Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

(Luận văn thạc sĩ) bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng quyền sở hữu trí tuệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------------------------

VŨ YẾN NHI
BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
BẰNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
------------------------------

VŨ YẾN NHI

BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
BẰNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số chuyên ngành: 8.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. Lâm Tố Trang

TP. Hồ Chí Minh, Năm 2019



i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan rằng luận văn “Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng quyền
sở hữu trí tuệ” là công trình khoa học của chính tôi.
Ngoại trừ những tài liệu tham khảo được trích dẫn trong Luận văn, tôi
cam đoan rằng toàn phần hay những phần nhỏ của Luận văn này chưa từng
được công bố hoặc sử dụng để nhận bằng cấp ở nơi khác.
Không có nghiên cứu nào của người khác được sử dụng trong Luận văn
này mà không được trích dẫn theo đúng quy định.
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2019
Tác giả

Vũ Yến Nhi


ii

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Khoa Luật, Khoa Đào tạo
sau đại học, Thư viện Trường cùng toàn thể quý thầy cô Trường Đại học Mở
Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Đặc biệt, xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến TS. Lâm Tố Trang –
Trưởng Bộ môn Luật dân sự đã hết lòng giúp đỡ, tận tình hướng dẫn, chỉ bảo
và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình thực hiện việc
nghiên cứu luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè và đồng

nghiệp đã luôn ở bên cạnh hỗ trợ, giúp đỡ và động viên tôi trong quá trình học
tập và thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, xin trân trọng cám ơn các thầy, cô trong Hội đồng chấm
luận văn đã cho tôi những ý kiến đóng góp quý báu để tôi hoàn chỉnh luận
văn này


iii

TÓM TẮT LUẬN VĂN
Sự phát triển của nền kinh tế của quốc gia dẫn đến sự phát triển đa dạng
của việc thiết lập các quan hệ dân sự trong đời sống hằng ngày. Vai trò của
của các quan hệ dân sự trong xã hội rất quan trọng mà hệ thống pháp luật của
mỗi quốc gia đó phải đảm bảo điều chỉnh phù hợp với các mối quan hệ xã hội
đó. Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong các giao dịch dân sự trải qua một thập
kỷ đến nay đã là một hoạt động phổ biến trong các giao dịch thương mại, đặc
biệt là hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng trong việc tiếp cận với
nguồn vốn tín dụng để phát triển kinh doanh, sản xuất.
Biện pháp thế chấp là một trong những biện pháp đảm bảo, hữu dụng
được sử dụng nhằm hạn chế những rủi ro trong quan hệ vay vốn tín dụng. Tài
sản thế chấp rất đa dạng bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản,
trong đó quyền tài sản là một dạng tài sản vô hình và quy định cụ thể tại Điều
115, Bộ luật dân sự 2015 gồm các đối tượng quyền SHTT, quyền sử dụng đất và
các quyền tài sản khác. Trong thời gian vừa qua, hoạt động thế chấp quyền sử dụng
đất trở nên phổ biến, đặc biệt kể từ khi ban hành Luật đất đai năm 2013 quy định
chi tiết việc thế chấp quyền sử dụng đất tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức và
các tổ chức tín dụng tham gia hoạt động cho vay để tham gia đầu tư sản xuất, kinh
doanh phát triển mạnh mẽ. Mặc dù cùng đối tượng giao dịch như quyền sử dụng đất
nhưng các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ lại chưa được quy định cụ thể tại Luật sở
hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009 mà xu hướng của đối tượng tài sản

này lại ngày càng phát triển phục vụ cho đời sống, xã hội, con người.
Hiện nay, áp dụng các biện pháp bảo đảm mà tài sản bảo đảm là các đối
tượng quyền sở hữu trí tuệ chưa được các tổ chức tín dụng áp dụng rộng rãi bởi lẽ
quy định pháp luật điều chỉnh về vấn đề này vẫn còn hạn chế. Luận văn tập trung
nghiên cứu, phân tích các đặc điểm để xác định các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ
là tài sản đảm bảo được áp dụng phổ biến trong các giao dịch dân sự có bảo đảm
tương tự như quyền sử dụng đất đã được áp dụng trong thời gian qua, kết luận biện


iv

pháp nào áp dụng phù hợp với các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ và đưa kiến nghị
giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm phát triển loại tài sản này trong các giao dịch
dân sự có bảo đảm.
Bộ luật dân sự 2015 là công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
tham gia các giao dịch dân sự, tuy nhiên qua quá trình triển khai thực hiện trên thực
tế, pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ mà tài sản bảo đảm là các đối tượng
quyền sở hữu trí tuệ vẫn còn bất cập, đặc biệt là trong quá trình thực hiện, các tổ
chức tín dụng vẫn còn mơ hồ trong việc áp dụng các quy định pháp luật. Hiện nay,
chỉ có Bộ luật dân sự năm 2015 đề cập đến tài sản được bảo đảm trong đó bao gồm
các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, tuy nhiên Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi,
bổ sung năm 2009 chưa quy định cụ thể. Điều này làm hạn chế các doanh nghiệp
chưa mạnh dạn dùng tài sản trí tuệ của mình để thực hiện vay vốn, tìm kiếm chi phí
đầu tư cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp mình. Pháp luật nên
mở rộng, thống nhất, khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện lao động sáng tạo để
tạo ra nhiều sản phẩm trí tuệ phục vụ cho đời sống, xã hội và những tài sản đó đều
mang lại giá trị lợi ích nhất định, nếu khai thác tốt giá trị tài sản sẽ đem lại hiệu quả
kinh tế tốt cho các doanh nghiệp và cho sự phát triển kinh tế.
Từ những vấn đề trên, với mong muốn nghiên cứu một cách sâu sắc và thực
tế về tài sản bảo đảm là các đối tượng quyền SHTT, đề tài “Bảo đảm thực hiện

