Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.02 KB, 36 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
CỦA NHTM
1.1 Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế
quốc dân
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại, trong đó
NHTM ( bên cho vay ) thoả thuận chuyển giao tài sản ( tiền hoặc hiện vật ) cho
khách hàng ( bên đi vay ) sử dụng trong một thời gian nhất định, khi đến hạn thanh
toán, bên đi vay có trách nhiệm vô điều kiện trong hoàn trả gốc ban đầu và trả
thêm phần lãi cho bên cho vay. Hoạt động tín dụng là hoạt động tạo phần lớn lợi
nhuận cho ngân hàng. Các khoản thu của hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn
hoặc lớn nhất trong các hoạt động của ngân hàng. Hình thức tín dụng truyền thống
của ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn có đảm bảo bằng tài sản, giúp
khách hàng mua hàng hoá, nguyên nhiên vật liệu, sau đó mở rộng thành nhiều hình
thức khác nhau như cho vay thế chấp bằng bất động sản, bằng các chứng khoán,
bằng giấy tờ lưu kho hoặc không cần thế chấp. Tuy vậy, hoạt động tín dụng phải
đảm bảo một số điều kiện của môth hợp đồng tín dụng là:
Thứ nhất, thời hạn, lãi suất và hạn mức hoàn trả của hợp đồng. Sau khoảng
thời gian ghi trong hợp đồng người vay cần phải hoàn trả vốn và lãi cho ngân hàng.
Thứ hai, vốn vay phải đảm bảo được sử dụng đúng mục đích. Khoản vay
phải dựa trên phương án sản xuất kinh doanh nhằm phòng tránh rủi ro đạo đức
trong quá trình giải ngân.
Thứ ba, vốn vay phải được đảm bảo bằng tài sản tương đương. Tài sản đảm
bảo có thể là: vốn vay ngân hàng, tài sản cầm cố hoặc thế chấp, bảo lãnh…
1.1.2. Phân loại tín dụng
Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tuỳ theo yêu cầu của khách hàng
và mục tiêu quản lý của ngân hàng.
1.1.2.1 Phân loại theo thời gian
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian
liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của tín dụng cũng như khả năng
hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân thành:


_ Tín dụng ngắn hạn : từ 12 tháng trở xuống;
_ Tín dụng trung hạn: từ 1 năm đến 5 năm;
_ Tín dụng dài hạn : trên 5 năm.
1.1.2.2. Phân loại theo hình thức
Gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh, và cho thuê.
_ Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng
tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở
hữu một thương phiếu chưa đến hạn. Ngân hàng ứng trước tiền cho người bán
nhưng thực chất là thay thế người mua trả tiền trước cho người bán.
_ Bảo lãnh là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết thực hiện
các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù ngân hàng không trực tiếp
xuất tiền ra nhưng ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu
lợi.
_ Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng
phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoản thời gian xác định.
_ Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo
những thoả thuận nhất định. Sau thời gian xác định khách hàng phải hoàn trả cả
gốc lẫn lãi cho ngân hàng.
1.1.2.3. Phân loại theo tài sản đảm bảo
Loại này được phân chia thành tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của chính
khách hàng, có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản. Cam kết đảm bảo là cam
kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản mà mình đang sở hữu hoặc sử
dụng hoặc khả năng trả nợ của người thứ ba để trả nợ cho ngân hàng. Tín dụng dựa
trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải kí hợp đồng đảm bảo.
1.1.2.4. Phân loại tín dụng theo rủi ro
Theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để
phân loại rủi ro. Thí dụ như tín dụng lành mạnh, tín dụng có vấn đề, nợ quá hạn…
1.1.2.5. Phân loại khác
Theo ngành kinh tế ( công, nông nghiệp…)
Theo đối tượng tín dụng ( tài sản lưu động, tài sản cố định )

