Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.74 KB, 31 trang )

CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là tổ chức tiền gửi đóng vai trò quan trọng trong việc
khơi nguồn vốn đến những người vay tiền có các cơ hội đầu tư sinh lời, đảm bảo
cho nền kinh tế vận động nhịp nhàng hữu hiệu. Để hiểu được hoạt động của ngân
hàng trước hết cần xem xét “Bản quyết toán tài sản của ngân hàng” –đó là bản kê
các tài sản có và tài sản nợ của ngân hàng và đặc trưng của nó là:
“Tổng tài sản có =Tài sản nợ +Vốn”
Tài sản nợ bao gồm:
*Các khoản tiền gửi có thể phát séc: là loại tiền gửi có thể được thanh toán
theo yêu cầu.
*Các khoản tiền gửi phi giao dịch: bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi kỳ
hạn, đây có thể nói là nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng, những người sở
hữu chúng không được quyền phát séc và cũng không được hưởng nhiều dịch vụ
như tiền gửi phát séc, nhưng được hưởng mức lãi suất cao hơn.
*Các khoản tiền ngân hàng đi vay từ NHNN, từ dân cư, từ các doanh nghiệp,
từ các tổ chức tín dụng khác, vay Chính phủ và vay nước ngoài…
Vốn của ngân hàng là của cải thực có của ngân hàng đó. Vốn hình thành ban
đầu của ngân hàng chính là vốn do NSNN cấp (đối với NNTM thuộc sở hữu của
Nhà nước); hoặc góp vốn cổ phần (đối với NHTM cổ phần)… Trong quá trình hoạt
động, ngân hàng gia tăng vốn theo nhiều phương thức khác nhau như: phát hành cổ
phiếu, lợi nhuận giữ lại, thặng dư vốn, dự phòng rủi ro.
Khi nói tới hoạt động sinh lời của NHTM là nói tới tài sản có của ngân hàng.
Tài sản có là kết quả của việc sử dụng vốn của ngân hàng đó, nhờ chúng mà ngân
hàng thu được tiền trả lãi, tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Các tài sản có bao gồm:
*Tiền dự trữ: bao gồm tiền gửi ở NHNN và tiền mặt mà ngân hàng cất giữ.
*Tiền mặt: bao gồm tiền mặt trong quá trình thu – đó là các tờ séc được phát
hành bởi các ngân hàng A được gửi vào ngân hàng B nhưng chưa tới B, nó sẽ được
coi như tài sản có của B; và tiền gửi ở các ngân hàng khác.
*Các chứng khoán: đối với các NHTM, các chứng khoán chỉ bao gồm những


công cụ vay nợ, tuy nhiên chúng là nguồn thu nhập quan trọng của ngân hàng.
*Tiền cho vay: đây là loại tài sản có mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân
hàng và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tài sản có của ngân hàng. Tiền cho vay là
một món nợ đối với cá nhân hoặc doanh nghiệp hoặc tổ chức tín dụng khác. Tiền
cho vay kém lỏng hơn và rủi ro vỡ nợ so với các loại tài sản có khác vì chúng
không thể chuyển thành tiền mặt trước khi các khoản cho vay đến hạn, do vậy ngân
hàng thu được lợi tức cao nhất nhờ vào chúng.
*Tài sản có khác: bao gồm các TSCĐ như nhà cửa, trang thiết bị của ngân
hàng v.v
Như vậy, cho vay là hoạt động quan trọng nhất trong việc thu lợi nhuận cho
ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động này không thuộc về độc quyền của ngân hàng,
hiện nay, các ngân hàng cũng đang phải đối mặt với sự cạnh tranh của các tổ chức
tài chính khách như các công ty chứng khoán, các công ty bảo hiểm… Trong thời
gian vừa qua, cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ mà bắt nguồn từ sự sụp đổ của một số
tổ chức tài chính lớn của Mỹ, câu hỏi được đặt ra cho mỗi chúng ta là phải hiểu thế
nào về hoạt động và chất lượng cho vay của các NHTM.
1.1.1. Khái niệm cho vay
Theo quan điểm của Frederici S.Mishkin trong cuốn “Tiền tệ, ngân hàng và
thị trường tài chính”, các ngân hàng thu lợi nhuận bằng cách bán tài sản nợ có một
số đặc tính (một kết hợp riêng về tính lỏng, rủi ro và lợi tức) và dùng tiền mua
được để mua những tài sản có một số đặc tính khác, và trong hoạt động cho vay, tài
sản có này chính là tiền cho vay. Như vậy, các ngân hàng đã cung cấp dịch vụ
chuyển một loại tài sản thành một loại tài sản khác cho công chúng, và cho vay là
một trong những sản phẩm dịch vụ đó.
Theo các văn bản hiện hành liên quan tới hoạt động tín dụng của các NHTM,
cho vay là một nghiệp vụ tín dụng, theo đó, ngân hàng cho vay giao cho khách
hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất đình theo thỏa
thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Cho vay là hoạt động thông qua sự thỏa thuận giữa bên đi vay và bên cho vay
dựa trên các phương án sản xuất kinh doanh hoặc dự án kinh doanh do bên đi vay