nghĩa vụ bằng quyền sở hữu trí tuệ” với cơ cấu hai chương nhằm giải quyết
những vấn đề cơ bản sau:
Chương 1: Tổng quan về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng quyền sở hữu trí
tuệ.
Nội dung Chương 1, tác giả nêu các nội dung chủ yếu sau:
1. Khái quát về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ: Trong nội dung này,
tác giả đề cập đến khái niệm, đặc điểm phân loại của các biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ và đề cập các loại tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Dựa
trên những đặc điểm cơ bản, tác giả phân tích từng biện pháp gắn liền với việc thực
hiện cụ thể đối với từng biện pháp, tìm ra đặc trưng cơ bản và sự khác nhau của các


v

biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Bên cạnh đó, việc phân loại tài sản giúp hiểu
rõ nội hàm cơ bản của các loại tài sản và việc áp dụng cho từng loại tài sản khác
nhau được quy định cụ thể tại Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ: Theo nội dung này, tác giả đề cập đến
sự ra đời và quan điểm một số nhà triết học về quyền sở hữu trí tuệ. Căn cứ theo
Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009, tác giả nêu các khái niệm,
phân loại quyền sở hữu trí tuệ; một số đặc điểm, bản chất để phân biệt quyền sở hữu
trí tuệ với các tài sản khác và các quy định pháp luật về việc xác lập và bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ.
3. Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng quyền sở hữu trí tuệ: Từ các
khái niệm, nội dung cơ bản theo quy định pháp luật về các biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ và quyền sở hữu trí tuệ, tác giả phân tích những đặc điểm cơ bản, nội
hàm của từng biện pháp để tìm ra biện pháp áp dụng phù hợp đối với quyền sở hữu
trí tuệ. Theo đó, căn cứ đặc điểm của các biện pháp và cho rằng biện pháp thế chấp
là biện pháp phù hợp áp dụng đối với tài sản bảo đảm là các đối tượng quyền sở hữu
trí tuệ. Các bên đăng ký biện pháp thế chấp là biện pháp bảo đảm thực hiện hợp

đồng, thì hợp đồng thế chấp chính là sự thỏa thuận của các bên trong việc ràng buộc
nhau thực hiện hợp đồng chính. Hợp đồng thế chấp cũng được thực hiện các bước
theo quy trình từ việc xác lập, thay đổi, thực hiện và chấm dứt hợp đồng theo quy
định của pháp luật.
Chương 2: Quy định pháp luật về thế chấp tài sản là quyền sở hữu trí tuệ và
kiến nghị hoàn thiện.
Nội dung Chương 2, tác giả nêu các nội dung chủ yếu sau:
1. Các giai đoạn phải trải qua của một hợp đồng thế chấp bao gồm việc xác
lập, đăng ký biện pháp thế chấp, thực hiện hợp đồng và các trường hợp chấm dứt
hợp đồng thế chấp tài sản là quyền sở hữu trí tuệ. Nội dung này được căn cứ theo
Bộ luật dân sự 2015, bên cạnh đó các điều kiện về chủ thể, đối tượng, nội dung,
hình thức cũng phải đảm bảo phù hợp Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ
sung năm 2009.


vi

2. Nhận định vai trò của sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế tại Việt Nam: Tác
giả đề cập đến vai trò của sở hữu trí tuệ tại Việt Nam và tầm quan trọng trong nền
nền kinh tế từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ký kết
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Tác giả phân tích sự phát triển
của tài sản là các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ ngày càng gia tăng và là tài sản
chiếm ưu thế trong doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ đó
nhận định tài sản là đối tượng quyền sở hữu trí tuệ phần nào mang lại giá trị cao
trong khối tài sản của một doanh nghiệp, tuy nhiên việc khai thác giá trị mang lại
của tài sản này chưa đúng mực.
3. Tác giả đánh giá việc ban hành quy định về thế chấp tài sản là quyền sở
hữu trí tuệ với những ưu điểm và hạn chế nhất định, từ đó tác giả đưa ra một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về thế chấp tài sản là quyền sở hữu trí tuệ.
Luận văn “Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng quyền sở hữu trí tuệ” là

một công trình nghiên cứu tổng quan, toàn diện về vấn đề bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ bằng quyền sở hữu trí tuệ thông qua căn cứ quy định pháp luật của Bộ luật dân
sự 2015 và Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009 nhằm mục tiêu
chỉ ra vai trò của quyền sở hữu trí tuệ có tầm quan trọng trong nền kinh tế. Đưa ra
đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật để mở rộng, khuyến khích các doanh nghiệp,
tổ chức tín dụng mạnh dạn thực hiện hoạt động vay vốn mà tài sản bảo đảm là
quyền sở hữu trí tuệ. Vì lẽ đó mà đối tượng quyền sở hữu trí tuệ sẽ được khai thác
một cách tốt nhất, triệt để các lợi ích kinh tế mà loại tài sản này mang lại.


vii

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN....................................................................................................... ii
TÓM TẮT LUẬN VĂN ...................................................................................... iii
MỤC LỤC .......................................................................................................... vii
DANH MỤC VIẾT TẮT .................................................................................... ix
PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................................1
1.

Lý do lựa chọn đề tài ........................................................................................1

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài..............................................................................2


3.

Mục tiêu nghiên cứu .........................................................................................4

4.

Câu hỏi nghiên cứu: .........................................................................................5

5.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................5

6.

Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................6

7.

Ý nghĩa nghiên cứu ..........................................................................................7

8.

Kết cấu luận văn ...............................................................................................8

CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
BẰNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ...................................................................9
1.1. Khái quát về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ .......................................9
1.1.1.


Khái niệm của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ....................9

1.1.2.

Đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ....................11

1.1.3.

Phân loại các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ...........................12

1.1.4.

Các loại tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ..........................15

1.2. Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ ..................................................................19
1.2.1.

