Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHỆ SỐ TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.36 KB, 22 trang )

1/Biên soạn: Ngô Đức Chiến

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHỆ SỐ
TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
Thông qua việc tìm hiểu học phần Công nghệ số trong hoạt động Ngân hàng,
các học viên sẽ tìm hiểu rõ hơn về công nghệ số trong hoạt động ngành Ngân
hàng.
Nội dung Chương 2 tập trung vào việc trình bày chi tiết các nội dung liên quan
đến khái niệm về công nghệ số và tác động của nó đối với nền kinh tế, vai trò của
công nghệ số trong hoạt động phát triển Ngân hàng và việc ứng dụng công nghệ
số trong hoạt động Ngân hàng.
2.1. Công nghệ số là gì?
2.1.1. Khái niệm về Công nghệ số
Công nghệ số đó chính là Thời đại Thông tin (còn gọi là Thời đại Máy tính, Thời
đại Số hoặc Thời đại Truyền thông mới) là một giai đoạn trong lịch sử nhân loại với
sự chuyển đổi từ ngành công nghiệp truyền thống mà cuộc CMCN đã mang lại
thông qua quá trình công nghiệp hóa, sang nền kinh tế dựa trên tin học hóa. Sự
khởi đầu của Thời đại Thông tin có liên quan đến cuộc cách mạng Kỹ thuật số ,
giống như cuộc cách mạng Công nghiệp đã đánh dấu sự khởi đầu của Thời đại
Công nghiệp (Castells, 1999; Hilbert, 2015). Định nghĩa về phương tiện kỹ thuật số
(hoặc những gì mang ý nghĩa thông tin) tiếp tục thay đổi theo thời gian vì các loại
công nghệ, thiết bị người dùng, phương pháp tương tác mới với con người và thiết
bị khác bước vào lĩnh vực nghiên cứu, phát triển và đưa ra thị trường.
Trong kỷ nguyên thông tin, hiện tượng này là ngành công nghiệp kỹ thuật số tạo
ra một xã hội dựa trên tri thức bao quanh bởi một nền kinh tế toàn cầu công nghệ
cao, bao trùm ảnh hưởng của nó đến phương pháp sản xuất trong toàn ngành và
lĩnh vực dịch vụ được vận hành một cách hiệu quả và thuận tiện. Trong một xã hội


2/Biên soạn: Ngô Đức Chiến


thương mại hóa, ngành công
nghiệp thông tin có thể cho phép
mỗi người khám phá các nhu cầu
cá nhân của họ, do đó đơn giản
hóa thủ tục ra quyết định giao dịch
và giảm đáng kể chi phí cho cả nhà
sản xuất và người mua. Điều này
được đa phần những người tham gia chấp nhận trong suốt toàn bộ hoạt động kinh
tế vì mục đích hiệu quả, và các ưu đãi kinh tế mới sẽ được khuyến khích trong
nước chẳng hạn như nền Kinh tế tri thức (Mbama & Ezepue, 2018).
Thời đại thông tin được hình thành bằng cách tận dụng sự tiến bộ của Kỹ thuật
thu nhỏ kích cỡ máy tính (Kluver & Randy, 2013). Sự tiến triển của công nghệ trong
đời sống hàng ngày và tổ chức xã hội đã dẫn đến sự hiện đại hóa tiến trình thông
tin và truyền thông đã trở thành động lực của sự tiến hóa về mặt xã hội (Hilbert,
2015).
Tóm lại, Công nghệ số hay còn gọi là chuyển đổi số - là một quá trình thay đổi từ
phương thức thủ công truyền thống sang áp dụng công nghệ với các trụ cột là big
data, Internet kết nối vạn vật, điện toán đám mây.
2.1.2. Tác động của công nghệ số đến nền kinh tế
Thời đại công nghệ số ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, thể
hiện qua các công cụ như công nghệ thông tin và truyền thông – máy tính, máy vi
tính, cáp quang, vệ tinh truyền thông, Internet và các công cụ công nghệ thông tin
và truyền thông khác – đã trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Các
loại máy vi tính đã được phát triển và nhiều doanh nghiệp và ngành công nghiệp
thay đổi rất nhiều là nhờ có công nghệ thông tin và truyền thông. Thời đại thông
tin hay thời đại công nghệ số đã tác động mạnh mẽ đến kinh tế như:


3/Biên soạn: Ngô Đức Chiến


Tác động đến việc làm và phân phối thu nhập
Thời đại thông tin đã ảnh hưởng đến lực lượng lao động theo nhiều cách. Nó đã
tạo ra một tình huống mà những người lao động thực hiện các tác vụ tự động dễ
dàng bị buộc phải tìm kiếm những công việc không dễ tự động (Porter & Michael,
2015). Người lao động cũng đang bị buộc phải cạnh tranh trong một thị trường lao
động toàn cầu. Cuối cùng, người lao động đang được thay thế bởi các máy tính có
thể làm công việc của họ nhanh hơn và hiệu quả hơn. Điều này đặt ra vấn đề cho
người lao động trong các xã hội công nghiệp khiến chính phủ khó mà xử lý thỏa
đáng. Tuy vậy, các giải pháp liên quan đến giảm thời gian làm việc thường vấp phải
sự chống đối cao độ.
Các công việc liên quan đến tầng lớp trung lưu (công nhân dây chuyền lắp ráp,
bộ vi xử lý dữ liệu, người quản lý và giám sát) đang bắt đầu biến mất, hoặc thông
qua việc gia công hoặc tự động hóa. Các cá nhân thất nghiệp có thể phải chuyển
hướng, tham gia vào nhóm “công nhân trí tuệ” (kỹ sư, bác sĩ, luật sư, giáo viên, nhà
khoa học, giáo sư, giám đốc điều hành, nhà báo, chuyên gia tư vấn) hoặc làm
những công việc có mức lương thấp và không cần nhiều kỹ năng.
Những “công nhân trí tuệ” này có thể cạnh tranh thành công trên thị trường thế
giới và nhận được mức lương cao. Ngược lại, các công nhân sản xuất và nhân viên
dịch vụ ở các nước công nghiệp hóa không thể cạnh tranh với công nhân ở các
nước đang phát triển và mất việc làm thông qua việc thuê ngoài hoặc buộc phải
chấp nhận cắt giảm lương (McGowan & Robert, 1991). Ngoài ra, internet giúp các
công nhân ở các nước đang phát triển có thể cung cấp dịch vụ trực tiếp và cạnh
tranh trực tiếp với các đối tác ở các quốc gia khác.
Điều này đã để lại một số hậu quả lớn, bao gồm làm tăng cơ hội ở các nước
đang phát triển và toàn cầu hóa lực lượng lao động. Người lao động ở các nước
đang phát triển có lợi thế cạnh tranh chuyển thành cơ hội gia tăng và mức lương
cao hơn (Bhagwati & Jagdish, 2005). Tác động toàn diện đến lực lượng lao động ở
các nước đang phát triển khá là phức tạp và có những nhược điểm.