trình cho bên cho vay, bên cạnh đó các khoản vay còn được đảm bảo bằng tài sản
của bên đi vay. Các khoản vay này chứa đựng những rủi ro vì chúng xuất hiện
trước khi diễn ra các hành vi thương mại của bên đi vay, vì thế chúng phải đảm bảo
theo 3 nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi.
Thứ hai, khoản vay phải được bên đi vay sử dụng đúng mục đích.
Thứ ba, các khoản vay phải được đảm bảo bởi các tài sản của bên đi vay.
Như vậy, có thể khái quát khái niệm cho vay như sau: cho vay là hoạt động cơ
bản của NHTM, đó là một giao dịch về tiền giữa bên cho vay là ngân hàng và bên
đi vay là các cá nhân và tổ chức, trong đó, bên cho vay chuyển giao tiền cho bên đi
vay sử dụng cho một mục đích nào đó trong một thời hạn nhất định như đã thỏa
thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện gốc và lãi cho bên cho vay
khi đến hạn thanh toán.
1.1.2. Phân loại cho vay
Cho vay có thể được phân loại dựa trên nhiều tiêu thức sao cho phù hợp với
tính chất, đặc điểm của nhu cầu vay và việc quản lý cho vay của ngân hàng. Có
một số cách chủ yếu để phân loại cho vay như sau:
1.1.2.1. Theo đối tượng khách hàng
Theo đối tượng khách hàng, cho vay được phân chia thành:
- Cho vay Chính phủ: Là hoạt động cho vay đối với Nhà nước để tài trợ cho
nhu cầu chi tiêu thường xuyên. Cho vay Chính phủ thường thể hiện bằng việc
Ngân hàng mua trái phiếu do Kho bạc phát hành.
- Cho vay các tổ chức kinh tế: Là hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp,
công ty nhằm tài trợ cho các nhu cầu vốn để kinh doanh. Cho vay tổ chức kinh tế
được thực hiện với nhiều phương thức khác nhau phù hợp với từng nhu cầu vốn cụ
thể.
- Cho vay các tổ chức tài chính khác (ngân hàng, công ty tài chính, quỹ tín
dụng…): Là hoạt động cho vay chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản hoặc
thanh toán liên ngân hàng.
- Cho vay cá nhân: Là hoạt động cho vay đối với khách hàng là các cá nhân –