Sự ra đời của quyền sở hữu trí tuệ ........................................................19

1.2.2.

Khái niệm về quyền sở hữu trí tuệ ........................................................24

1.2.3.

Phân biệt quyền sở hữu trí tuệ với các tài sản khác ..............................27

1.2.4.

Phân loại quyền sở hữu trí tuệ ..............................................................33


1.2.5.

Xác lập và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ................................................36

1.3. Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng quyền sở hữu trí tuệ ................38


viii

CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN LÀ
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN .....................42
2.1. Thành lập hợp đồng thế chấp tài sản là quyền sở hữu trí tuệ .........................42
2.1.1.

Điều kiện về chủ thể của hợp đồng thế chấp ........................................43

2.1.2.

Điều kiện về hình thức của hợp đồng thế chấp.....................................45

2.1.3.

Điều kiện về nội dung của hợp đồng thế chấp ......................................46

2.2. Đăng ký biện pháp thế chấp tài sản là quyền sở hữu trí tuệ ...........................49
2.3. Thực hiện hợp đồng thế chấp tài sản là quyền sở hữu trí tuệ.........................50
2.3.1.

Quyền và nghĩa vụ của bên thế chấp ....................................................50


2.3.2.

Quyền và nghĩa vụ của bên nhận thế chấp ...........................................52

2.4. Chấm dứt hợp đồng thế chấp tài sản là quyền sở hữu trí tuệ .........................53
2.4.1.

Chấm dứt hợp đồng thế chấp theo quy định pháp luật .........................53

2.4.2.

Chấm dứt hợp đồng thế chấp theo thoả thuận của các bên...................58

2.5. Nhận định vai trò của sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế tại Việt Nam ..... Error!
Bookmark not defined.
2.6. Đánh giá việc ban hành quy định pháp luật về thế chấp tài sản là quyền sở
hữu trí tuệ ...............................................................................................................59
2.6.1.

Ưu điểm ................................................................................................59

2.6.2.

Hạn chế .................................................................................................61

2.7.Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về thế chấp tài sản là quyền sở
hữu trí tuệ ..........................................................................................................65
KẾT LUẬN ..........................................................................................................68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................70



ix

DANH MỤC VIẾT TẮT
Từ viết tắt
BLDS
TSHH
TSVH
SHTT
SME

Diễn giải
Bộ luật dân sự
Tài sản hữu hình
Tài sản vô hình
Sở hữu trí tuệ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường tạo cơ hội cho các giao dịch dân
sự, thương mại ngày càng phát triển. Song song đó, các văn bản quy phạm pháp luật
được ban hành kịp thời đáp ứng cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình thiết lập quan hệ dân sự. Điều đó cho thấy các quan hệ dân sự có vai
trò chủ yếu trong xã hội mà mỗi quốc gia phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, phải
mở rộng, thống nhất tạo cơ sở cho việc thi hành pháp luật theo khuôn khổ, bên cạnh

đó cũng là công cụ hỗ trợ cho các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện công tác
quản lý góp phần cho sự ổn định và phát triển kinh tế, xã hội.
Bộ luật dân sự năm 1995 lần đầu tiên quy định về các biện pháp nhằm bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự tại Mục 5, Chương I, phần “Nghĩa vụ dân sự và Hợp
đồng dân sự” đã tạo ra một hành lang pháp lý cho các giao dịch bảo đảm, là cơ sở
để các chủ thể căn cứ khi tham gia vào các giao dịch dân sự có bảo đảm theo một
chuẩn mực pháp lý nhất định, tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ cho các giao dịch dân
sự chính được thực hiện một cách hoàn chỉnh nhất. Thay thế cho BLDS 1995, việc
ban hành BLDS 2005 và BLDS 2015 là các giai đoạn thay đổi lớn trên cơ sở kế
thừa luật cũ tiến tới hoàn thiện cơ sở pháp lý cho các quan hệ dân sự theo nghĩa
rộng, trong đó những quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cũng
được sửa đổi, bổ sung nhằm điều chỉnh cụ thể, có hiệu quả hơn cho các giao dịch
dân sự có bảo đảm.
Trong khoảng hơn một thập kỷ đến nay, đi cùng với sự phổ biến các giao
dịch dân sự còn có sự phát triển đa dạng các đối tượng giao dịch dân sự, trong đó
chủ yếu là tài sản. Theo Khoản 1 Điều 105, BLDS 2015 liệt kê tài sản bao gồm vật,
tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Như vậy vật, tiền, giấy tờ có giá là những tài
sản hữu hình có thể cầm, nắm, quản lý và nhận biết thông qua bản chất vật lý của
nó, còn quyền tài sản là loại tài sản có trị giá được bằng tiền, không nhận biết được
thông qua bản chất vật lý do đó có thể hiểu quyền tài sản thuộc loại tài sản vô hình.


2

Theo Điều 115, BLDS 2015 quy định về quyền tài sản bao gồm quyền tài sản đối
với đối tượng quyền SHTT, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác. Trong đó
tài sản là các đối tượng quyền SHTT ngày càng phát triển, là thành quả được tạo ra
do trình độ, tri thức, sáng tạo của con người nhằm phát triển khoa học công nghệ,
kỹ thuật phục vụ cho đời sống, xã hội. Sự ra đời của Luật SHTT vào năm 2005
cùng với sự phát triển của BLDS 1995, 2005, 2015 đã mang lại một hành lang pháp