4/Biên soạn: Ngô Đức Chiến

Trong quá khứ, số phận kinh tế của người lao động gắn liền với số phận của nền
kinh tế quốc gia. Ví dụ, công nhân ở Mỹ đã từng được trả lương cao so với người
lao động ở các nước khác. Với sự ra đời của thời đại thông tin và những cải tiến
trong truyền thông, điều này không còn phù hợp nữa. Bởi vì người lao động buộc
phải cạnh tranh trong một thị trường lao động toàn cầu, tiền lương ít phụ thuộc
vào sự thành công hay thất bại của các nền kinh tế cá nhân (McGowan & Robert,
1991).
Tự động, năng suất và gia tăng việc làm
Thời đại thông tin đã ảnh hưởng đến lực lượng lao động trong việc tự động hoá
và tin học hóa đã mang lại năng suất cao hơn cùng với việc thất nghiệp trong ngành
sản xuất. Ví dụ như ở Mỹ, từ tháng 1 năm 1972 đến tháng 8 năm 2010, số lao động
trong ngành sản xuất giảm từ 17.500.000 xuống còn 11.500.000 trong khi giá trị
sản xuất tăng 270% (Bhagwati & Jagdish, 2005).
Mặc dù ban đầu có vẻ như tình trạng thất nghiệp trong khu vực công nghiệp có
thể được bù đắp phần nào bởi sự tăng trưởng nhanh chóng việc làm trong ngành
công nghệ thông tin, suy thoái kinh tế vào tháng 3 năm 2001 đã báo trước sự sụt
giảm mạnh về số lượng việc làm trong ngành công nghệ thông tin. Mô hình suy
giảm việc làm tiếp tục cho đến năm 2003 (Cooke & Sandra, 2003).
Dữ liệu đã chỉ ra rằng xét về tổng thể, công nghệ tạo ra nhiều việc làm hơn là
phá hủy ngay cả trong ngắn hạn (Yongsung & cộng sự, 2013).
Sự tăng trưởng của ngành công nghiệp thâm dụng thông tin
Ngánh công nghiệp đang trở nên thâm dụng thông tin nhiều hơn, ít sử dụng lao
động và thâm dụng vốn. Xu hướng này có ý nghĩa quan trọng đối với lực lượng lao
động, công nhân ngày càng trở nên năng suất khi giá trị lao động của họ giảm
xuống. Thế nhưng, điều này còn có ý nghĩa quan trọng đối với chủ nghĩa tư bản,
không chỉ là giá trị lao động giảm mà giá trị vốn cũng giảm theo. Trong mô hình cổ
điển, đầu tư vào vốn con người và vốn tài chính là những yếu tố dự báo quan trọng
cho việc thực hiện một dự án mới, đặc biệt là các dự án liên quan đến công nghệ



5/Biên soạn: Ngô Đức Chiến

(Cooper & cộng sự, 1994). Tuy nhiên, theo như lời giải thích của Mark
Zuckerberg và Facebook, bây giờ có vẻ như dễ làm hơn đối với một nhóm người
tương đối ít kinh nghiệm với số vốn hạn chế để thành công trên quy mô lớn (Carr
& David, 2010).
2.2. Vai trò của công nghệ số trong hoạt động phát triển ngân hàng
Thập kỷ sắp tới đóng vai trò hết sức quan trọng do đây là giai đoạn mà Việt Nam
cần tạo dựng cho mình những tiền đề cần thiết để trở thành một nước công
nghiệp. Vì vậy, công nghệ nói chung và công nghệ ngành ngân hàng nói riêng sẽ
chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển của ngành.
Đối với Ngân hàng Nhà nước, mục tiêu chiến lược nêu trên cần phải xây dựng
NHNN có đủ vị thế pháp lý và năng lực để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
một ngân hàng trung ương hoạt động theo nguyên tắc kinh tế thị trường định
hướng XHCN trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và toàn diện, trên
các lĩnh vực:
(i) Hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ một cách chủ động, linh hoạt, gắn
với các yếu tố thị trường có sự quản lý của Nhà nước;
(ii) Thực hiện vai trò thanh tra giám sát một cách hiệu quả theo các chuẩn mực
và thông lệ quốc tế nhằm bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống các TCTD;
(iii) Đảm nhận vai trò là trung tâm thanh toán của nền kinh tế và là nơi xử lý
quyết toán tập trung cho các hệ thống thanh toán trong nước.
Để thực hiện được mục tiêu này và từng bước tạo dựng được vị thế, vai trò
hoàn chỉnh của NHNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN về mặt thể
chế, chức năng, hoạt động của NHNN cần dựa trên:
(i) Cơ sở pháp lý hoàn chỉnh, đồng bộ theo đó, Ngân hàng trung ương có thẩm
quyền về mặt pháp lý để có thể chủ động huy động các nguồn lực cần thiết trong
xã hội nhằm hoàn thành chức năng, nhiệm vụ đã xác định trong từng lĩnh vực hoạt

động của mình.
(ii) Cơ sở vật chất và hạ tầng kỹ thuật công nghệ hoàn chỉnh:


6/Biên soạn: Ngô Đức Chiến

- Điều hành hoạt động của Ngân hàng trung ương phải dựa trên cơ sở hạ tầng
công nghệ thông tin hiện đại và được tin học hoá ở hầu hết các mặt nghiệp vụ, trên
cơ sở hệ thống quản trị ngân hàng tập trung (corebanking) đáp ứng các yêu cầu
mang tính thời đại về tiêu chuẩn kỹ thuật, về tính năng sử dụng, về tính đồng bộ và
liên kết, đảm bảo để Ngân hàng trung ương có thể quản lý, điều hành toàn bộ các
hoạt động của mình một cách hiệu quả.
- Hệ thống thu thập thông tin được thiết kế cho phép Ngân hàng trung ương có
thể thu thập được đầy đủ các thông tin phục vụ cho các hoạt động chính sách tiền
tệ, thanh tra giám sát, hoạt động của ngân hàng trung ương, trên nguyên tắc các
thông tin thu thập được phải khách quan, trung thực, chính xác, kịp thời từ các
TCTD, các thị trường tiền tệ, các hệ thống thanh toán để có thể sử dụng cho việc
phân tích, tổng hợp, đánh giá, dự báo, cảnh báo về những biến động trên thị
trường tài chính, tiền tệ và những ảnh hưởng của môi trường kinh tế vĩ mô lên các
hoạt động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng để Ngân hàng trung ương có thể có đối sách
thích hợp và kịp thời.
- Hệ thống thanh toán liên ngân hàng do Ngân hàng trung ương vận hành phải
tuân thủ các chuẩn mực quốc tế được áp dụng cho các hệ thống thanh toán quan
trọng có tính hệ thống. Hệ thống phải được thiết kế theo hướng tập trung hóa các
tài khoản quyết toán của các TCTD, Kho bạc Nhà nước và các tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán khác tại NHNN, bảo đảm tốc độ và dung lượng xử lý khi các luồng
thanh toán của cả nền kinh tế được quyết toán qua NHNN trong vòng 10 năm tới.
(iii) Bảo đảm các yêu cầu về đội ngũ cán bộ và cơ cấu tổ chức:
- Đội ngũ cán bộ phải thể hiện được sự đổi mới tư duy về nhận biết và tuân thủ
một cách tối ưu những quy luật khách quan của sự vận động của hoạt động kinh tế

nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng và thể hiện những nhận biết này trong
hoạt động quản trị, điều hành của NHTW hiện đại đối với hoạt động của toàn
ngành ngân hàng theo hướng tuân thủ các định hướng thị trường XHCN.
- Trình độ của cán bộ công nhân viên của Ngân hàng trung ương được nâng cao,


7/Biên soạn: Ngô Đức Chiến

có đủ kiến thức và kinh nghiệm, đặc biệt những kiến thức về kinh tế thị trường,
nắm bắt được quy luật khách quan, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của
Đảng, Nhà nước, khả năng vận dụng kiến thức vào thực tế trong điều kiện Việt
Nam, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, phương thức làm việc tiên tiến, có
năng lực đề xuất, tham mưu xây dựng chiến lược, định hướng, chính sách, chế độ,
thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng, phù hợp với
những đòi hỏi của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng.
Yếu tố con người là then chốt, quyết định đến sự thành công của quá trình xây
dựng Ngân hàng trung ương hiện đại.
- Đồng thời với việc hoàn thiện các chức năng nhiệm vụ, quản trị điều hành, cơ
sở hạ tầng kỹ thuật và ứng dụng công nghệ thông tin, cơ cấu tổ chức của Ngân
hàng trung ương sẽ được đối mới, sắp xếp tương ứng với các yêu cầu hoạt động
trên cơ sở bảo đảm bộ máy tinh gọn, hiệu quả.
Có thể thấy, công nghệ là một trong các điều kiện để bảo đảm cho hoạt động
của Ngân hàng trung ương hiện đại. Chính vì vậy, một trong các khâu đột phá được
xác định trong 10 năm tới trong hoạt động của NHNN là tập trung xây dựng hệ
thống kết cấu cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng hiện đại:
Hoạt động của hệ thống ngân hàng cần được thực hiện dựa trên cơ sở hạ tầng
công nghệ truyền thông và thông tin hiện đại ở hầu hết các mặt nghiệp vụ ngân
hàng. Hệ thống hạch toán kế toán, thông tin thống kê dựa trên nền tảng ứng dụng
công nghệ để đảm bảo NHTW thực hiện có hiệu quả việc hoạch định và thực thi
CSTT, các hoạt động quản lý - điều hành, hoạt động thanh tra, giám sát toàn bộ các

hoạt động ngân hàng của nền kinh tế và các hoạt động chức năng khác của NHTW.
Hệ thống hạ tầng kỹ thuật công nghệ liên kết giữa các TCTD nhằm tạo điều kiện cho
từng TCTD phát triển các dịch vụ gia tăng cạnh tranh, đáp ứng kịp thời các dịch vụ
ngân hàng tiện ích cho xã hội, tăng vòng quay dòng vốn, hỗ trợ tích cực cho công
tác quản trị các TCTD.
Đối với khu vực các TCTD, trong 10 năm tới, mục tiêu đặt ra là phát triển khu


8/Biên soạn: Ngô Đức Chiến

vực tài chính đồng bộ bao gồm các ngân hàng, các tổ chức tài chính phi ngân hàng,
các tập đoàn tài chính có năng lực tài chính mạnh, có trình độ quản lý và trình độ
công nghệ tiên tiến, có khả năng thực hiện các giao dịch tài chính thông suốt, an
toàn, hiệu quả, ổn định.
Khu vực tài chính này có khả năng:
(i) Động viên tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi trong nước, thu hút các nguồn vốn
nước ngoài với điều kiện thuận lợi và sử dụng được các nguồn vốn huy động được
có hiệu quả;
(ii) Cung ứng đầy đủ, kịp thời, thuận tiện các sản phẩm, dịch vụ tài chính cho
nền kinh tế;
(iii) Tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình phân công lao động quốc tế trong
lĩnh vực tài chính với khả năng cạnh tranh ngày càng cao, tạo thương hiệu mạnh
trên thị trường quốc tế;
(iv) Có khả năng trụ vững trước những cú sốc kinh tế và tài chính trong và ngoài
nước; Hướng tới trở thành một trung tâm tài chính của khu vực.
Trong thập kỷ tiếp theo, bối cảnh hoạt động của khu vực tài chính ngân hàng có
những thay đổi lớn. Quá trình hội nhập của nền kinh tế sẽ diễn ra sâu rộng hơn bao
giờ hết. Quá trình này mở ra nhiều cơ hội cho hoạt động ngân hàng trong việc tiếp
cận với những kiến thức, kinh nghiệm hoạt động ngân hàng hiện đại, tiếp cận với
những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới, mở ra khả năng phát

triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng phong phú dựa vào những thành tựu công
nghệ đó. Tuy nhiên, song song với nó còn có những thách thức to lớn: sự tham gia
thị trường nội địa của các ngân hàng nước ngoài với tiềm lực công nghệ to lớn sẽ
đặt các ngân hàng Việt Nam trước sự cạnh tranh mạnh mẽ.
Xét về động lực cạnh tranh trên thị trường, thì công nghệ có tầm quan trọng ra
sao đối với hoạt động ngân hàng?
Với việc tự do hoá cơ chế quản lý, thì công nghệ là phương tiện giúp các ngân
hàng có thể đánh bại các đối thủ cạnh tranh. Đối với các ngân hàng, ứng dụng công