Theo mục đích ( sản xuất, tiêu dùng… )
1.1.3. Nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.3.1 Nghiệp vụ huy động vốn
Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên mà ngân hàng
thực hiện là mở các tài khoản tiền gửi. Nhìn vào bảng cân đối kế toán của các ngân
hàng ta thấy: Vốn tự có chiếm tỷ trọng rất nhỏ, chủ yếu là vốn huy động. Hoạt
động tín dụng dựa vào nguồn tiền huy động được là chủ yếu. Nghiệp vụ huy động
vốn bao gồm: nghiệp vụ nhận tiền gửi, nghiệp vụ đi vay, phát hành kỳ phiếu, trái
phiếu…
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM. Khách hàng gửi tiền vao
ngân hàng vì nhiều mục đích khác nhau như an toàn, sinh lời, thanh khoản, tuỳ
theo mục tiêu của khách hàng. Dịch vụ thanh toán của ngân hàng đảm bảo cho hoạt
động thanh toán của doanh nghiệp nhanh và chính xác, tiết kiệm chi phí. Tiền gửi
chiếm tỷ trọng lớn khoảng 50-80% trong tổng nguồn vốn huy động được, có ngân
hàng tỷ lệ này tới 90%. Tiền gửi là nguồn tiền có chi phí rẻ nhưng không ổn định,
ngân hàng không chủ động được về số lượng và kỳ hạn.
Trong các trường hợp như ngân hàng không đủ dự trữ bắt buộc, nhu cầu vay
trong nền kinh tế tăng khi khối lượng tiền gửi không đủ,…ngân hàng sẽ đi vay.
Như vậy ngân hàng có thể chủ động về số lượng và thời hạn tuy lãi suất phải trả
thường cao hơn lãi suất tiền gửi. Ngân hàng có thể vay từ ngân hàng Nhà nước, các
tổ chức tín dụng khác, hay thông qua phát hành trái phiếu, kỳ phiếu ra công chúng.
1.1.3.2. Nghiệp vụ tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động khá đa dạng, là một loại kinh doanh tiền tệ
phức tạp. Tính phức tạp của nó chính là đối tượng kinh doanh, tức là tiền tệ, ở đây
tiền tệ đã bị tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng khi ngân hàng cho vay:
Chỉ chuyển nhượng quyền sử dụng tư bản trong một thời gian nhất định mà không
chuyển nhượng quyền sở hữu giữa người đi vay và người cho vay. Đồng thời tín
dụng được xây dựng trên nguyên tắc hoàn trả: người đi vay phải cam kết trả gốc và
lãi sau một khoảng thời gian nhất định nhằm đảm bảo khả năng an toàn và sinh lời.
*Quy trình tín dụng gồm 3 giai đoạn khép kín:

Giai đoạn 1 : Phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay, tại đây giá trị vốn tín
dụng được chuyển sang người đi vay.
Giai đoạn 2 : Sử dụng vốn trong quá trình sản xuất, người đi vay sau khi nhận
được giá trị vốn tín dụng được quyền sử dụng giá trị đó để thoả mãn nhu cầu sản
xuất kinh doanh của mình.
Giai đoạn 3 : Hoàn trả tín dụng, đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn
của tín dụng. Sau khi đã hoàn thành một chu kỳ sản xuất trở về trạng thái tiền tệ,
vốn tín dụng được người đi vay hoàn trả cho người cho vay kèm theo một phần lãi
như đã thoả thuận.
1.1.3.3. Nghiệp vụ thanh toán
Các doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng với mục đích chủ yếu là hưởng các
dịch vụ thanh toán từ ngân hàng. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh
toán không dùng tiền mặt, khách hàng chỉ cần viết séc hoặc uỷ nhiệm chi…sau đó
người hưởng thụ mang giấy đến ngân hàng hoặc ngân hàng chi hộ để nhận
tiền.Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều hình thức thanh toán
được phát triển như: thanh toán quốc tế ( L/C ), thẻ điện tử, máy ATM…Dịch vụ
thanh toán qua ngân hàng giúp khách hàng thanh toán nhanh gọn, chính xác, giảm
chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn…
1.1.3.4. Nghiệp vụ khác
Ngoài 3 nghiệp vụ nói trên, NHTM còn có một số các nghiệp vụ khác như:
cung cấp dịch vụ môi giới, uỷ thác, tư vấn, đầu tư chứng khoán…những lĩnh vực
này góp phần tạo thêm uy tín và niềm tin của ngân hàng đối với các khách hàng.
1.1.4. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế
Các NHTM hoạt động độc lập nhưng lại liên kết chặt chẽ hình thành hệ thống
và ảnh hưởng qua lại với nhau. Sức mạnh của NHTM không phải là sức mạnh của
bản thân nó mà là sức mạnh của xã hội. Hệ thống NHTM là hệ thống huyết mạch
của nền kinh tế, không chỉ là nơi cung cấp tín dụng và dịch vụ tài chính – ngân
hàng mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế, hệ thống NHTM cũng ngày càng phát triển cả về quy
mô và số lượng, khẳng định vai trò của một trung gian tài chính không thể thiếu

