt Nam 5 năm tới chỉ vào khoảng 100 triệu USD/
ngân hàng, đây là khoảng cách rất xa so với mức trung bình 1-2 tỷ USD/ngân
hàng ở các nước trong khu vực. Thứ hai, các ngân hàng nước ngoài có thể
mạnh về cung cấp dịch vụ, trong khi đó các ngân hàng nội địa chủ yếu hoạt
động trong lĩnh vực tín dụng. Theo HSBC, doanh thu từ thanh toán quốc tế
chiếm 1/3 tổng doanh thu của ngân hàng này, khách hàng là các công ty Việt
Nam cách đây 3 năm chỉ chiếm 3%, nay đã chiếm 50% trên tổng số khách hàng
của HSBC, dự đoán 3 năm nữa tăng lên 70%. Thứ ba, là vấn đề công nghệ. Các
ngân hàng nước ngoài vượt khá xa về trình độ công nghệ ngân hàng với các hệ
thống máy móc thiết bị cũng như các ứng dụng công nghệ thông tin trong
nghiệp vụ ngân hàng. Và thứ tư là trình độ quản lý. Yếu tố này liên quan đến
vấn đề nhân sự. Việt Nam còn thiếu rất nhiều các chuyên gia cao cấp trong lĩnh
vực ngân hàng. Điều này không những đáng lo ngại cho các ngân hàng nội địa
trong vấn đề quản lý ngân hàng mà còn là nguy cơ cạnh tranh nhân lực giữa

các ngân hàng sẽ đẩy chi phí tiền lương, tiền công lao động lên cao. Các ngân
hàng trong nước sẽ gặp khó khăn và phải đối mặt với sự chảy máu chất xám.
Bên cạnh những điểm hạn chế hay còn gọi là những nguy cơ tiềm ẩn nêu trên,
các ngân hàng trong nước còn gặp phải vấn đề đáng lo ngại nữa là thị phần co
hẹp.
2.2.2 Động thái của các NHTMCP VN:


Thứ nhất, các ngân hàng nội địa đã tăng vốn điều lệ. Giải pháp này
nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, giảm rủi ro, nâng cao tiềm lực tài
chính. Theo dự báo của các chuyên gia, trong năm 2007, các ngân hàng
TMCP có vốn điều lệ 1.000 tỉ đồng sẽ chiếm trên 80% tổng số ngân


hàng đang hoạt động. Bên cạnh giải pháp tăng vốn điều lệ, một số ngân
hàng thương mại cổ phần nông thôn trong năm 2006 đã được Ngân hàng
Nhà nước cho phép chuyển đổi mô hình hoạt động từ ngân hàng thương
mại cổ phần nông thôn sang ngân hàng thương mại cổ phần đô thị. Tuy
nhiên, giải pháp tăng vốn điều lệ không tránh khỏi tình trạng các ngân
hàng tận dụng cơ hội để phát hành cổ phiếu ồ ạt. Việc này có thể không
tốt nếu tỉ lệ an toàn vốn quá cao (được tính bằng tỉ lệ vốn điều lệ trên
tổng tài sản).


Thứ hai, các NHTMCP đua nhau bán lại cổ phần cho các ngân hàng
nước ngoài. Đứng trước một sân chơi lớn với sự cạnh tranh khốc liệt khi
hội nhập vào WTO và tận dụng giai đoạn chứng khoán bùng nổ cuối
năm 2007, các ngân hàng TMCP Việt Nam tranh thủ phát hành cổ phiếu
để tăng vốn để thu về sự chênh lệch giá trị lớn và học hỏi các kinh
nhiệm quản lý tiên tiến, chuyên nghiệp từ các cổ đông nước ngoài trong

thành phần cổ đông chiến lược của ngân hàng Việt Nam. Ta có thể kể
đến một số ngân hàng TMCP Việt Nam đi theo con đường này như:
ACB bán cổ phần cho Standard chartered, Sacombank thì chọn ANZ,
Techcombank thì có HSBC, Habubank thích cổ đông đến từ Đức –
Deustche bank, Sumitomo chọn Eximbank là đối tác chiến lược trong số
các ngân hàng nội địa hay Southern bank hợp tác với UOB (Singapore)
để cùng nhau phát triển lâu dài…