9/Biên soạn: Ngô Đức Chiến

nghệ trong hoạt động ngân hàng tạo ra những cơ hội giảm thiểu cả giấy tờ lẫn
nhân sự. Sự đổi mới công nghệ trong hoạt động ngân hàng trước hết thể hiện
trong các hệ thống chuyển tiền điện tử. Cấu phần chủ yếu của hệ thống chuyển
tiền điện tử là máy giao dịch tự động ATM, thiết bị ngoại vi tại điểm bán hàng POS,
trung tâm thanh toán bù trừ tự động ACH. Những thiết bị công nghệ này liên quan
tới khả năng tự động hoá trong giao dịch ngân hàng và theo đó khách hàng có khả
năng nhận được những sản phẩm dịch vụ tiện ích phù hợp với như cầu của mình.
Có thể nói công nghệ ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc cải
thiện năng lực cạnh tranh và tăng khả năng chiếm thị phần của các ngân hàng.
Chính vì vậy, trong chiến lược phát triển các TCTD, phát triển công nghệ ngân
hàng có thể được xem như khâu đột phá quan trọng trong hoạt động của các TCTD
để ngành ngân hàng Việt Nam tận dụng được những lợi thế sẵn có, cải thiện hoạt
động của mình dựa trên nền tảng công nghệ thông tin do quá trình hội nhập đem
lại và giành được lợi thế cạnh tranh quốc gia và quốc tế.
2.3. Ứng dụng công nghệ 4.0 trong hoạt động Ngân hàng
Nhận biết được tầm quan trọng và sự tác động mạnh mẽ của cách mạng công
nghiệp (CMCN) 4.0, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chủ động thực hiện nhiều giải
pháp, hành động nhằm tăng cường năng lực tiếp cận CMCN 4.0 của ngành Ngân

hàng. Với phương châm đem lại nhiều sản phẩm, dịch vụ tiện ích, an toàn cho
khách hàng, thời gian tới, ngành ngân hàng cần tiếp tục ứng dụng các công nghệ
vào trong hoạt động, không ngừng đổi mới, sáng tạo, đem lại sự trải nghiệm tối ưu
nhất cho khách hàng sử dụng dịch vụ.
Cơ hội lớn cho ngành ngân hàng từ công nghệ 4.0
Có thể thấy, làn sóng công nghệ từ CMCN 4.0 mang đến những cơ hội lớn cho hệ
thống ngân hàng Việt Nam trong quá trình phát triển trên nhiều khía cạnh như: Gia
tăng việc tiếp cận thị trường quốc tế cho các ngân hàng trong nước; Tăng cường
khả năng ứng dụng công nghệ hiện đại; Nâng cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng theo
hướng hiện đại, hiệu quả hơn để gia tăng lợi nhuận. Từ đó giúp các ngân hàng Việt


10/Biên soạn: Ngô Đức Chiến

Nam nâng mình lên một tầm cao mới, phát triển và nâng cao sức cạnh tranh với
các ngân hàng tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.
Cụ thể như, các công nghệ số, công nghệ mới gắn với CMCN 4.0 không chỉ giúp
chuyển dịch kênh phân phối sản phẩm, dịch vụ ngân hàng truyền thống từ các chi
nhánh, quầy giao dịch, ATM vật lý sang các kênh số hóa, giúp tương tác khách hàng
nhiều và hiệu quả hơn; mà còn có khả năng thay đổi mô hình kinh doanh, quy trình
nghiệp vụ, cấu trúc sản phẩm, dịch vụ theo hướng số hóa, giúp các ngân hàng từng
bước trở thành ngân hàng số, cung cấp tiện ích, trải nghiệm mới mẻ và đem lại lợi
ích thiết thực cho khách hàng.
Với sự phát triển mạnh mẽ của CMCN 4.0, các ngân hàng bước đầu tiếp cận và
mở rộng cung ứng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng phù hợp đến những người dân
hiện chưa có tài khoản ở vùng sâu, vùng xa với chi phí hợp lý, góp phần đẩy mạnh
phổ cập tài chính quốc gia.
Trên nền tảng công nghệ 4.0 cùng với việc tận dụng những thế mạnh của kinh tế
quy mô, kinh tế chia sẻ, việc triển khai ứng dụng công nghệ số kỹ thuật cao liên
quan đến kết nối internet, điện toán đám mây, công nghệ cảm biến, thực tế ảo… sẽ

giúp giảm thiểu chi phí giao dịch, vận chuyển, quản lý, góp phần tiết kiệm về mặt
tài chính cho các ngân hàng Việt Nam.
Ứng dụng công nghệ 4.0 sẽ giúp ngân hàng nâng cao lợi nhuận, đảm bảo tính
sẵn sàng cao cho hệ thống trong việc đáp ứng nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân
hàng điện tử của khách hàng. Khi sự minh bạch ngày càng rõ hơn, người tiêu dùng
Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận hơn với các dịch vụ tài chính hàng đầu trong và
ngoài nước. Từ đó giúp các ngân hàng trong nước nâng lên một tầm cao mới, phát
triển và cạnh tranh với các ngân hàng tiên tiến trong khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội mở ra từ CMCN 4.0, ngành Ngân hàng cũng
phải đối mặt thách thức không nhỏ trong việc phải xây dựng quy định pháp lý mới
đáp ứng nhu cầu cải cách công nghệ; thách thức trong phòng ngừa rủi ro an ninh
mạng và bảo vệ bí mật thông tin khách hàng; ứng dụng công nghệ mới cũng đòi hỏi