trong hệ thống tài chính quốc gia. Đồng thời khẳng định vai trò chủ yếu của tín
dụng Ngân hàng đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và đối với sự tồn
tại và phát triển của bản thân các ngân hàng nói riêng.
* Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với bản thân các NHTM
Cấp tín dụng là một hoạt động chủ yếu của NHTM, đây là nguồn thu chủ yếu
trong tổng nguồn thu của Ngân hàng, chiếm từ 60 – 70 %. Do mục tiêu sinh lời,
việc thực hiện chức năng tập trung huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để tiến
hành cho vay luôn được các Ngân hàng chú trọng. Việc duy trì và mở rộng tín
dụng mang một ý nghĩa sống còn đối với các NHTM. Hoạt động này được thực
hiện hiệu quả sẽ tạo điều kiện để ngân hàng đẩy mạnh hoạt động tập trung vốn, mở
rộng việc thực hiện chức năng thanh toán. Do vậy, bên cạnh việc mở rộng hoạt
động tín dụng các ngân hàng luôn quan tâm tới việc nâng cao chất lượng tín dụng.
Có thể nói rằng, hoạt động tín dụng là hoạt động quyết định sự tồn tại và phát triển
của ngân hàng.
* Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng góp phần giảm hệ số vốn nhàn rỗi trong lưu
thông và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Tín dụng ngân hàng là trung gian để điền tiết nguồn vốn từ bộ phận nhàn rỗi
đến bộ phận thiếu vốn với sự tương thích về số lượng một cách linh hoạt, giúp
giảm số tiền nhàn rỗi trong lưu thông. Trong cơ chế thị trường ai cũng muốn đồng
tiền của mình sinh lời, do đó họ sẵn sàng cho ngân hàng vay để thu lợi. Như vậy,
tín dụng ngân hàng đã góp phần nâng cao thu nhập cho người gửi tiết kiệm.
Thứ hai, chính phủ sử dụng tín dụng ngân hàng như một công cụ điều tiết vĩ
mô nền kinh tế, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.
Thông qua kiểm soát khối lượng tín dụng, định hướng đầu tư cùng với lãi suất
tín dụng giúp chính phủ điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt và hợp lý, kiềm chế
lạm phát. Tín dụng ngân hàng vừa tập trung vốn đầu tư cho các ngành kinh tế mũi
nhọn, vừa tham gia vào các chương trình chính sách xã hội thực hiện kết hợp tăng
trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy kinh tế tăng trưởng