người tiêu dùng với các mục đích mua sắm tài sản, tiêu dùng hoặc kinh doanh.
1.1.2.2. Theo mục đích sử dụng vốn vay
Theo mục đích vốn vay được sử dụng, cho vay bao gồm:
- Cho vay kinh doanh: Là hoạt động cho vay mà vốn vay được sử dụng cho
mục đích kinh doanh. Đối tượng khách hàng vay kinh doanh có thể là cá nhân, các
hộ gia đình hoặc các tổ chức kinh tế, trong đó chủ yếu là các tổ chức kinh tế.
- Cho vay tiêu dùng: Là hoạt động cho vay mà vốn vay được sử dụng cho mục
đích tiêu dùng. Đối tượng chủ yếu vay tiêu dùng là các cá nhân (vay để mua tài
sản) và Chính phủ (vay cho nhu cầu chi tiêu thường xuyên).
1.1.2.3. Theo phương thức cho vay
Về phương thức, cho vay có thể bao gồm các loại chính như sau:
- Cho vay từng lần: Là phương thức cho vay đối với các khách hàng không có
nhu cầu vay thường xuyên, chỉ khi vào thời vụ kinh doanh hay mở rộng sản xuất
mới xin vay. Mỗi lần vay vốn, ngân hàng và khách hàng lại thực hiện thủ tục vay
vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Là phương thức cho vay mà ngân hàng và
khách hàng thoả thuận một hạn mức về số dư trong suốt kỳ hoặc số dư cuối kỳ.
Đây là hình thức cho vay phù hợp đối với khách hàng vay mượn thường xuyên,
vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh.
- Cho vay luân chuyển: Là phương thức cho vay mà ngân hàng thoả thuận tài
trợ dựa trên kế hoạch lưu chuyển hàng hoá và ngân quỹ của khách hàng. Hình thức
này phù hợp với các doanh nghiệp thương mại hoặc doanh nghiệp sản xuất, kinh
doanh có chu kỳ tiêu thụ sản phẩm ngắn.
- Cho vay trả góp: Là phương thức cho vay trong đó ngân hàng trả gốc thành
nhiều lần trong thời hạn đã thoả thuận. Phương thức này thường được áp dụng đối
với vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định.
- Cho vay thấu chi: Là phương thức cho vay mà ngân hàng thoả thuận bằng
văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền trên tài khoản tiền gửi thanh
toán của mình trong một thời hạn nhất định (gọi là hạn mức thấu chi) và trong một
khoảng thời gian xác định.

Ngoài ra, còn có nhiều phương thức cho vay khác như: cho vay theo dự án
đầu tư, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, cho vay hợp vốn, cho vay qua
việc phát hành thẻ tín dụng…
1.1.2.4. Theo thời hạn
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu
nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận
trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng.
Ngân hàng và khách hàng thoả thuận thời hạn cho vay căn cứ vào nhu cầu
vốn, chu kỳ sản xuất – kinh doanh của khách hàng, thời hạn thu hồi vốn của dự
án/phương án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và nguồn vốn vay của ngân
hàng.
Theo thời hạn, cho vay được phân loại thành:
- Cho vay không có thời hạn: Là hình thức cho vay mà việc vay – hoàn trả của
khách hàng là thường xuyên, theo kế hoạch luân chuyển hàng hoá và kế hoạch
doanh thu của khách hàng, không xác định cụ thể thời điểm trả nợ trên hợp đồng
tín dụng.
- Cho vay có thời hạn: Là hình thức cho vay mà thời hạn thu hồi nợ được xác
định cụ thẻ trong hợp đồng tín dụng. Cho vay có thời hạn được phân chia thành:
+ Cho vay ngắn hạn: Là hình thức cho vay mà thời hạn cho vay dưới 12 tháng
+ Cho vay trung hạn: Là hình thức cho vay mà thời hạn cho vay từ trên 12
tháng đến dưới 60 tháng.
+ Cho vay dài hạn: Là hình thức cho vay mà thời hạn cho vay từ 60 tháng trở
lên.
Thông thường, hai hình thức cho vay trung hạn và dài hạn được ghép thành
cho vay trung và dài hạn.
Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề tốt nghiệp chỉ giới hạn phạm vi
nghiên cứu là hình thức cho vay ngắn hạn.
1.1.2.5. Các căn cứ khác
- Theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng:
+ Cho vay có đảm bảo bằng tài sản: là việc cho vay mà ngân hàng yêu cầu