lý bảo vệ, tạo điều kiện cho con người sáng tạo, phát minh khoa học, công nghệ, kỹ
thuật phục vụ cho đời sống con người. Đối với một quốc gia đang phát triển như
Việt Nam, các đối tượng quyền SHTT đang ngày càng tăng, ví dụ số lượng đơn
đăng ký bảo hộ sáng chế tại năm 2009 là 258 đơn, năm 2018 số lượng tăng gấp đôi
là 574 đơn; đối với đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại năm 2009 là 23.378
đơn, năm 2019 là 33.799 đơn1. Để chạy theo sự phát triển liên tục đó, pháp luật
cũng cần hoàn thiện nhằm đáp ứng nhu cầu và thể hiện vai trò, chức năng trong
công tác điều chỉnh các quan hệ dân sự, đặc biệt liên quan đến các giao dịch dân sự
có bảo đảm bằng quyền SHTT. Hiện nay, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
bằng quyền SHTT chưa được các tổ chức tín dụng áp dụng rộng rãi bởi lẽ quy định
pháp luật điều chỉnh về vấn đề này vẫn còn hạn chế. Do đó, tác giả tập trung nghiên
cứu, phân tích các đặc điểm để xác định các đối tượng quyền SHTT là tài sản đảm
bảo được áp dụng phổ biến trong các giao dịch dân sự có bảo đảm tương tự như
quyền sử dụng đất đã được áp dụng trong thời gian qua, kết luận biện pháp nào áp
dụng phù hợp với các đối tượng quyền SHTT và đưa kiến nghị giải pháp hoàn thiện
pháp luật nhằm phát triển loại tài sản này trong các giao dịch dân sự có bảo đảm.
Từ những vấn đề trên, với mong muốn nghiên cứu một cách sâu sắc và thực
tế về tài sản bảo đảm là các đối tượng quyền SHTT, tác giả chọn đề tài “Bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ bằng quyền sở hữu trí tuệ” làm đề tài nghiên cứu cho luận
văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Số liệu được thống kê tại website của Cục sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ
và dựa trên các báo cáo thường niên hoạt động sở hữu trí tuệ từ năm
2005 đến 2017 của Cục Sở hữu trí tuệ.
1


3

Hiện nay, các tài liệu nghiên cứu khoa học về các biện pháp bảo đảm bằng

quyền SHTT còn rất hạn chế, giáo trình giảng dạy cũng chưa đề cập đến nội dung
này. Hầu như chỉ có các công trình nghiên cứu, tạp chí, bài báo khoa học đề cập và
chủ yếu đánh giá về sự hoàn thiện của quy định pháp luật trong việc sử dụng quyền
SHTT là tài sản bảo đảm, đánh giá giá trị của quyền SHTT và dựa trên các quy định
tương tự như quyền sử dụng đất, từ đó nhận định quyền SHTT có những đặc trưng
mà cần các nhà làm luật khai thác các đối tượng quyền SHTT là tài sản bảo đảm và
nên được áp dụng rộng rãi. Luận văn chủ yếu dựa trên một số bài báo đăng trên tạp
chí chuyên ngành và một số luận văn, công trình khoa học về bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ, cụ thể như sau:
- Luận án tiến sĩ luật học năm 2014 của Bà Nguyễn Bích Thảo – Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội: “Legal Frameworks for Intellectual Property-Based
Secured Financing: Proposals for Reform in Vietnam” (Khung pháp lý cho hoạt
động tài trợ vốn có bảo đảm bằng tài sản trí tuệ: Kiến nghị hoàn thiện ở Việt Nam).
- Bài báo “Giao dịch bảo đảm bằng tài sản vô hình: một số gợi ý hoàn thiện
quy định hiện hành” của Ông Bùi Đức Giang, đăng trên Tạp chí ngân hàng số 17,
tháng 9 năm 2014; Tác giả cho rằng việc sử dụng tài sản vô hình đảm bảo nghĩa vụ
có nhiều ưu điểm so với tài sản hữu hình vì giúp tránh được nguy cơ tài sản bị mất,
bị phá hủy hay giảm giá trị, thuận lợi cho việc lưu trữ và chuyển giao bằng phương
tiện điện tử. Tuy nhiên, ở Việt Nam việc cho vay có đảm bảo bằng tài sản vô hình
chưa thực sự phổ biến, quy định pháp luật hiện nay còn thiếu, ít tính khả thi đang là
rào cản cho việc xác lập và xử lý các giao dịch bảo đảm bằng tài sản vô hình. Ông
nêu rõ khái niệm, bản chất pháp lý và cho rằng tài sản vô hình không thể chiếm hữu
hay chuyển giao về mặt vật chất nên chỉ có thế chấp là biện pháp không đặt ra yêu
cầu chuyển giao tài sản cho chủ nợ có bảo đảm mới có thể áp dụng được cho tài sản
vô hình. Ông đưa ra những bất cập, hạn chế và đề xuất các kiến nghị hoàn thiện
pháp luật về thế chấp tài sản vô hình trong đó có thế chấp quyền SHTT.
- Bài báo “Cho vay đảm bảo bằng tài sản trí tuệ: Cũ người, mới ta” của
Linh Chi, đăng trên báo điện tử Doanh nhân Sài Gòn, năm 2015. Tác giả bài viết