Thứ ba, các ngân hàng nội địa liên tục tìm cách đa dạng hoá các sản
phẩm dịch vụ bằng cách hợp tác phát triển với các ngân hàng nước
ngoài; Citibank kết hợp với NHTMCP Đông á về phát triển dịch vụ
ngân hàng bán lẻ và chuyển kiều hối; Hợp tác về liên kết thẻ giữa
VNBC Việt Nam với China Union Pay, một liên kết thẻ lớn nhất và duy
nhất của Trung Quốc, các ngân hàng trong nước cũng đang nắm bắt nhu
cầu của khách hàng để đưa ra các dịch vụ chuyển tiền nhanh. Ngân hàng
ACB kết hợp với Western Union, ngân hàng Công thương cung cấp dịch
vụ kiều hối qua máy rút tiền tự động và hợp tác với Wells-Fargo. Ngân
hàng Đông á với chương trình chuyển tiền kiều hối MoneyGram.




Thứ tư, Việt Nam đẩy mạnh hợp tác thành lập ngân hàng liên doanh và
công ty tài chính liên doanh.



Thứ năm, một trong những yếu tố quan trọng nữa mà các ngân hàng nội

địa đang cố gắng hành động đó là tăng cường đội ngũ nhân lực thông
qua cải thiện các chế độ lương thưởng, trợ cấp cho nhân viên để giữ
chân nhân viên cũ và tìm kiếm những chuyên viên giỏi.

2.2.3 Khái quát tình hình hoạt động của các NHTMCP VN
Là trung tâm kinh tế lớn nhất và sôi động nhất cả nước, tính đến hết tháng
10-2007, tổng nguồn vốn huy động của các ngân hàng thương mại và tổ chức
tín dụng trên địa bàn thành phồ Hồ Chí Minh đạt 437.000 tỷ đồng, tăng 53% so
với cuối năm 2006 và tăng tới 73% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức tăng
lớn nhất từ trước tới nay.
Trong số đó thì vốn huy động bằng nội tệ đạt 322.706 tỷ đồng, vốn huy
động ngoại tệ quy đổi đạt 114.294 tỷ đồng, chiếm 26,1%. Dự báo đến hết năm
2007, tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đạt
460.000 - 465.000 tỷ đồng, tăng 62-65% so với cuối năm 2006. Tại Hà Nội,
tính đến hết tháng 10-2007, tổng nguồn vốn huy động của các Ngân hàng
thương mại và tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội đạt 326.624 tỷ
đồng, tăng 34,54% so với cuối năm 2006, đây là mức tăng lớn nhất trong nhiều
năm. Cũng tính đến hết tháng 10-2007, tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng
thương mại và tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ước tính
đạt 345.000 tỷ đồng, tăng 50% so với cuối năm 2006 và tăng 63% so với cùng
kỳ này năm trước.
Nếu phân theo tiền tệ thì dư nợ cho vay bằng nội tệ đạt 241.155 tỷ đồng,
dư nợ cho vay bằng ngoại tệ đạt 103.445 tỷ đồng. Phân theo kỳ hạn
thì dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 209.647 tỷ đồng, dư nợ trung và dài hạn đạt
135.353 tỷ đồng. Do tỷ giá ổn định, lãi suất cho vay ngoại tệ chỉ bằng 50% 60% mức lãi suất cho vay nội tệ nên nhiều doanh nghiệp thích vay vốn ngoại tệ


hơn, ngược lại người gửi tiền thì thích gửi bằng nội tệ hơn vì lãi suất tiền gửi
cùng kỳ hạn của nội tệ cao gấp 2 lần tiền gửi ngoại tệ. Tại Hà Nội, dư nợ cho
vay cũng tăng với tốc độ rất lớn. Tính đến hết tháng 10-2007, tổng dư nợ cho