Trong mọi lĩnh vực sản xuất – kinh doanh - dịch vụ, mọi chu kỳ đều bắt đầu từ
tiền tệ ( T ) và kết thúc bằng T’. Ở đó, T’ = T+t. ( T’>T ) tạo điều kiện để tái mở
rộng hoạt động. Trong chu kỳ này, tăng vòng quay vốn tiền tệ có tác động tích cực
đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Muốn thực hiện điều đó, các chủ thể kinh doanh
cần cải tiến kỹ thuật, hoàn thiện quản lý, tìm kiếm thị trường mới. Đòi hỏi một
lượng vốn lớn và kịp thời. Tín dụng ngân hàng sẽ là nguồn cung ứng vốn cho các
nhu cầu đó. Tuy nhiên, các nhà kinh doanh cần phải tìm ra nhiều biện pháp sử
dụng vốn hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn nhằm trả nợ vay tín dụng đúng hạn
cả gốc và lãi nếu không có thể dẫn tới nguy cơ phá sản. Thực hiện được điều này
trong nền kinh tế thị trường là một cuộc cạnh tranh gay gắt và quyết liệt. Vì thế mà
thúc đẩy sự phát triển ngày càng cao của nền kinh tế hàng hoá.
Thứ tư, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy kinh tế quan
trọng.
Ngày nay, trong quan hệ kinh tế đối ngoại, sự hợp tác bình đẳng cùng có lợi
giữa các nước trên thế giới và trong khu vực đang đựơc thúc đẩy mạnh cả về chiều
rộng và chiều sâu. Trong đó, vốn đầu tư ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập
khẩu hàng hoá đựơc coi là hai lĩnh vực hợp tác thông dụng nhất giữa các nước.
Nhưng thực tế không phải một tổ chức kinh tế nào cũng có đủ vốn để hoạt động.
Thông qua hoạt động tín dụng, các ngân hàng là trợ thủ đắc lực, sẽ cung cấp vốn
cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá, góp phần thúc đẩy quan hệ kinh
tế đối ngoại.
Như vậy, tín dụng ngân hàng có một vai trò hết sức quan trọng đối với nền
kinh tế cũng như đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Để phát
huy vai trò đó, các nước trên thế giới đã sử dụng tín dụng ngân hàng như một công
cụ đắc lực để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên đây là một hoạt động
tiềm ẩn rất nhiều rủi ro khó lường trước. Để tín dụng ngân hàng thực sự phát huy
vai trò của mình, nghiên cứu rủi ro tín dụng và nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín
dụng là một yêu cầu bức thiết.
1.2. Rủi ro tín dụng và các nhân tố dẫn tới rủi ro tín dụng trong hoạt động
kinh doanh của NHTM.

1.2.1. Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của NHTM
1.2.1.1. Rủi ro và phân loại rủi ro
* Khái niệm
Hoạt động ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn mà chúng ta khó có thể
lường trước được. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng rất nhạy cảm và liên quan
đến nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, chịu tác động của nhiều các nhân tố
khác nhau như kinh tế chính trị, xã hội nên có thể gây ra những thiệt hại không nhỏ
cho ngân hàng. Thêm nữa, ngân hàng kinh doanh còn huy động vốn và cho vay ở
rất nhiều các lĩnh vực dịch vụ khác nhau nên có thể nói rủi ro ngân hàng rất đa
dạng. Việc cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau và với các tổ chức tín dụng sẽ
dẫn đến việc cạnh tranh lãi suất cũng là nguyên nhân gây ra rủi ro cho ngân hàng.
Như vậy, rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất khi ngân hàng hoạt động kém hiệu quả
do hệ thống thông tin không đầy đủ, hoạt động có vấn đề hoặc hệ thống kiểm soát
nội bộ chưa hiệu quả. Do đặc thù kinh doanh của ngân hàng nên có rất nhiều loại
rủi ro khác nhau như: rủi ro ngoại hối, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro tín
dụng, rủi ro hoạt động, rủi ro pháp lý…Trong đó, rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn
và phức tạp nhất, có thể gây tác động nặng nề đến các hoạt động khác, thậm chí có
thể đe doạ tới sự tồn tại của các ngân hàng.
* Phân loại rủi ro
Rủi ro của ngân hàng có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau
song đều có bản chất chung đó là khả năng xảy ra những tổn thất cho ngân hàng.
Rủi ro la những tổn thất có thể xảy ra ngoài dự kiến. Rủi ro của ngân hàng gắn liền
với giảm sút thu nhập ngoài dự kiến.
Phân chia rủi ro theo các loại tài sản bao gồm: Rủi ro trong quản lý và kinh
doanh ngân quỹ, rủi ro tín dụng, rủi ro trong quản lý và kinh doanh chứng khoán,
rủi ro trong cho thuê, rủi ro đối với các tài sản khác của ngân hàng.
Phân chia rủi ro theo nguyên nhân – các nhân tố tác động – bao gồm: Rủi ro
do người vay không trả nợ cho ngân hàng, rủi ro do lãi suất thay đổi, rủi ro do tỷ
giá thay đổi, rủi ro do các nguyên nhân khác như mất trộm, cháy, giấy tờ giả…
Phân chia rủi ro phổ biến nhất bao gồm:

+ Rủi ro hối đoái
Rủi ro hối đoái là khả nẵngảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng
khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị trường, tỷ
giá thường xuyên dao động. Sự thay đổi này cùng với trạng thái hối đoái của ngân
hàng tạo ra thu nhập thặng dư hoặc thâm hụt tạm thời. Tuy vậy, có những thay đổi
tỷ giá ngoài dự kiến dẫn đến tổn thất cho ngân hàng.
+ Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân
hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn
và lãi. Khi thực hiện cho vay một khách hàng cụ thể, ngân hàng không dự kiến là
khoản vay đó sẽ có thể bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản vay đó luôn hàm chứa
rui ro. Có một số ý kiến cho rằng theo quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, tỷ lệ
tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến
lược hoạt động nói chung. Chính vì vậy mà khi tổn thất dưới mức tỷ lệ tổn thất dự
kiến, ngân hàng coi đó là một thành công trong quản lý.
+ Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi lãi suất thay đổi
ngoài dự tính. Lãi suất ngân hàng cả bên tài sản và nguồn vốn thường xuyên biến
động với các mức độ khác nhau có thể dẫn đến tổn thất, do đó nó thể hiện rủi ro lỗ
tiềm tàng của một ngân hàng do các biến động của lãi suất. Rủi ro lãi suất có liên
quan chặt chẽ với rủi ro tín dụng và nó có một số hình thức khác nhau như: rủi ro
xác định lại lãi suất, rủi ro tương quan lãi suất…
+ Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản phát sinh chủ yếu từ xu hướng của các ngân hàng là huy
động ngắn hạn cho vay trung và dài hạn. Rủi ro thanh khoản xảy ra do các khoản
huy động luôn phải hoàn trả theo yêu cầu của người gửi tiền. Ví như, trong bất cú
cuộc khủng hoảng nào người gửi tiền cũng sẽ rút tiền của mình ra nhanh hơn việc
người đi vay sẵn sàng trả nợ. Như vậy, rủi ro thanh khoản là khả năng tổn thất
ngoài dự kiến cuả ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá hoặc nhỏ
hơn khả năng thanh khoản dự kiến làm gia tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu

thanh khoản hoặc làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán.
+ Các rủi ro khác
Các loại rủi ro khác là khả năng cướp ngân hàng, nhầm lẫn trong thanh toán,
lỗi công nghệ…
1.2.1.2. Rủi ro tín dụng
* Khái niệm
Không phải tự nhiên mà nhà kinh tế học J.M.Keynes cho rằng “ Nếu bạn mắc
nợ ngân hàng 100 bảng Anh, đó là mối lo của bạn. Nhưng đó là 1 triệu bảng Anh
thì đó là mối lo của ngân hàng ”. Trong quan hệ tín dụng, quyền sử dụng tạm thời
tách rời quyền sở hữu. Ở đây, quyền sở hữu những khoản cho vay không thuộc về
ngân hàng mà thực chất thuộc về những người gửi tiền. Tín dụng phụ thuộc rất
nhiều vào chữ tín của người vay, bao hàm cả năng lực tài chính và sự sẵn sàng trả
tiền của người vay hay không. Việc xác định chính xác khả năng trả nợ thực tế của
khách hàng không phải là một vấn đề đơn giản. Vì vậy trong nghiệp vụ tín dụng
mục đích ngân hàng là bên được đi vay hoàn vốn lại cả gốc và lãi đúng thời hạn đã
thoả thuận.
Tín dụng ngân hàng có mặt trong các giai đoạn của quá trình sản xuất kinh
doanh, tham gia hỗ trợ hoạt động của các doanh nghiệp, nền kinh tế. Trong hoạt
động kinh doanh lại luôn có những kho khăn dự định ban đầu có thể không đạt
được theo ý muốn, đó chính là sự xuất hiên các rủi ro. Do đó bất cứ rủi ro xảy ra
đối với doanh nghiệp nào, lĩnh vực nào cũng ít nhiều gây ra rủi ro cho ngân hàng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động đặc trưng cho ngân hàng và mang lại lợi
nhuận chủ yếu cho ngân hàng, do vậy rủi ro trong hoạt động tín dụng là đặc trưng
nhất và dễ xảy ra nhất bởi lợi nhuận cao luôn đi kèm rủi ro lớn.
Theo quy định tại Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ– NHNN
ngày 22/04/2005 của Thống đốc NHNN,rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng
của TCTD là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của TCTD do
khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình
theo cam kết.