4

cho rằng thị trường bất động vào năm 2015 chưa phát triển, việc sử dụng tài sản bảo
đảm là bất động sản để vay rất khó khăn, do đó động lực thúc đẩy sản xuất, kinh
doanh của doanh chính là tài sản trí tuệ và cũng là giải pháp hiệu quả đối với các
ngân hàng thương mại. Bà Nguyễn Xuân Thảo, giáo sư luật, chuyên gia về giao
dịch bảo đảm, Đại học Luật MC Kinney và Trường Tổng hợp Indiana (Mỹ) cho biết
tài trợ vốn có bảo đảm là tài sản trí tuệ lâu nay đã được các ngân hàng ở Mỹ triển
khai, do đó Việt Nam cho vay theo hình thức này cũng hoàn toàn phù hợp, đồng
thời hệ thống pháp liên quan phải tiếp tục được hoàn thiện.
- Bài báo “Nên có quy định thế chấp tài sản vô hình” của Phạm Hà Nguyên,
đăng trên báo điện tử Thời báo ngân hàng ngày 21 tháng 3 năm 2016; Bài viết thể
hiện các doanh nghiệp không có tài sản thế chấp để vay vốn tín dụng nên các
chuyên gia kinh tế, một số nhà quản lý đặt vấn đề có thể thế chấp tài sản vô hình, cụ
thể là phát minh, sáng chế, ý tưởng kinh doanh,… tuy nhiên khi đem ra là tài sản
thế chấp nợ vay cần phải có quy định về giá thị trường cho tài sản đó, việc thương
mại hóa các tài sản vô hình cần sự đỡ đầu, quan tâm của các cơ quan quản lý Nhà
nước để thúc đẩy cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Dựa vào các tài liệu vừa nêu và một số tài liệu khác, tác giả đưa ra các lý
luận, quan điểm, nhận xét thông qua việc tham khảo, nghiên cứu của các chuyên
gia. Bên cạnh đó, luận văn tập trung phân tích những tính mới trên cơ sở so sánh
với quy định về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ do pháp luật hiện hành quy
định. Nhận định vai trò, vị trí của các biện pháp bảo đảm bằng quyền SHTT theo sự
phát triển đa dạng của các giao dịch dân sự có bảo đảm trong xã hội hiện nay. Từ đó
đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về biện pháp bảo đảm
bằng quyền SHTT.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về các biện pháp biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ bằng quyền SHTT ở Việt Nam hiện nay, đề tài tập trung nghiên cứu với
các mục đích:



5

Thứ nhất, tìm hiểu các quy định pháp luật về các biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ bằng quyền SHTT ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, đánh giá tình hình thực tiễn hiện nay (ưu điểm, nhược điểm, hạn chế
phát sinh, lợi ích của các bên).
Thứ ba, đưa ra đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
4. Câu hỏi nghiên cứu:
Những nội dung cần nghiên cứu:
- Pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về các biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ?
- Trong các biện pháp bảo đảm, biện pháp nào phù hợp cho tài sản là đối
tượng quyền SHTT?
- Pháp luật quy định như thế nào về hợp đồng thế chấp quyền SHTT?
- Những rủi ro có thể xảy ra đối với doanh nghiệp (bên có tài sản thế chấp),
tổ chức tín dụng (bên nhận tài sản thế chấp)?
- Nếu phát huy giá trị của quyền sở hữu trí tuệ và được công nhận phổ biến là
một dạng của tài sản thế chấp, chủ doanh nghiệp được lợi gì?
- Từ những vướng mắc, pháp luật cần quy định gì để đối tượng quyền SHTT
trở thành loại tài sản bảo đảm thông dụng, việc thế chấp quyền SHTT có trở nên
phổ biến trong tương lai không?
- Pháp luật cần sửa đổi, bổ sung như thế nào để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho các bên tham gia vào giao dịch dân sự có bảo đảm bằng quyền SHTT?
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung các vấn đề sau đây:
- Nghiên cứu quy định pháp luật về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ bằng quyền SHTT, tập trung nghiên cứu về thế chấp quyền SHTT.

- Đánh giá ưu điểm, hạn chế quy định pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ bằng quyền SHTT.


6

- Kiến nghị, đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ bằng quyền SHTT.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về biện pháp bảo
đảm bằng quyền SHTT theo quy định của BLDS 2015, Luật SHTT 2005, sửa đổi,
bổ sung năm 2009 và các văn bản pháp luật liên quan khác.
Quyền SHTT nghiên cứu trong luận văn thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp.
Luận văn phân tích, đánh giá chủ yếu dựa trên lý luận, cơ sở pháp lý theo
quy định pháp luật Việt Nam hiện hành.
Trong các biện pháp do pháp luật quy định, căn cứ vào tính chất, đặc trưng
của biện pháp thế chấp do pháp luật quy định, luận văn sẽ nghiên cứu về thế chấp
quyền SHTT thông qua phân tích những đặc điểm của biện pháp thế chấp phù hợp
với tài sản là đối tượng quyền SHTT và đưa ra đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện
quy định pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng quyền SHTT.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài này, tác giả đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu:
- Phương pháp lịch sử được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu về các biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ qua các giai đoạn phát triển của BLDS;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích các vấn đề
liên quan đến bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng quyền SHTT, chỉ ra biện pháp nào
phù hợp với đối tượng tài sản là quyền SHTT. Vì đây là một vấn đề mới chưa được
quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật do đó cần phân tích các quy

định thực tại, tìm ra mối liên hệ giữa các chủ thể để tổng hợp các quan điểm nhằm
giải quyết các vấn đề đặt ra trong phần câu hỏi giả thuyết.
- Phương pháp thống kê, so sánh được sử dụng phần nghiên cứu nhằm khẳng
định vị trí, vai trò của quyền SHTT trong các giao dịch bảo đảm và việc sử dụng
quyền SHTT như là một đối tượng tài sản trong các giao dịch có gì khác so với loại


7

tài sản thông thường. Từ đó đánh giá vai trò của giao dịch này trong doanh nghiệp
và thị trường., tìm ra những ưu điểm, nhược điểm, hạn chế về bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ bằng quyền SHTT, đưa ra đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
7. Ý nghĩa nghiên cứu
7.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài “Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng quyền sở hữu trí tuệ
trong pháp luật Việt Nam” được nghiên cứu dựa trên những quy định pháp luật
hiện hành. Mặc dù BLDS 2015 cho phép các đối tượng quyền SHTT tài sản bảo
đảm, tuy nhiên Luật SHTT năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009 không đề cập tới
các đối tượng quyền SHTT được thế chấp mà chỉ quy định việc quyền chuyển
nhượng, quyền định đoạt và quyền chuyển giao, do đó việc nghiên cứu nhằm áp
dụng phổ biến các đối tượng quyền SHTT là tài sản bảo đảm cần hoàn thiện những
quy định gì để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho chủ sở hữu, đặc biệt là các
doanh nghiệp.
Nội dung của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công
tác nghiên cứu, giảng dạy luật học tại các cơ sở đào tạo luật ở nước ta, đặc biệt đối
với chuyên ngành luật dân sự.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn sẽ tìm hiểu, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật về hợp đồng
thế chấp tài sản là quyền SHTT nhằm tìm ra ưu điểm đem lại quyền lợi cho doanh
nghiệp, tổ chức tín dụng và cơ quan quản lý nhà nước. Đưa ra đề xuất, kiến nghị