vay đạt 163.838 tỷ đồng, tăng 37,44% so với cuối năm 2006. Dự báo đến hết
năm 2007, dư nợ cho vay sẽ đạt 171.000 - 174.000 tỷ đồng, tăng 45% - 48% so
với cuối năm trước. Đây cũng là mức tăng cao nhất từ trước đến nay và vượt xa
nhiều so với dự báo từ đầu năm của các ngân hàng. Một số ngân hàng thương
mại cổ phần sẽ có mức tăng trưởng dư nợ tới 55% đến 65%.
Về cơ cấu dư nợ phân theo thời hạn, cho vay ngắn hạn đạt 100.089 tỷ đồng,
tăng 33,50% và dư nợ cho vay trung dài hạn đạt 63.749 tỷ đồng, tăng 44,10%.
Tín dụng trung dài hạn tăng cao hơn ngắn hạn chứng tỏ nhu cầu vốn đầu tư
chiều sâu, đầu tư cho mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng nhà xưởng, lắp
đặt trang thiết bị mới và hiện đại tăng lên.
Một nguyên nhân khác, vốn đầu tư cho các khu công nghiệp, khu chế xuất,
khu đô thị mới, dự án nhà ở, vốn cho vay mua nhà chung cư, mua ô tô, phương
tiện vận chuyển, máy móc thiết bị thi công, xây dựng khách sạn, văn phòng cho
thuê, trung tâm thương mại, siêu thị.... cũng tăng cao.
Về cơ cấu dư nợ theo tiền tệ, dư nợ cho vay bằng nội tệ đạt 100.092
tỷ đồng, tăng 38,8% và dư nợ cho vay ngoại tệ đạt 34,72%. Nguyên nhân dư nợ
cho vay nội tệ cao hơn ngoại tệ cũng tương tự như ở thành phố Hồ Chí Minh.
Không chỉ riêng Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh mà trong cả nước nhất là
những tỉnh, thành phố lớn có tốc độ công nghiệp hoá nhanh, các luồng vốn huy
động, thanh toán, cho vay,... của hệ thống ngân hàng cũng có tốc độ tăng
trưởng cao ngoài dự kiến.
Tại TP.HCM, trung tâm tài chính - tiền tệ lớn nhất và sôi động nhất của
cả nước, nếu như cách đây 4 năm, các Ngân hàng thương mại cổ phần (NHTM
CP) còn ở yếu thế, thị phần hoạt động chỉ bằng 1/2 so với các NHTM
Nhà nước thì đến nay đã vượt lên trên. Nếu như các NHTM CP có tốc độ tăng


trưởng bền vững từ 60% - 120% mỗi năm thì các NHTM Nhà nước dường như
đang bị hụt hơi, tăng trưởng ì ạch với tốc độ bình quân chỉ khoảng dưới 20%
mỗi năm. Ngoài ra quy mô vốn chủ sỡ hữu của các ngân hàng ngày càng mở

rộng. Tại TP.HCM, tính đến nay có 18 NHTM CP, tức là các ngân hàng có hội
sở chính và đăng ký kinh doanh theo giấy phép được cấp. Bên cạnh đó còn
hàng trăm chi nhánh NHTM CP của các tỉnh, thành phố khác đang hoạt động,
tham gia cạnh tranh ở đây. Chỉ tính riêng 18 NHTM CP có trụ sở chính tại
TP.HCM, ước tính đến hết tháng 12/2007, có tổng số vốn chủ sở hữu, bao gồm
vốn điều lệ và các quỹ đạt 24.407 tỷ đồng, tăng 43,1% so với cuối năm 2006.
Trong đó riêng vốn điều lệ đạt 18.766 tỷ đồng, tăng 94,6% so với năm trước và
gấp hơn 2 lần các NHTM CP ở Hà Nội.
Nếu xét về thị phần giữa ngân hàng quốc doanh và cổ phần thì có sự khác
biệt đáng kể. Ước tính đến hết tháng 12/2007, tổng số vốn huy động của các
NHTM CP tại TP.HCM đạt 204.411 tỷ đồng, chiếm 46,9% tổng thị phần huy
động vốn của các ngân hàng trên địa bàn. Trong khi đó các NHTM Nhà nước
vốn cách đây 4 năm còn chiếm trên 50% thị phần thì nay chỉ còn chiếm
35,09%. Các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài trước đây thường chỉ chiếm
12% - 13% thì đến nay chiếm 15,85%. Các Ngân hàng liên doanh chỉ chiếm
2,48%; tỷ trọng thị phần còn lại các Công ty tài chính, Công ty tài chính và quỹ
tín dụng nhân dân.
Trong khi đó tính đến hết năm 2006, tổng nguồn vốn huy động của khối
NHTM Nhà nước đạt 112.947 tỷ đồng, chiếm 43,49% so với tổng nguồn vốn
huy động của ngành ngân hàng trên địa bàn, giảm khoảng 4% so với năm 2005.
Khối NHTM cổ phần đạt 99.013 tỷ đồng, chiếm 38,13% và tăng thêm tỷ trọng
thị phần 4,21% so với năm 2005 và tăng trên 10%so với năm 2004. Khối Ngân
hàng liên doanh đạt 6.655 tỷ đồng, chiếm 2,56%; khối chi nhánh Ngân hàng
nước ngoài đạt 39.560 tỷ đồng, chiếm 15,23%; các công ty tài chính và cho
thuê tài chính đạt 1.530 tỷ đồng, chiếm 0.59%.