11/Biên soạn: Ngô Đức Chiến

ngân hàng phải có tiềm lực đầu tư về tài chính và việc thu hút nguồn nhân lực chất
lượng cao, cũng như việc đào tạo cán bộ, nhân viên có đủ trình độ vận hành, làm
chủ công nghệ mới…
Thích ứng, phát triển bền vững trong kỷ nguyên 4.0
Theo đánh giá của Bộ Khoa học và Công nghệ năm 2018, Ngành Ngân hàng là
một trong những ngành chủ động đi đầu trong ứng dụng tiến bộ khoa học và công
nghệ trong quản lý và kinh doanh. Sự chủ động này đã tạo ra một nền tảng vững
chắc và những lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh mới, khi kinh tế số phát triển, xu
thế thanh toán điện tử tăng nhanh, trung tâm kinh tế thế giới dịch chuyển dần từ
Tây sang Đông.
Để tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức từ CMCN 4.0 nhằm thích ứng, phát
triển bền vững trong kỷ nguyên 4.0, ngành ngân hàng Việt Nam đã và đang tăng
cường đổi mới sáng tạo trong nội bộ tổ chức và thúc đẩy đổi mới từ bên ngoài
thông qua tăng cường hợp tác Fintech, tạo dựng hệ sinh thái số theo hướng mở,

tăng cường thu thập, khai thác dữ liệu khách hàng, đồng thời hoàn thiện về hành
lang pháp lý cho sự phát triển ngân hàng số...
Về phía NHNN, nhận biết được tầm quan trọng và sự tác động mạnh mẽ của
CMCN 4.0, NHNN đã chủ động thực hiện nhiều giải pháp, hành động nhằm tăng
cường năng lực tiếp cận CMCN 4.0 của ngành Ngân hàng, tiêu biểu là những giải
pháp hành động sau: Xây dựng kế hoạch hành động của ngành NH thực hiện Chỉ thị
16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 04/5/2017 về việc tăng cường năng lực
tiếp cận cuộc CMCN 4.0 đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025; Tăng cường
phát triển hạ tầng công nghệ thông tin (CNTT) an toàn, an ninh, bảo mật cho ngành
Ngân hàng; Đẩy mạnh hoàn thiện hành lang pháp lý hỗ trợ hoạt động thanh toán,
phát triển hạ tầng CNTT, an toàn, an ninh bảo mật nhằm ứng phó với những thách
thức mà CMCN 4.0 đặt ra; Đẩy mạnh việc thực hiện các Nghị quyết số 19, Nghị
quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 và Nghị quyết sô 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015
của Chính phủ nhằm cải thiện môi trường cạnh tranh kinh doanh, nâng cao năng


12/Biên soạn: Ngô Đức Chiến

lực cạnh tranh quốc gia và Chính phủ điện tử; Tích cực hỗ trợ thúc đẩy hệ sinh thái
khởi nghiệp, hỗ trợ phát triển các công ty công nghệ tài chính (Fintech).
Ngoài ra, NHNN cũng tập trung công tác nghiên cứu khoa học về ứng dụng công
nghệ 4.0 trong ngành Ngân hàng; đẩy mạnh truyền thông, giáo dục tài chính nhằm
nâng cao kiến thức, giảm thiểu rủi ro cho người dân khi sử dụng các sản phẩm dịch
vụ ngân hàng điện tử, đồng thời nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính ngân
hàng, thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt.
Về phía các NHTM, đa số các ngân hàng Việt Nam đã và đang thực hiện chuyển
đổi số để tối ưu các quy trình nghiệp vụ, cải thiện hiệu quả vận hành, nâng cao trải
nghiệm khách hàng và tiến tới mô hình kinh doanh số hoàn chỉnh; đồng thời đầu
tư cho công nghệ an toàn, bảo mật đem lại sự an tâm cho khách hàng khi sử dụng
các sản phẩm dịch vụ ngân hàng.

Để tận dụng các cơ hội và vượt qua những thách thức từ CMCN 4.0, các ngân
hàng đã và đang xây dựng chiến lược và thực hiện quá trình chuyển đổi số hướng
tới ngân hàng số dựa trên ứng dụng công nghệ số, công nghệ và mô hình sáng tạo
của thời đại 4.0. Mục tiêu cuối cùng của quá trình này nhằm giúp các ngân hàng có
thể kinh doanh, quản trị, điều hành ngân hàng, cung ứng sản phẩm - dịch vụ trên
nền tảng số, tăng doanh thu, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả vận hành, cung cấp
trải nghiệm khách hàng vượt trội và tăng sự gắn kết khách hàng.
Thời gian qua, các ngân hàng Việt Nam đã có sự chủ động hợp tác với Fintech
(các công ty cung cấp các sản phẩm dịch vụ công nghệ tài chính) và đạt được một
số kết quả khả quan như phát triển, tích hợp ứng dụng thanh toán di động, ví điện
tử, giải pháp thanh toán mới nhằm tăng cơ sở khách hàng, nâng cao mức độ sử
dụng dịch vụ, gia tăng trải nghiệm khách hàng, đưa những sản phẩm, dịch vụ thanh
toán, chuyển tiền tiện lợi đến với người dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Ngân hàng ứng dụng công nghệ 4.0 – Lấy khách hàng là trung tâm
Trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0, ngành ngân hàng cần tiếp tục ứng dụng các công
nghệ vào trong hoạt động, không ngừng đổi mới, sáng tạo, đem lại sự trải nghiệm


13/Biên soạn: Ngô Đức Chiến

tối ưu nhất cho khách hàng sử dụng dịch vụ, lấy khách hàng làm trung tâm cho quá
trình chuyển đổi và hoạt động, cụ thể như sau:
Về phía cơ quan quản lý, để hỗ trợ phát triển ngân hàng số, NHNN tiếp tục rà
soát, chỉnh sửa và hoàn thiện hành lang pháp lý tạo thuận lợi, hỗ trợ cho sự phát
triển, hoạt động của ngân hàng số. Bên cạnh đó, triển khai nâng cấp, hoàn thiện hạ
tầng thanh toán quốc gia quan trọng như Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân
hàng (IBPS)…; đồng thời thúc đẩy việc sớm ra đời và đưa vào vận hành Hệ thống bù
trừ điện tử tự động phục vụ cho các giao dịch thanh toán bán lẻ (ACH) với tính
năng hoạt động 24x7x365, thanh toán thời gian thực, xử lý đa kênh, đa phương
tiện. Ngoài ra, tiếp tục triển khai các mô hình thanh toán mới tại nông thôn, vùng