người vay phải có tài sản hợp pháp đảm bảo cho khoản vay. Tài sản này chính là
nguồn thu nợ cuối cùng của ngân hàng. Đó có thể là tài sản để thế chấp hoặc cầm
cố.
+ Cho vay không có tài sản đảm bảo: là việc cho vay mà ngân hàng không yêu
cầu người vay phải có tài sản làm vật đảm bảo. Đây chính là hình thức cho vay
đảm bảo bằng uy tín, chủ yếu chỉ áp dụng cho các khách hàng có tình hình tài
chính lành mạnh, làm ăn có lãi. Cũng có thể đó là các khoản cho vay theo chỉ thị
của Chính phủ, các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty
lớn trong thời hạn ngắn mà ngân hàng có thể giám sát việc sinh lợi và khả năng trả
nợ của doanh nghiệp.
- Theo phương thức trả nợ, đồng tiền vay
Sự phân loại cho vay trên đây chỉ mang tính chất tương đối. Trong thực tế,
bao hàm trong loại cho vay này có thể là các loại cho vay khác. Chẳng hạn, cho
vay theo thời hạn ngắn (ngắn hạn) có thể theo phương thức cho vay từng lần, hoặc
có thể là cho vay theo hạn mức.
1.2. Hoạt động cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp của NHTM
1.2.1. Khái niệm cho vay ngắn hạn
Xét về thời hạn, theo các văn bản liên quan tới hoạt động tín dụng của NHTM,
cho vay ngắn hạn là ngân hàng cho khách hàng vay một khoản tiền với mục đích
đã được thỏa thuận trong thời hạn không quá 12 tháng. Khác với cho vay ngắn hạn,
cho vay trung hạn là các khoản cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng và cho vay
dài hạn là các khoản cho vay trên 60 tháng.
Xét về tính chất của cho vay ngắn hạn, không chỉ đơn thuần là các khoản cho
vay của ngân hàng đối với khách hàng trong khoảng thời gian không quá 12 tháng.
Đối ứng với việc ngân hàng cho vay đối với doanh nghiệp là việc doanh nghiệp
huy động vốn để tài trợ cho tài sản của mình phục vụ hoạt động sản xuất – kinh
doanh. Như vậy, để hiểu rõ về việc ngân hàng cho vay ngắn hạn đối với doanh
nghiệp và phân biệt được với cho vay trung – dài hạn, chúng ta sẽ xem xét về khái
niệm “vốn ngắn hạn” và “vốn trung – dài hạn” của doanh nghiệp.
Trước hết, vốn của doanh nghiệp được biểu hiện là giá trị của toàn bộ tài sản