Thị phần huy động vốn trong năm 2007 của các NHTM CP tăng lên
nguyên nhân hàng đầu là lãi suất và chính sách khuyến mại hấp dẫn hơn, mạng
lưới được mở rộng, hoạt động quảng bá thương hiệu được triển khai hiệu quả.

Đặc biệt là uy tín, lòng tin của người dân, của khách hàng đối với các NHTM
CP tăng lên. Nguyên nhân là cho thị phần tín dụng của các NHTM CP tăng
mạnh trong năm 2007 đó là cùng với lợi thế nói trên đã phân tích ở phần huy
động vốn của các NHTM CP, thì sự năng động tìm kiếm khách hàng. Đặc biệt
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, linh hoạt trong cho vay, đa dạng hoạt động tín
dụng tiêu dùng, đổi mới quản trị điều hành tín dụng,…là những nguyên nhân
quan trọng làm cho thị phần cho vay của khối ngân hàng này tăng vững chắc.
Trong khi đó các NHTM Nhà nước thì kém linh hoạt, bị khống chế tăng
trưởng dư nợ, một số chi nhánh có nợ xấu cao tập trung cho nâng cao chất
lượng tín dụng, cơ chế tiền lương và thu nhập không có tính chất khuyến khích
cho vay,…đang làm cho khối ngân hàng này dường như “bị hụt hơi” trong
cạnh tranh trên thị trường tín dụng.
Như là kết qủa tất yếu, khối ngân hàng thương mại cổ phần chiếm gần 50%
thị phần lợi nhuận trên cơ sở nhiều lợi thế cạnh tranh. Tạm thời lấy số liệu đến
hết tháng 9-2007, tổng lợi nhuận trước thuế của các Ngân hàng trên địa bàn TP
HCM đạt 9.013 tỷ đồng, bằng 142,6% so với năm 2006. Trong đó khối NHTM
Nhà nước chỉ chiếm 34,2%, khối NHTMCP chiếm 48,1%, chi nhánh Ngân
hàng nước ngoài chiếm 14,2% và Ngân hàng liên doanh chiếm 3,5%. Không
chỉ chiếm thị phần lớn về cạnh tranh trong lĩnh vực huy động vốn, cho vay, mở
rộng màng lưới, khối NHTMCP còn chiếm thị phần lớn về hiệu quả kinh
doanh, tức là tổng lợi nhuận trước thuế trong toàn khối ngân hàng.
Kết quả đó do nhiều nguyên nhân:


Nguyên nhân thứ nhất đó là kết quả về mở rộng và đa dạng hoá các dịch
vụ ngân hàng bán lẻ tiện ích, như dịch vụ thẻ, kiều hối, thanh toán,
chuyển tiền, kinh doanh vàng,…





Nguyên nhân thứ hai đó là đa dạng hoá danh mục tài sản có, đa dạng
hoá danh mục đầu tư, tăng tỷ trọng đầu tư vào giấy tờ có giá, đầu tư
chứng khoán, đầu tư mua cổ phần của các doanh nghiệp khác, đầu tư
trên thị trường tiền gửi quốc tế, đầu tư trên thị trường liên ngân hàng,…



Nguyên nhân thứ ba là thành lập các Công ty trực thuộc. Những công ty
này hạch toán độc lập, kinh doanh có hiệu quả.



Nguyên nhân thứ tư là đầu tư vào thị trường bất động sản, đặc biệt là
văn phòng cho thuê.



Nguyên nhân thứ năm là hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, tăng tốc độ
xử lý công việc, tự động hoá nhiều khâu nghiệp vụ, nên tiết kiệm được
chi phí lao động và tiết kiệm được nhiều chi phí khác.