sâu, vùng xa gắn với việc xây dựng, triển khai Chiến lược Quốc gia về Phổ cập Tài
chính tại Việt Nam; Thúc đẩy thanh toán điện tử dịch vụ công trong khu vực Chính
phủ. NHNN cũng đang nghiên cứu, ban hành Nghị định về cơ chế thử nghiệm cho
hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng; Nghiên cứu ứng dụng công nghệ
Blockchain trong lĩnh vực ngân hàng. Đặc biệt, NHNN tiếp tục mạnh công tác thông
tin, tuyên truyền về thanh toán không dùng tiền mặt, giáo dục tài chính; tăng
cường các biện pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; nâng cao chất lượng, hiệu
quả dịch vụ thanh toán…
Về phía NHTM, cần tích cực hơn nữa trong việc nghiên cứu, ứng dụng các giải
pháp, công nghệ mới đột phá như: các giải pháp thanh toán đổi mới, sáng tạo
(thanh toán di động qua mã QR chuẩn hóa, số hóa thông tin thẻ - Tokenization,
công nghệ thanh toán thẻ chíp đối với thẻ nội địa…); nền tảng kết nối, chia sẻ dữ
liệu mở qua giao diện lập trình ứng dụng (open API); các công nghệ mới như Phân
tích dữ liệu lớn (Big Data Analytics), Trí tuệ nhân tạo (A.I)… nhằm cung cấp các sản
phẩm, dịch vụ ngân hàng tiện lợi, giá cả hợp lý theo hướng số hóa, thông minh,
đem lại lợi ích thiết thực cho khách hàng trong kỷ nguyên số; Đầu tư thích đáng để
có được nguồn nhân lực chất lượng cao.
Tăng cường hợp tác với Fintech cũng cần thiết cho các ngân hàng nhằm tận


14/Biên soạn: Ngô Đức Chiến

dụng mô hình kinh doanh tinh gọn, hướng tới trải nghiệm khách hàng và sự đổi
mới, sáng tạo của Fintech kết hợp khai thác ưu thế quản lý rủi ro vững mạnh, cơ sở
khách hàng rộng lớn của các ngân hàng để tạo ra sức mạnh tổng hợp trong cung
ứng dịch vụ, đem lại lợi ích thiết thực về giảm chi phí, tăng tiện ích, thuận lợi cho
khách hàng và góp phần đắc lực phổ cập tài chính địa bàn nông thôn, vùng sâu,
vùng xa.
Bên cạnh đó, các NHTM cần tăng cường thu thập, phân tích, khai thác dữ liệu
khách hàng từ việc ứng dụng, triển khai các công nghệ mới, đột phá như phân tích

dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, chia sẻ dữ liệu mở...và từ hợp tác, tạo dựng hệ sinh
thái số, kết nối mới với các nền tảng số bên ngoài, các công ty Fintech...qua đó nắm
bắt hành vi, sở thích, thấu hiểu nhu cầu, mong muốn khách hàng để tăng cường
trải nghiệm, tạo sự hài lòng và gắn kết khách hàng.
Đối với vấn đề an ninh bảo mật, các ngân hàng thương mại cần tiếp tục đầu tư
nhiều giải pháp bảo đảm an toàn thông tin, đồng thời tăng cường công tác cảnh
báo, khuyến cáo khách hàng cần cẩn trọng khi giao dịch ngân hàng điện tử. Có thể
thấy, muốn thực hiện tốt việc bảo mật an ninh lĩnh vực ngân hàng - tài chính đòi
hỏi sự hợp tác chặt chẽ từ ba phía: khách hàng, ngân hàng và cơ quan quản lý. Nếu
thiếu bất cứ thành phần nào, việc đảm bảo an toàn an ninh toàn hệ thống sẽ khó
thực hiện.
Ngoài ra, các ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh truyền thông, triển khai các chương
trình giáo dục tài chính nhằm nâng cao kiến thức về tài chính ngân hàng cho người
dân, giúp giảm thiểu rủi ro cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ tài chính, qua đó
nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho khách hàng,thúc đẩy TTKDTM.
*******Câu hỏi ôn tập Chương 2*******

1. Công nghệ số là gì?
2. Hãy trình bày các tác động của công nghệ số đối với nền kinh tế?
3. Hãy trình bày vai trò của công nghệ số trong hoạt động phát triển Ngân hàng?


15/Biên soạn: Ngô Đức Chiến

*********Kết thúc Chương 2*********

Đọc thêm Chương 2

CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA VỚI CÁC NGÂN HÀNG VIỆT NAM

Phạm Thị Phương Anh, Tạp chí Tài chính, 2(7/2019)


16/Biên soạn: Ngô Đức Chiến

Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang diễn ra với tốc độ nhanh, tác động
đến mọi mặt trên toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Mặc dù không nằm trong 9 khu
vực, lĩnh vực được đánh giá là chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của cuộc Cách mạng
công nghiệp 4.0, nhưng làn sóng công nghệ mới này cũng đang tạo ra những thay
đổi rõ rệt trong lĩnh vực ngân hàng, đặc biệt làm thay đổi kênh phân phối và các
sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền thống.
1. Cách mạng công nghiệp 4.0 trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam
Tài chính – ngân hàng là khu vực năng động nhất ở Việt Nam về triển khai
nghiên cứu và ứng dụng cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0). Các xu
hướng nổi bật trong ứng dụng CMCN 4.0 ở Việt Nam bao gồm tăng cường phát
triển ngân hàng số, ứng dụng dữ liệu lớn, ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào phục vụ
khách hàng trong ngân hàng số, ứng dụng công nghệ điện toán đám mây và nghiên
cứu, ứng dụng tự động hóa quy trình bằng rôbốt.
Fintech góp phần làm thay đổi sâu sắc diện mạo của ngành công nghiệp tài
chính – ngân hàng ở Việt Nam. Theo Khảo sát toàn cảnh về Fintech của khu vực
ASEAN 2018 của Ernst & Young (một trong bốn công ty kiểm toán hàng đầu thế giới
hiện nay), Việt Nam hiện có khoảng 78 công ty Fintech đang hoạt động với tổng số
vốn đầu tư lên tới 129 triệu USD.
Trong đó, hiện có tới 90% các khoản thanh toán đang dùng tiền mặt và các công
ty Fintech Việt Nam tập trung khá nhiều cho lĩnh vực thanh toán, chiếm 47% trên
tổng số 78 công ty Việt Nam, đây là tỷ lệ cao nhất trong khu vực ASEAN. Các sản
phẩm chủ yếu của Fintech trong lĩnh vực ngân hàng như: Ví điện tử, chuyển tiền
ngang cấp, dịch vụ cung cấp thông tin tài chính, cho vay ngang hàng, gọi vốn cộng
đồng, tiền thuật toán Bitcoin...
Có thể nói, khu vực dịch vụ ngân hàng ở Việt Nam đã có phản ứng nhanh nhất