do doanh nghiệp quản lý và sử dụng tại một thời điểm nhất định. Mỗi đồng vốn
gắn liền với một chủ sở hữu nhất định. Tiền tệ là hình thái vốn ban đầu của doanh
nghiệp, nhưng chưa hẳn có tiền là có vốn. Tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn, để
biến tiền thành vốn thì tiền phải đưa vào sản xuất kinh doanh với mục đích sinh
lời. Như vậy, vốn là lượng giá trị ứng trước của toàn bộ tài sản mà doanh nghiệp
kiểm soát để phục vụ trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu được lợi ích
kinh tế trong tương lai. Vốn trong họat động sản xất kinh doanh được tồn tại dưới
hai hình thức là vốn ngắn hạn và vốn trung – dài hạn, hay còn gọi là vốn lưu động
và vốn cố định.
“Vốn ngắn hạn” được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản ngắn hạn của
doanh nghiệp. Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp chính là tài sản lưu động và đầu
tư ngắn hạn theo chuẩn mực kế toán cũ trước đây. Tài sản ngắn hạn của doanh
nghiệp thường gồm hai bộ phận là tài sản ngắn hạn trong sản xuất và tài sản ngắn
hạn trong lưu thông. Tài sản ngắn hạn trong quá trình sản suất là những vật tư dự
trữ nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu… và sản phẩm dở dang trong quá trình sản
xuất. Tài sản ngắn hạn trong lưu thông bao gồm sản phẩm hàng hóa chờ tiêu thụ,
các loại vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán, các khoản phí chờ kết chuyển, chi phí
trả trước… Có thể phân biệt vốn ngắn hạn theo hai tiêu chí:
*Theo hình thái biểu hiện, vốn ngắn hạn được chia thành 3 loại:
- Vốn bằng tiền và vốn trong thanh toán:
+ Vốn bằng tiền gồm: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển,
kim loại quý…
+ Vốn trong thanh toán là các khoản nợ phải thu của khách hàng, các khoản
tạm ứng, các khoản phải thu khác…
- Vốn vật tư hàng hóa (hàng tồn kho) bao gồm nguyên, nhiên vật liệu, phụ
tùng thay thế, công cụ, dụng cụ lao động, sản phẩm dở dang và thành phẩm.
- Vốn về chi phí trả trước là những khoản chi phí lớn hơn thực tế đã phát sinh
có liên quan đến nhiều chu kỳ kinh doanh nên được phân bổ vào giá trị thành sản
phẩm của nhiều chu kỳ kinh doanh như: chi phí sửa chữa lớn TSCĐ, chi phí thuê
tài sản, chi phí nghiên cứu thí nghiệm, cải tiến kỹ thuật, cho phí xây dựng, lắp đặt

các công trình tạm thời, chi phí phục vụ cho xây dựng cơ bản…
*Theo vai trò của vốn lưu động đối với quá trình sản xuất kinh doanh, vốn
ngắn hạn được chia thành 3 loại:
- Vốn ngắn hạn trong khâu dự trữ sản xuất bao gồm giá trị các khoản nguyên
vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ
lao động nhỏ.
- Vốn ngắn hạn trong khâu sản xuất bao gồm giá trị sản phẩm dở dang và vốn
về chi phí trả trước.
- Vốn ngắn hạn trong khâu lưu thông gồm các giá trị thành phẩm, vốn bằng
tiền, các khoản đầu tư ngắn hạn (đầu tư chứng khoán ngắn hạn, cho vay ngắn
hạn…), các khoản vốn trong thanh toán (các khoản phải thu, tạm ứng…).
“Vốn trung – dài hạn” của doanh nghiệp được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ
tài sản trung – dài hạn của doanh nghiệp. Giống như tài sản ngắn hạn, tài sản dài
hạn chính là tài sản cố định và đầu tư trung – dài hạn của doanh nghiệp theo chuẩn
mực kế toán cũ. Tài sản dài hạn của doanh nghiệp bao gồm các khoản đầu tư dài
hạn, các khoản tạm ứng dài hạn, tài sản cố định hữu hình (nhà cửa, máy móc, trang
bị, thiết bị…), tài sản cố định vô hình (công nghệ dây chuyền sản xuất, bản quyền
chế tạo, thương hiệu của doanh nghiệp)… đó là những tài sản có thời gian sử dụng
từ 1 năm trở lên.
Tuy nhiên, không phải lúc nào doanh nghiệp cũng chỉ dùng nguồn vốn ngắn
hạn để tài trợ cho TSNH cũng như chỉ dùng nguồn dài hạn tài trợ cho TSDH. Xuất
phát từ nhu cầu vốn của doanh nghiệp, các ngân hàng cho vay đối với doanh
nghiệp –đây là một trong những kênh huy động vốn hữu hiệu của doanh nghiệp.
Các NHTM cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp trong các trường hợp sau:
*NHTM cho vay ngắn hạn để tài trợ tài sản lưu động:
Ngân hàng thương mại thường chia các khoản cho vay của mình thành cho
vay ngắn hạn và cho vay trung và dài hạn. Tùy thuộc vào nhu cầu và nguyện vọng
vay của khác hàng mà sẽ chọn thời hạn phù hợp nhất với mình. Theo sự phân chia
thời hạn thì những món vay dưới 1 năm được xếp vào món vay ngắn hạn, nó phù
hợp với trường hợp tài trợ cho tài sản lưu động của doanh nghiệp. Các trường hợp