Nguyên nhân cuối cùng đó là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và
nâng cao năng suất lao động, làm cho doanh số thu nhập của ngân hàng
tăng nhanh hơn chi phí về nguồn nhân lực. Đây cũng chính là các lợi thế
cạnh tranh của các ngân hàng thương mại cổ phần so với các ngân hàng
thương mại Nhà nước.


Trong khi đó các NHTM Nhà nước thì "bận rộn" và "loay hoay" mất quá
nhiều thời gian, công sức và chờ đợi triển khai cổ phần hoá, lo xử lý nợ xấu và
chờ đợi sắp xếp lại chi nhánh, mạng lưới. Trong quản trị điều hành bị lệ thuộc
quá nhiều vào hội sở chính ở Trung ương thiếu quyền chủ động. Cơ chế tiền
lương và thu nhập không khuyến khích tính năng động, sáng tạo trong kinh
doanh. Bộ máy cồng kềnh, chất lượng nguồn nhân lực hạn chế… Đó cũng
chính là điểm yếu, điểm bất lợi của các ngân hàng thương mại Nhà nước trong
cạnh tranh.
Với xu hướng nói trên trong năm 2008 và một số năm tới, các NHTM CP
tiếp tục có sự bứt phá, vươn lên mạnh mẽ trong cạnh tranh, còn các NHTM
Nhà nước tiếp tục bận bịu quá nhiều với việc cổ phần hoá cũng như những lực
cản khác, nên sẽ tiếp tục bị "hụt hơi" trong cuộc đua trên thị trường tài chính –
tiền tệ, ít nhất là ở địa bàn TP.HCM.


2.3 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BÀO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN TỰ
CÓ CỦA CÁC NHTMCP VN
2.3.1 Sự cần thiết và nội dung của công tác bảo toàn và phát triển vốn
tự có
Công tác bảo toàn vốn tự có của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt
Nam hiện nay chủ yếu dựa vào các Quyết định, Công văn điều chỉnh của Ngân
hàng nhà nước và Thủ tướng chính phủ. Việc bảo toàn và phát triển vốn
tự có là việc đảm bảo an toàn cho nguồn vốn tự có trong suốt quá trình hoạt
động và ngày càng được bổ sung thêm vào nguồn vốn ban đầu. Theo đó các
ngân hàng phải sử dụng nguồn vốn tự có của mình sao cho hiệu quả và ngày
càng mở rộng thêm nguồn vốn này để đáp ứng cho các yêu cầu của cơ quan
quản lý trong quá trình hội nhập.
Các ngân hàng TMCP Việt Nam bảo toàn và phát triển vốn tự có của mình
dựa vào Quyết định 457/2005-NHNN ngày 19/04/2005 về việc ban hành quy
định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của Tổ chức tín dụng và

Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN (dưới đây gọi tắt là Quyết định 03) ngày
19/01/2007 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
Quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD ban hành kèm
theo Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN.
Theo đó các tổ chức tín dụng (trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài) phải
duy trì tỷ lệ tối thiểu 8% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” nội bảng (bao
gồm, ngoài những khoản mục khác, tiền mặt, vàng, tiền gửi, các khoản cho vay
và các khoản phải đòi) và tài sản “ Có” ngoại bảng (bao gồm, ngoài các mục
khác, cam kết bảo lãnh, cho vay, thư tín dụng, và chấp nhận thanh toán) được
điều chỉnh theo theo hệ số rủi ro.
Dựa trên mức độ rủi ro, các hệ số rủi ro cho tài sản “Có” nội bảng gồm 4
nhóm là 100%, 50%, 20% và 0%. Tuy nhiên, đối với tài sản “Có” ngoại bảng
thì phụ thuộc vào mức độ rủi ro tương đối so với việc cấp tín dụng trực tiếp, giá