17/Biên soạn: Ngô Đức Chiến

so với các khu vực khác trong việc chủ động nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ của CMCN 4.0 vào đổi mới cách thức quản trị ngân hàng; đổi mới quan
hệ khách hàng; hiện đại hóa cách thức thực hiện giao dịch, các kênh cung cấp,
phân phối sản phẩm; ứng dụng dữ liệu lớn; ứng dụng trí tuệ nhân tạo; ứng dụng
điện toán đám mây; công nghệ Fintech trong thanh toán...
Nguyên nhân của sự bứt phá này ở khu vực ngân hàng là: Chi phí giảm thúc đẩy
lan tỏa rộng rãi công nghệ trong khu vực tài chính – ngân hàng; Việc kết hợp nhiều
loại hình công nghệ số, hội tụ công nghệ số với các công nghệ khác giúp nâng cao
hiệu quả hoạt động, làm cho quá trình vận hành trở nên đơn giản hơn, chính xác
hơn; Hệ thống ngân hàng hiện nay đang tiếp cận khá tốt với xu thế công nghệ trên
thế giới.
Tuy nhiên, so với quy mô tổng thể của cả hệ thống ngân hàng Việt Nam, có thể
thấy việc nghiên cứu, chủ động ứng dụng công nghệ của CMCN 4.0 còn rời rạc và
chỉ diễn ra chủ yếu ở các tổ chức ngân hàng lớn - là nhóm có thế mạnh sẵn có về
khoa học - công nghệ trước đó nhận thức được tầm quan trọng của CMCN 4.0.
Bên cạnh đó, vẫn còn không ít tổ chức ngân hàng đang trong giai đoạn nghiên
cứu hoặc chưa có động thái gì. Nhóm này chủ yếu là các ngân hàng có quy mô nhỏ,
nền tảng khoa học - công nghệ còn hạn chế, chưa bắt kịp được xu thế thay đổi của
CMCN 4.0 trong nước và trên thế giới. Bối cảnh này sẽ tạo áp lực lớn cho nhóm còn
lại trước việc phải cấu trúc lại hoạt động trên nền tảng ứng dụng công nghệ của
CMCN 4.0 để tồn tại.
2. Cơ hội và thách thức đối với hệ thống Ngân hàng Việt Nam
Những cơ hội


18/Biên soạn: Ngô Đức Chiến


- Hiện nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao, thương mại với hầu hết các quốc gia
và vùng lãnh thổ trên thế giới, tham gia vào phần lớn các Hiệp định thương mại tự
do (FTA) có quy mô lớn trên thế giới, sự hiện diện của CMCN 4.0 sẽ là cơ hội cho
không chỉ các tổ chức tài chính – ngân hàng lớn mà toàn hệ thống có thể vươn ra
khỏi lãnh thổ, mở rộng phạm vi hoạt động và tạo dựng thương hiệu quốc tế trong
điều kiện sân chơi kinh doanh bình đẳng mang tính toàn cầu, có tính chuyên
nghiệp cao. Điều này sẽ mở ra cơ hội lớn cho khu vực tài chính – ngân hàng bắt kịp
trình độ thế giới, mở rộng thị trường, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Với công nghệ di động phát triển, các ngân hàng có thể khai thác tệp khách hàng
mới, vốn là những người trước đây chưa sử dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng,
thông qua các ứng dụng ngân hàng trên di động mà không cần tới chi nhánh vật lý.
Công nghệ chính là cánh tay nối dài giúp các ngân hàng vươn xa và rộng hơn tới các
khu vực chưa có chi nhánh, tới các khách hàng mới mà không cần phải bỏ ra nhiều
chi phí để xây dựng các chi nhánh vật lý.
- Nhu cầu ứng dụng và phát triển công nghệ cao trong hoạt động của ngân hàng
tại Việt Nam đang tăng cao. Điều tra của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, có những
ngân hàng dự kiến sẽ đầu tư 8% - 10% tổng chi phí hoạt động hằng năm cho công
nghệ thông tin. Những tiến bộ từ cuộc cách mạng công nghệ số và tiếp theo là
cuộc CMCN 4.0 sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng Việt Nam có cơ hội
thu hút vốn đầu tư, tiếp cận thị trường quốc tế; cập nhật được trình độ quản trị
điều hành và kinh doanh hiện đại; tiếp thu những mô hình ngân hàng số thông
minh; đổi mới công nghệ nhờ việc ứng dụng hay chuyển giao công nghệ cao, phát
triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại, phát huy tiềm năng to lớn về lĩnh
vực tài chính – ngân hàng và có những thay đổi kịp thời với xu thế công nghệ mới
khi Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và ký kết một loạt FTA, đặc
biệt là FTA Việt Nam - Liên minh kinh tế Á - Âu, hay FTA Việt Nam - Hàn Quốc, FTA
Việt Nam - Nhật Bản... Sự phát triển của công nghệ trong cuộc CMCN 4.0 sẽ cho ra