cụ thể là:
- Nhằm tài trợ cho nhu cầu vốn tăng thêm cho sản xuất và kinh doanh, đối với
doanh nghiệp sản xuất hàng hoá, doanh nghiệp kinh doanh thương mại, dịch vụ,
vốn tăng thêm này chủ yếu để mua nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, tăng dự trữ,
đầu tư vào tài sản lưu động ròng.
- Nhằm tài trợ cho hoạt động xuất, nhập khẩu, tài trợ thanh toán quốc tế đối
với các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu.
Ngân hàng có thể tài trợ ngắn hạn cho nhà nhập khẩu thông qua nhiều hình
thức khi nhà nhập khẩu không có đủ khả năng thanh toán. Cụ thể, ngân hàng cung
cấp các nghiệp vụ sau:
+ Tín dụng cho người đặt hàng và hiệp định khung tài trợ nhập khẩu
+ Cho vay mở L/C
+ Tạm ứng cho nhà nhập khẩu
+ Chấp nhận của ngân hàng (Bank Acceptance)
+ Tín dụng chấp nhận hối phiếu dành cho nhà nhập khẩu (hối phiếu tự nhận
nợ - promissory note).
Ngân hàng cũng tài trợ xuất khẩu trong nhiều trường hợp. Khi nhà xuất khẩu
có khó khăn trong thanh toán mà chưa thu được tiền từ xuất khẩu, NHTM thực
hiện các nghiệp vụ tín dụng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu có quy mô lớn và
chiếm thị trường rộng. Cụ thể, ngân hàng cung cấp các nghiệp vụ như sau:
+ Tài trợ trong khuôn khổ nhờ thu kèm chứng từ
Thực hiện nghiệp vụ này, nhà xuất khẩu ủy thác các chứng từ về hàng hóa,
vận đơn, bảo hiểm và các chứng từ khác cho ngân hàng phục vụ mình nhờ thu hộ.
Ngân hàng này sẽ chuyển tiếp chứng từ đến ngân hàng cần giao dịch với chỉ thị
giao chứng từ sau khi đã thanh toán, hoặc chấp nhận thanh toán. Trong quá trình
thanh toán sẽ có một yếu tố rất quan trọng, đó là yếu tố thời gian. Chính điều này
nảy sinh nhu cầu vốn đối với nhà xuất khẩu. Ngân hàng bên xuất khẩu hoặc bên
nhập khẩu đều có thể thực hiện tài trợ ngắn hạn cho nhà xuất khẩu.
+ Nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu
Khi thoả thuận giữa các bên tham gia xuất nhập khẩu chấp nhận có hối phiếu

kỳ hạn không hủy ngang, khi chưa đến hạn thanh toán nhà xuất khẩu có thể mang
hối phiếu này đến ngân hàng phục vụ mình xin chiết khấu.
+ Tài trợ trong khuôn khổ chứng từ
Hình thức tín dụng của ngân hàng trên cơ sở chiết khấu bộ chứng từ trước khi
đến hạn thanh toán.
+ Tạm ứng cho nhà xuất khẩu
Dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa ngân hàng và nhà xuất khẩu, khách hàng có
thể đề nghị được cung cấp tín dụng giữa chừng trong khuôn khổ “clean payment”
(thanh toán trơn).
+ Bao toàn bộ thanh toán xuất khẩu – Factoring
Đây là hình thức tài trợ xuất khẩu ngắn hạn. Bản chất Factoring là nghiệp vụ
chiết khấu các khoản phải thu của nhà xuất khẩu. NHTM lớn tiến hành lập các
công ty chuyên môn để thực hiện các nghiệp vụ này.
- NHTM cho vay ngắn hạn đối với mục đích tiêu dùng của cá nhân, doanh
nghiệp.

×