trị của tài sản này trước tiên phải được chuyển đổi từ giá trị ngoại bảng sang
giá trị nội bảng theo các hệ số chuyển đổi 100%, 50%, 20% và 0% trước khi
nhân với các hệ số rủi ro ( gồm 3 nhóm là 100%, 50% và 0%). Trên thực tế
hiện nay hầu như chưa có ngân hàng thương mại quốc doanh nào đạt được tỷ lệ
8%. Do vậy, Ngân hàng Nhà Nước quy định tối đa 3 năm kể từ ngày Quyết
định 457 có hiệu lực thi hành (ngày 15 tháng 05 năm 2005) để các ngân hàng
thương mai tăng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu bằng mức quy định trong đó mỗi
năm tăng 1/3 số tỷ lệ còn thiếu. Tuy nhiên, các tổ chức tín dụng ngoài quốc
doanh mà chưa đạt được tỷ lệ 8% sẽ không được hưởng lợi từ quy định gia hạn
này. Trước mắt một số ngân hàng sẽ phải kêu gọi thêm vốn góp để nâng mức
vốn tự có của mình lên.
Về mức vốn pháp định, các ngân hàng thương mại dựa theo Nghị định
82/1998/NĐ-CP ngày 03/10/1998 Về ban hành danh mục mức vốn pháp định
của các tổ chức tín dụng. Theo đó, các tổ chức tín dụng đã được cấp giấy phép
thành lập, hoạt động trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành có vốn điều

lệ thấp hơn mức vốn pháp định tại danh mục mức vốn pháp định của các tổ
chức tín dụng kèm theo Nghị định này, trong thời hạn 3 năm kể từ ngày Nghị
định này có hiệu lực thi hành, phải tăng vốn điều lệ cho đủ bằng mức vốn pháp
định. Mức tăng vốn điều lệ hàng năm tối thiểu bằng một phần ba (1/3) số vốn
điều lệ còn thiếu so với vốn pháp định. Sau thời hạn 3 năm, vốn điều lệ của các
tổ chức tín dụng không bảo đảm đủ bằng mức vốn pháp định, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam sẽ thu hồi giấy phép hoạt động. Ngày 22/11/2006, thay mặt
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng ký Nghị định
141/2006/NĐ-CP ban hành Danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín
dụng. Theo đó, chậm nhất vào ngày 31/12/2008 và 31/12/2010, tổ chức tín
dụng được cấp giấy phép thành lập và hoạt động phải có biện pháp bảo đảm có
số vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp tối thiểu tương đương mức vốn pháp
định. Đối với loại hình: Ngân hàng thương mại cổ phần, liên doanh, Ngân hàng
100% vốn nước ngoài, Quỹ tín dụng nhân dân TW phải có mức vốn pháp định
áp dụng cho đến năm 2008 là 1.000 tỷ đồng, đến năm 2010 là 3.000 tỷ đồng.


Ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng đầu tư: 3.000 tỷ đồng...
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: 15 triệu USD. Đối với loại hình Công ty tài
chính đến năm 2008 là 300 tỷ đồng, năm 2010 là 500 tỷ đồng…
Cụ thể, đối với các tổ chức tín dụng được cấp phép thành lập và hoạt động
sau ngày Nghị định 141/2006/NĐ-CP có hiệu lực và trước ngày 31/12/2008, thì
phải đảm bảo có ngay số vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp tối thiểu tương
đương mức vốn pháp định quy định cho năm 2008. Các tổ chức tín dụng được
cấp giấy phép thành lập và hoạt động sau ngày 31/12/2008 phải đảm bảo có
ngay vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp tối thiểu tương đương mức vốn pháp
định quy định cho năm 2010. Chính phủ giao Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
quyết định xử lý, kể cả việc thu hồi Giấy phép thành lập và hoạt động đối với
tổ chức tín dụng có số vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp thấp hơn mức vốn
pháp định tương ứng đối với từng loại hình tổ chức tín dụng quy định cho từng

thời kỳ.
Về tỷ lệ tối đa vốn ngắn hạn dùng để cho vay trung dài hạn, theo Nghị định
457/2005QĐ ngày 19 tháng 04 năm 2005, các ngân hàng thương mại được
phép sử dụng là 40% và các tổ chức tín dụng khác là 30%. Tuy nhiên đứng
trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ Mỹ tháng 12 năm 2008
và những tín hiệu tăng trưởng nóng của tín dụng trong nước sau gói hỗ trợ lãi
suất của chính phủ, ngày 10 tháng 08 năm 2009, Thống đốc Ngân hàng nhà
nước ban hành thông tư 15/2009/TT-NHNN quy định về tỷ lệ tối đa sử dụng
vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn của các tổ chức tín dụng hoạt động tại
Việt nam trừ các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. theo đó, tỷ lệ này được quy định
tại Thông tư cụ thể như sau:
- Ngân hàng thương mại: 30%
- Công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính: 30%
- Quỹ tín dụng nhân dân trung ương: 20%


×