19/Biên soạn: Ngô Đức Chiến


đời các công nghệ mới, giúp cho các ngân hàng tăng hiệu quả kinh doanh, giảm chi
phí giao dịch.
- Công nghệ hiện đại giúp các ngân hàng không chỉ đẩy mạnh được hoạt động
kinh doanh, giảm chi phí giao dịch mà còn tăng tính bảo mật, giao dịch minh bạch
và an toàn hơn với những công nghệ mới như blockchain, sinh trắc học trong thanh
toán như sử dụng dấu vân tay thay thế cho thẻ thanh toán…
- Việc xây dựng một xã hội không tiền mặt đang là cơ hội lớn để các ngân hàng
đẩy mạnh việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ của mình. Nhu cầu thanh toán trực
tuyến cũng tăng lên khi hoạt động thương mại điện tử phát triển, công nghệ vạn
vật kết nối internet trở nên thông dụng hơn, và đây cũng là một cơ hội lớn để các
ngân hàng mở rộng kinh doanh trong thời kỳ công nghiệp 4.0.
Thách thức
- Hệ thống ngân hàng lõi truyền thống phức tạp đang là rào cản lớn nhất đối với
sự thành công của ngân hàng số. Nếu không có những sự thay đổi về chiều sâu, các
ngân hàng các thể bị tụt lại trong cuộc đua cung cấp các trải nghiệm số cho khách
hàng. Hệ thống công nghệ thông tin (CNTT) lỗi thời với cấu trúc không linh hoạt và
hoạt động nguyên khối cũng đang cản trở các ngân hàng phát triển lên ngân hàng
số trong khi đó việc thay đổi hệ thống rất phức tạp, tốn kém cả về thời gian lẫn tiền
bạc.
- Ngân sách đầu tư chiến lược cho các công nghệ mới bị hạn chế khi mà các
ngân hàng Việt Nam hiện nay kinh doanh mới chủ yếu tập trung vào ngắn hạn.
Đồng thời, do thiếu chiến lược và tầm nhìn về công nghệ số, hiểu biết hạn chế về
số hóa và các tiềm năng của số hóa cũng đang hạn chế các ngân hàng đầu tư đúng
mực vào việc hiện đại hóa hệ thống
- Không chỉ gặp hạn chế ở hệ thống máy móc cũ, nhân sự có năng lực về công
nghệ số hiện đại trong các ngân hàng Việt Nam còn yếu và mỏng, còn thiếu các
nhân sự có khả năng nắm bắt và triển khai các công nghệ số hiện đại trên thế giới.



20/Biên soạn: Ngô Đức Chiến

- Với tốc độ phát triển của công nghệ số như hiện nay thìbảo mật cũng đang là
vấn đề khiến các ngân hàng toàn cầu, trong đó có Việt Nam phải quan tâm rất
nhiều khi trình độ của các tổ chức tấn công mạng, trình độ của tội phạm cũng cao
hơn rất nhiều, cùng với đó là mức độ toàn cầu hóa cao mà cuộc CMCN 4.0 đem lại
thìviệc tấn công các ngân hàng Việt Nam không còn chỉ gói gọn trong phạm vi trong
nước mà tại bất kỳ một quốc gia nào, tội phạm cũng có thể tấn công được các ngân
hàng Việt Nam.
- Sự cạnh tranh đến từ các công ty tài chính công nghệ, khi mà những Apple Pay
hay Samsung Pay đang lần lượt ra đời và là đối thủ cạnh tranh trực tiếp đối với các
sản phẩm thanh toán của các ngân hàng truyền thống.
3. Một số giải pháp đối với hệ thống Ngân hàng Việt Nam
Để có thể tận dụng được những cơ hội, đồng thời hạn chế được các thách thức
nêu trên, dưới góc độ một ngân hàng thương mại, một số giải pháp cần quan tâm
như sau:
Một là, đẩy mạnh đổi mới và ứng dụng các công nghệ hiện đại thông qua việc
xây dựng và hoạch định chiến lược về phát triển CNTT của khu vực tài chính, ngân
hàng, nhiệm vụ xuyên suốt là nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu công nghệ
hiện đại của CMCN 4.0. Các ngân hàng cần xây dựng giải pháp phù hợp, hợp tác với
các công ty công nghệ, bởi đó là cơ hội để các ngân hàng tiếp nhận được các công
nghệ mới cùng với nhân lực có chuyên môn về công nghệ cao, giúp các ngân hàng
giảm được thời gian cũng như chi phí nghiên cứu các sản phẩm công nghệ mới.
Hai là, các tổ chức ngân hàng cần tập trung thúc đẩy phát triển, tạo sự bứt phá
về hạ tầng công nghệ, hỗ trợ cho sự phát triển của toàn hệ thống. Các ngân hàng
cần chú trọng xây dựng tầm nhìn dài hạn về ngân hàng số, hoạch định chiến lược
về CNTT, đầu tư vào phát triển hệ thống CNTT, xây dựng nguồn nhân lực về ứng


21/Biên soạn: Ngô Đức Chiến


dụng công nghệ mới trong phát triển các sản phẩm ngân hàng có hàm lượng công
nghệ cao.
Ba là, CMCN 4.0 sẽ tạo ra một mô hình chuỗi cung ứng mới gắn kết chặt chẽ hơn
với nhu cầu của khách hàng. Do đó, chuỗi cung ứng mới này sẽ tạo ra một cơ sở dữ
liệu duy nhất, làm cho chuỗi cung ứng thông minh, minh bạch và hiệu quả hơn ở
mọi giai đoạn, từ khi phát sinh nhu cầu cho đến khi bàn giao dịch vụ, sản phẩm.
Các ngân hàng trong nước cần tìm kiếm những giải pháp toàn diện cho dịch vụ tài
chính, ngân hàng thông qua sử dụng các dữ liệu thông minh và hợp tác với nhiều
ngành kinh doanh.
Bốn là, đẩy nhanh tiến độ xây dựng và hoàn thiện chiến lược tài chính toàn diện,
trong đó nhấn mạnh vai trò ứng dụng CNTT, khuyến khích sự phát triển hợp tác
giữa ngân hàng và các công ty tài chính công nghệ fintech; Thúc đẩy hệ sinh thái
fintech phát triển, trở thành một phần của hệ sinh thái trong chuỗi cung ứng sản
phẩm dịch vụ tài chính, ngân hàng hiện đại.
Năm là, chú trọng quản lý an ninh mạng. CMCN 4.0 đã đẩy cao mức độ chia sẻ
thông tin, từ đó tạo ra một nhu cầu rất lớn về bảo mật và an toàn thông tin. Các
ngân hàng và các định chế tài chính cần đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng trung
tâm Dự phòng dữ liệu (khôi phục dữ liệu sau thảm họa); Nâng cấp hệ thống an
ninh, bảo mật ở mức cao; Đảm bảo việc mở rộng phạm vi hoạt động (nếu có) được
ổn định, an toàn, mang lại hiệu quả lâu dài.
Tài liệu tham khảo:
Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia, 2016, Tổng luận “Cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ 4”, trang 6;


22/Biên soạn: Ngô Đức Chiến

Đào Văn Hùng, Phát triển khu vực tài chính – ngân hàng trong bối cảnh Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư, Tạp chí Cộng sản, số 6/2019;

Accenture, 2017, Technology vision 2017;
Website:

/>
data-analytics/;
/>Accenture, 2017, Technology vision 2017.



×