hoàn thiện quy định pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng quyền SHTT.
Những phân tích ứng dụng vào thực tiễn do tác giả nghiên cứu phần nào có ý
nghĩa thiết thực cho các nhà làm luật hoặc ứng dụng đối với các doanh nghiệp về
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng quyền SHTT. Tác giả tin rằng những kiến nghị
khoa học trong luận văn được sử dụng là nguồn để tham khảo trong công tác xây
dựng pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng quyền SHTT. Đây cũng là lĩnh
vực cần thiết bởi lẽ tri thức, sự sáng tạo của con người ngày càng phát triển không
giới hạn, nếu không nâng tầm quan trọng của quyền SHTT sẽ không tạo một hành


8

lang pháp lý bảo vệ cho công dân. Nội dung luận văn sẽ góp phần hỗ trợ thông tin,
kiến thức để các chuyên gia tham khảo và hoàn thiện các công trình nghiên cứu tiến
bộ hơn.
8. Kết cấu luận văn
Kết cấu luận văn “Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng quyền sở hữu trí
tuệ” bao gồm các nội dung sau:
Mở đầu;
Chương 1: Tổng quan về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng quyền sở hữu trí
tuệ;
Chương 2: Quy định pháp luật về thế chấp tài sản là quyền sở hữu trí tuệ và
kiến nghị, hoàn thiện pháp luật;
Kết luận.


9

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ

BẰNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
1.1. Khái quát về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
1.1.1. Khái niệm của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Giao dịch dân sự, kinh doanh, thương mại là những hoạt động tất yếu,
thường xuyên và phổ biến trong đời sống kinh tế, xã hội. Nhằm đảm bảo việc thực
hiện nghĩa vụ của các bên trong giao kết, pháp luật quy định các biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ, việc bảo đảm gắn với trách nhiệm dân sự về tiền, tài sản và việc
trả nợ, nên trong nhiều trường hợp còn được gọi là bảo đảm nghĩa vụ tài chính, bảo
đảm nghĩa vụ tài sản hay bảo đảm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng.
Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng nói chung lần đầu tiên quy định
trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, sau đó BLDS 1995 lần đầu tiên quy
định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và được điều chỉnh, bổ sung,
bãi bỏ một số điều khoản trong BLDS 2005 và BLDS 2015 để áp dụng phù hợp với
tình hình thực tiễn theo từng giai đoạn. Biện pháp bảo đảm được áp dụng rộng rãi,
phổ biến trong kinh doanh, đầu tư và các giao dịch dân sự khác (mua bán, vay, thuê,
mướn, dịch vụ, đại lý, đấu giá, gửi giữ, chuyển nhượng,…). Ngoài quy định chủ yếu
trong BLDS 2015 còn được đề cập trong các đạo luật khác như Luật doanh nghiệp
năm 2014, Luật đất đai năm 2013, Luật nhà ở năm 2014, Luật kinh doanh bất động
sản 2014, Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2015,… Các biện pháp bảo đảm thực
hiện hợp đồng tuy chỉ là hợp đồng phụ nhưng trong nhiều trường hợp lại đóng vai
trò quan trọng hơn cả hợp đồng chính bởi lẽ việc bảo đảm có thể gây ra trường hợp
không thực hiện nghĩa vụ nếu như hợp đồng phụ đó vô hiệu, các bên có thể bị ảnh
hưởng hậu quả pháp lý do hợp đồng phụ đó quy định.
Như vậy, có thể hiểu bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là việc các bên thoả thuận
áp dụng biện pháp dự phòng để bảo đảm lợi ích của bên có quyền bằng cách cho
phép bên có quyền được xử lý những tài sản thuộc sở hữu của bên có nghĩa vụ để
bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ chính. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa


10


vụ sẽ nâng cao ý thức thực hiện nghĩa vụ đúng và đầy đủ của bên có nghĩa vụ. Bên
cạnh đó, các biện pháp này cũng giúp cho bên có quyền bảo vệ quyền và lợi ích của
mình trong các giao dịch. Theo đó, khi phát sinh các tranh chấp trong quá trình thực
hiện nghĩa vụ, để bảo đảm lợi ích cho các bên tham gia giao kết và chủ thể khác có
liên quan thì các biện pháp bảo đảm là cơ sở để các bên căn cứ thực hiện việc giải
quyết hậu quả khi xảy ra tranh chấp,
Chủ thể của biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Chủ thể của giao dịch bảo đảm bao gồm bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm.
Bên bảo đảm là bên dùng tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc bằng việc thực
hiện công việc nhất định để cam kết trước bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ
chính. Bên nhận bảo đảm là bên chấp nhận sự cam kết của bên kia về việc bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản hoặc bằng việc thực hiện công việc nhất định. Như
vậy bên bảo nhận bảo đảm là bên có quyền trong quan hệ bảo đảm.
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp chỉ có hai chủ thể trong giao dịch bảo
đảm. Đối với biện pháp bảo lãnh có ba chủ thể gồm bên bảo lãnh, bên nhận bảo
lãnh và bên được bảo lãnh. Trong trường hợp này, bên bảo lãnh không còn là bên
buộc phải thực hiện nghĩa vụ chính mà sẽ trở thành người thứ ba thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên được bảo lãnh (bên phải thực hiện nghĩa vụ) trước bên nhận bảo lãnh
(bên có quyền và nhận lợi ích của giao dịch).
Đối tượng của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Giao dịch dân sự có bảo đảm sẽ có hai quan hệ pháp luật: Quan hệ nghĩa vụ
chính và quan hệ bảo đảm cho quan hệ nghĩa vụ chính. Quan hệ bảo đảm nhằm bảo
đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ chính. Quan hệ bảo đảm có thể dựa trên sự uy tín
của cá nhân, tổ chức hoặc việc thực hiện một công việc do các bên thoả thuận hoặc
dựa trên tài sản để bảo đảm. Trong các biện pháp đa phần sử dụng tài sản làm đối
tượng bảo đảm, tuy nhiên trong một số trường hợp không sử dụng tài sản làm công
cụ bảo đảm như biện pháp tín chấp sử dụng uy tín của bên bảo đảm cho bên được
bảo đảm vay một khoản tiền hoặc biện pháp bảo lãnh (trừ bảo lãnh bằng tài sản)