Các ngân hàng coi rủi ro tín dụng là một tất yếu, không thể loại bỏ hoàn toàn
ra khỏi hoạt động của mình. Họ buộc phải chấp nhận sự tồn tại của nó và tìm mọi
phương thức để có thể hạn chế tới mức thấp nhất rủi ro tín dụng. Đặc biệt trong bối
cảnh cả thế giới đang tiến dần tới giai đoạn toàn cầu hoá, các hoạt động của ngân
hàng ngày càng đa dạng và phong phú, các hoạt động tín dụng ngày càng chứa
đựng nhiều rủi ro hơn. Trong bối cảnh đó, thiết lập một phương thức quản trị rủi ro
tín dụng hiệu quả được coi là trọng tâm của các ngân hàng. Mặt khác, các ngân
hàng cũng cần có các biện pháp thật hữu hiệu để hạn chế rủi ro và đáp ứng được sự
kiểm soát quốc tế, các định chuẩn quốc tế đề ra.
* Các hình thức biểu hiện của rủi ro tín dụng
Trong số các khoản vay, đôi khi các NHTM gặp phải một số khoản cho vay
có vấn đề. Đó là những khoản vay mà trong đó thoả thuận hoàn trả có khả năng bị
đổ vỡ, dù hiện tại những khoản vay đó chưa đến kỳ hạn trả nợ gốc và lãi. Nếu
muốn tránh khỏi những thiệt hại bất hợp lý thì cán bộ tín dụng phải xác định khoản
cho vay có vấn đề ngay lập tức, nếu không thì có thể không giải quyết được vấn đề
trước khi tình hình trở nên xấu hơn. Các dấu hiệu này đôi khi không phải có thể
nhận ra ngay trong một thời điểm mà phải sau một quá trình quan sát và nghiên
cứu. Có rất nhiều dấu hiệu để nhận biết khoản vay có vấn đề. Dưới đây là một số
dấu hiệu rủi ro tín dụng:
+ Nhóm 1: Các dấu hiệu liên quan tới mối quan hệ với ngân hàng
- Các hoạt động cho vay:
` Thanh toán chậm các khoản nợ gốc và lãi.
` Thường xuyên yêu cầu ngân hàng cho đáo hạn.
` Yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến.
- Trong quá trình hạch toán, các tài khoản của khách hàng có một số biểu hiện:
` Phát hành séc quá bảo chứng hoặc bị từ chối.
` Sự giảm sút síi dư tài khoản tiền gửi.
` Thường xuyên yêu cầu hỗ trợ nguồn vốn lưu động.
` Không có khả năng thanh toán nợ khi tới hạn.
- Phương thức tài chính:

` Giảm các khoản phải trả và tăng các khaỏan phải thu.
` Các hệ số thanh toán tiến triển theo chiều hướng xấu.
` Có dấu hiệu giảm vốn điều lệ.
+ Nhóm 2: Dấu hiệu liên quan tới việc quản lý khách hàng
- Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành thay đổi liên tục, luôn bất đồng về quan
điểm.
- Quản lý có tính gia đình.
- Các chi phí quản lý bất hợp lý.
+ Nhóm 3: Dấu hiệu liên quan tới vấn đề thương mại:
- Khó khăn trong phát triển sản phẩm,
- Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao.
- Cắt giảm các chi phí sửa chữa, thay thế.
+ Nhóm 4: Dấu hiệu liên quan tới xử lý thông tin kế toán- tài chính:
- Chậm chễ, trì hoãn nộp các báo cáo tài chính
- Kết quả phân tích tài chính cho thấy:
` Khả năng tiến mặt giảm
` Số khách hàng nợ tăng nhanh, thời hạn thanh toán káo dài.
` Làm đẹp bảng cân đối kế toán bằng cách tạo sản phẩm vô hình.
- Các dấu hiệu phi tài chính: vấn đề về đạo đức, kho lưu trữ hàng hoá nhiều
nhưng lạc hậu, hư hỏng…
1.2.2. Các nhân tố dẫn đến rủi ro tín dụng
Có rất nhiều nhân tố dẫn đến rủi ro tín dụng:
1.2.2.1. Các nhân tố khách quan:
Nhóm nhân tố này bao gồm các nhân tố là: môi trường kinh tế, môi trường
pháp lý, môi trường xã hội.
Môi trường kinh tế: Bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng chịu ảnh
hưởng tác động trực tiếp của môi trường kinh tế - xã hội. Về phương diện tổng thể
nền kinh tế ổn định, tăng trưởng lành mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động tín dụng. Khi nền kinh tế ổn định, quá trình sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp tiến hành bình thường, không bị ảnh hưởng của các yếu tố lạm phát,