11

được áp dụng khi cam kết thực hiện một công việc nào đó của bên bảo lãnh thay
cho bên được bảo lãnh.
1.1.2. Đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Căn cứ vào tính chất, nội dung quy định và điều kiện mà từng biện pháp có
những đặc trưng riêng biệt, tuy nhiên các biện pháp vẫn có những đặc điểm chung
như sau:
Thứ nhất, các biện pháp được xác lập phải gắn liền với nghĩa vụ chính. Theo
đúng bản chất của tên gọi các biện pháp này nhằm bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ
đã giao kết trong hợp đồng chính, như vậy chúng không tồn tại độc lập mà nội dung
phải luôn phụ thuộc vào nghĩa vụ chính do các bên xác lập, gọi là nghĩa vụ phụ (gọi
là hợp đồng phụ).
Thứ hai, các biện pháp được xác lập nhằm đảm bảo trách nhiệm của các bên
khi tham gia giao dịch dân sự. Theo tinh thần của pháp luật, việc thoả thuận xác lập
các biện pháp bảo đảm không nhằm mục đích chính là răn đe mà nhằm tạo sự trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ của một hoặc các bên khi tham gia giao kết. Các bên có ý
thức bảo vệ uy tín, có trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ để không xảy ra hậu quả
pháp lý, phù hợp áp dụng đối với các hợp đồng có giá trị lớn. .
Thứ ba, các biện pháp được xác lập bởi những lợi ích vật chất, trong thời
buổi kinh tế phát triển, không thể dùng hoàn toàn quyền nhân thân hoặc uy tín của
các bên mà phải dùng lợi ích vật chất để bảo đảm, tức là dùng tài sản hoặc buộc
thực hiện một công việc để bảo đảm cho nghĩa vụ chính, mang lại lợi ích nhất định
cho các bên dù là vật chất hay phi vật chất.
Thứ tư, phạm vi bảo đảm của các biện pháp thông thường không vượt quá
phạm vi nghĩa vụ đã được xác định trong nội dung quan hệ nghĩa vụ chính. Căn cứ
theo Khoản 1 Điều 293, BLDS 2015 quy định việc thoả thuận bảo đảm có thể bảo
đảm cho một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ, nếu không thoả thuận thì nghĩa vụ được
bảo đảm toàn bộ. Pháp luật không cấm việc giá trị của các biện pháp bảo đảm lớn

hơn nghĩa vụ chính, tuy vậy việc cấm này cũng không cần thiết bởi lẽ nếu giá trị của


12

đối tượng bảo đảm có lớn hơn giá trị của nghĩa vụ chính thì khi thực hiện hợp đồng,
các bên cũng chỉ thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi được xác định.
Thứ năm, các biện pháp được áp dụng khi xảy ra vi phạm nghĩa vụ. Nếu các
bên hoàn thành nghĩa vụ chính thì biện pháp bảo đảm chấm dứt. Nhưng nếu xảy ra
các trường hợp thuộc quy định tại Điều 299 BLDS 2015 thì biện pháp bảo đảm
được chính thức áp dụng, tài sản bảo đảm sẽ được xử lý để bảo vệ cho quyền và lợi
ích vật chất cho các bên. Do đó khi khi giao kết hợp đồng, các bên phải mang tính
tự nguyện, tự giác, trách nhiệm cao để hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ đã giao kết.
Thứ sáu, các bên có thể thoả thuận nhằm lựa chọn một trong số các biện
pháp bảo đảm để áp dụng, tuy nhiên, trong một số trường hợp chỉ được lựa chọn
một hoặc một số biện pháp để phù hợp với giao dịch chính hoặc phù hợp tính chất
của biện pháp do pháp luật quy định. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định một số
trường hợp không được phép áp dụng biện pháp bảo đảm, vì thế việc lựa chọn do
thoả thuận hay tuân theo quy định của pháp luật thì các bên cũng phải tìm hiểu cụ
thể, rõ ràng để áp dụng phù hợp. Việc lựa chọn dựa trên sự thoả thuận, tự nguyện
của các bên, đảm bảo không vi phạm điều cấm của luật, không trái với đạo đức xã
hội, sự lựa chọn có thể bị hạn chế trong các trường hợp ảnh hưởng đến quốc phòng,
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội và sức khoẻ của cộng đồng
(Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013).
Từ khái niệm và những đặc điểm chung của các biện pháp bảo đảm, ta thấy
các biện pháp bảo đảm là một loại “chế tài” vì tạo sự ràng buộc các bên thực hiện
nghĩa vụ của nhau. Các bên có thể tự thoả thuận áp dụng các biện pháp theo quy
định của pháp luật hoặc nếu không thoả thuận thì có thể yêu cầu cơ quan nhà nước
có thẩm quyền để bảo đảm quyền và lợi ích của các bên.
1.1.3. Phân loại các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