khủng hoảng sẽ làm khả năng vay nợ và trả nợ vay không bị biến động lớn. Ngược
lại, một nền kinh tế bị suy thoái thì sức mua của người dân bị giảm sút, khả năng
phát triển sản xuất kinh doanh hầu như không có, tất cả những điều đó tác động
xấu đến khả năng thu hồi vốn tín dụng của ngân hàng. Không chỉ giới hạn trong
môi trường kinh tế của một quốc gia mà các biến động về kinh tế tài chính trên thế
giới đều có sự tác động tới hoạt động tín dụng của ngân hàng, nhất là khi quan hệ
kinh tế quốc tế được mở rộng giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Môi trường pháp lý: Là một nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ tới rủi ro tín
dụng. Đó là sự thiếu đồng bộ trong hệ thống các văn bản pháp luật, các biện pháp
thi hành pháp luật và sự tuân thủ không nghiêm chỉnh pháp luật của các chủ thể
tham gia kinh doanh và các ngành có liên quan. Chính nhân tố môi trường này đã
không đảm bảo tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh
nghiệp, không tạo ra tính an toàn cho các hoạt động kinh doanh. Một môi trường
pháp lý không hoàn chỉnh vừa gây khó khăn cho doanh nghiệp và ngân hàng, vừa
tạo khe hở để kẻ xấu lợi dụng gây rủi ro cho cả doanh nghiệp và ngân hàng.
Nhân tố xã hội: Là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng. Tín
dụng là sự vay mượn dựa trên cơ sở lòng tin. Do đó đạo đức xã hội có liên quan tới
rủi ro tín dụng trong trường hợp lợi dụng lòng tin để lừa đảo; hoặc do trình độ dân
trí chưa cao, kém hiểu biết dẫn tới hiểu chưa đùng đắn bản chất của hoạt động
ngân hàng nói chung, hoạt động tín dụng nói riêng, kinh doanh kém hiệu quả gây
tổn thất với ngân hàng, hoặc do sự thay đổi yếu tố tâm lý xã hội cũng có khả năng
hạn chế việc trả nợ của người vay.
Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng chịu tác động của các biến cố như thiên tai,
chiến tranh…không thể lường trước có tác động trực tiếp và ảnh hưởng nghiêm
trọng tới kế hoạch trả nợ vay của người đi vay.
Bên cạnh đó những thay đổi, điều chỉnh về cơ chế, về chính sách kinh tế vĩ
mô…cũng có thể đặt doanh nghiệp vào những tình huống khó khăn có thể kéo theo
nguy cơ thiệt hại cho ngân hàng.
1.2.2.2. Các nhân tố chủ quan:
* Các nhân tố thuộc về khách hàng:

Trong quan hệ tín dụng ngân hàng luôn có hai chủ thể là ngân khách hàng và
NHTM. Theo thống kê cho thấy, khả năng xảy ra rủi ro tín dụng xuất phát từ khách
hàng là phổ biến nhất bởi khách hàng là người trực tiếp sử dụng vốn vay. Nhân tố
này rất đa dạng nhưng có thể phân chia thành hai trường hợp chính sau đây:
+ Do khách hàng kinh doanh thua lỗ dẫn đến mất khả năng trả nợ. Nguyên
nhân có thể do năng lực quản lý kinh doanh kém, sử dụng vốn vay sai mục đích…
Hơn nữa nếu tỷ lệ vốn tự có trong tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp thấp, chủ
yếu là vốn vay ngân hàng thì doanh nghiệp sẽ lao theo những cơ hội đầy mạo
hiểm, đến khi gặp rủi ro thì ngân hàng phải gánh chịu.
+ Do khách hàng không tuân thủ các quy định, cố tình lừa đảo để chiếm
dụng vốn ngân hàng. Nhiều trường hợp khách hàng chủ ý cung cấp các báo cáo tài
chính sai lệch, làm cho ngân hàng đánh giá sai về năng lực tài chính của họ; thậm

×