BLDS 2015 quy định có 9 biện pháp bảo thực hiện nghĩa vụ là cầm cố, thế
chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu, bảo lãnh, tín chấp và cầm
giữa tài sản. Có thể phân loại các biện pháp này thành hai nhóm như sau:


13

- Nhóm biện pháp bảo đảm được xác lập theo quy định của luật, không dựa
trên sự thoả thuận là biện pháp cầm giữ tài sản.
Cầm giữ tài sản đã xuất hiện tại Điều 416 BLDS 2005 bảo đảm cho thực
hiện hợp đồng dân sự trong hợp đồng song vụ, không được quy định là biện pháp
bảo đảm, do đó đây là biện pháp mới được quy định tại BLDS 2015. Căn cứ theo
Điều 346, BLDS 2015, cầm giữ tài sản có những đặc điểm như không được xác lập
dựa trên thoả thuận; tài sản trong quan hệ cầm giữ là đối tượng của hợp đồng song
vụ; bên có quyền đang nắm giữ hợp pháp tài sản và phát sinh trong trường hợp bên
có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ2. Pháp luật không
quy định trong quan hệ cầm giữ, tài sản bảo đảm thuộc quyền sở hữu của bên có
nghĩa vụ nhưng bên có quyền cầm giữ phải được xác định là người nắm giữ hợp
pháp tài sản là đối tượng của hợp đồng song vụ3.
- Nhóm biện pháp bảo đảm được xác lập dựa trên sự thoả thuận gồm 8 biện
pháp còn lại. Trong nhóm này gồm 02 nhóm nhỏ với tính chất bảo đảm khác nhau
là nhóm biện pháp bảo đảm bằng tài sản hay còn gọi là “đối vật” (cầm cố, thế chấp,
đặt cọc, ký cược, ký quỹ và bảo lưu quyền sở hữu) và biện pháp bảo đảm không
bằng tài sản hay còn gọi là “đối nhân” (bảo lãnh và tín chấp).
Cầm cố tài sản là việc bên cầm cố giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình
cho bên nhận cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (Điều 309 BLDS 2015). Tài
sản cầm cố bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Việc cầm cố phải thực
hiện chuyển giao tài sản, tuy nhiên cũng có trường hợp chỉ giao giấy tờ về tài sản
còn tài sản do bên thứ ba giữ như tiền gửi đang do ngân hàng giữ4.
Thế chấp tài sản là việc bên thế chấp dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để

bảo đảm và không giao tài sản cho bên nhận thế chấp (Điều 317 BLDS 2015). Tài
sản thế chấp bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Dựa vào khái niệm
Xem thêm Hồ Quang Huy, “Thực tiễn thi hành một số quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
trong
BLDS
năm
2015”,
đăng ngày 08/11/2018, truy cập ngày 25/7/2019.
3
Xem thêm bài viết “Bàn về cầm giữ tài sản – một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ” của
Phùng Trung Tập, Đại học Luật Hà Nội, đăng trên Tạp chí kiểm sát số 9/2018.
4
Trương Thanh Đức, 9 biện pháp bảo đảm nghĩa vụ hợp đồng, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2017, mục 4.1, tr.69.
2


14

cho thấy cầm cố và thế chấp đều là sử dụng tài sản để bảo đảm cho nghĩa vụ chính
nào đó, tuy nhiên, hai biện pháp có sự khác nhau ở việc có hoặc không có vấn đề
chuyển giao tài sản cho bên kia. Việc có hay không việc chuyển giao sẽ dẫn đến
việc giao kết hợp đồng khác nhau và xử lý tài sản bảo đảm khác nhau.
Đặt cọc là việc bên đặt cọc giao cho bên nhận đặt cọc một khoản tài sản
trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng (Điều 328 BLDS
2015). Tài sản đặt cọc gồm tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác.
Điểm cơ bản mà biện pháp đặt cọc khác với các biện pháp còn lại ngoài việc thực
hiện hợp đồng chính là nhằm bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng. Tài sản đặt cọc
cũng không bao gồm quyền tài sản, giấy tờ có giá và bất động sản, còn vật là động
sản cũng không phải vật nào cũng được mang ra để đặt cọc mà giới hạn lại một số

động sản.
Ký cược là việc bên thuê tài sản là động sản giao cho bên cho thuê tài sản ký
cược trong một thời hạn để bảo đảm việc trả lại tài sản thuê (Điều 329 BLDS 2015).
Tài sản ký cược gồm tiền hoặc kim khí, đá quý hoặc vật có giá trị khác, không gồm
quyền tài sản, giấy tờ có giá và bất động sản. Theo khái niệm, ký cược chỉ áp dụng
đối với các hợp đồng thuê động sản nhằm bảo đảm trả lại tài sản thuê, đồng nghĩa
với việc đối với các hợp đồng thuê khác không phải là động sản sẽ không được áp
dụng với biện pháp ký cược như hợp đồng thuê bất động sản.
Ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ gửi tài sản vào tài khoản phong toả tại một tổ
chức tín dụng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ (Điều 330 BLDS 2015). Tài sản
ký quỹ gồm tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá, không gồm động sản
(trừ kim khí quý, đá quý), quyền tài sản và bất động sản.
Bảo lưu quyền sở hữu là việc thực hiện bảo lưu quyền sở hữu tài sản của bên
bán trong hợp đồng mua bán cho đến khi nghĩa vụ thanh toán được thực hiện đầy đủ
(Điều 331 BLDS 2015). Trước đây, bảo lưu quyền sở hữu được quy định tại Điều
457 BLDS 1999 và Điều 461 BLDS 2005 được áp dụng để bảo đảm cho hợp đồng
mua trả chậm hoặc trả dần mà không được quy định chung với các biện pháp khác
như BLDS 2015. Theo BLDS 2015 quy định chung các biện pháp đều là biện pháp


×