LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HỆ THỐNG
THANH TOÁN CHUYỂN TIỀN ĐIỆN TỬ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI.
1.1 Ngân hàng thương mại và việc tổ chức thanh toán giữa các NHTM.
1.1.1 Vài nét khái quát về Ngân hàng thương mại (NHTM).
Ngân Hàng (NH) được hình thành và phát triển trải qua một quá trình lâu dài với
nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Trong thời kỳ đầu vào khoảng thế kỷ thứ XV đến
thế kỷ thứ XVIII, các NH còn hoạt động độc lập với nhau. Đó là trung gian tín dụng, trung
gian thanh toán cho nền kinh tế và phát hành giấy bạc cho NH.
Sang thế kỷ XVIII, lưu thông hàng hoá ngày càng phát triển. Việc các NH cùng thực
hiện chức năng phát hành giấy bạc ngân hàng làm cho lưu thông có nhiều loại giấy bạc
khác nhau đã cản trở cho quá trình lưu thông hàng hóa phát triển kinh tế. Chính điều này
đã dẫn đến phân hoá hệ thống NH. Lúc này hệ thống NH đã phân làm hai nhóm: thứ nhất
là nhóm các NH được phép phát hành tiền, được gọi là NH phát hành sau đổi thành
NHTW. Thứ hai là các NH không được phép phát hành tiền, chỉ làm trung gian tín dụng,
trung gian thanh toán trong nền kinh tế được gọi là NH trung gian. Đây là một mắt xích
cực kỳ quan trọng nối giữa NHTW với nền kinh tế, cũng như là cầu nối để những người có
vốn và những người cần vốn gặp nhau.
Thời kỳ đầu khi mới thực hiện sự phân hoá hệ thống NH, các NH trung gian thực
hiện tất cả các hoạt động của nó như nhận tiền gửi, cho vay và làm các dịch vụ thanh toán.
Ban đầu, các NH chủ yếu nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn ngắn và cho vay ngắn
hạn. Về sau, nó thực hiện cả cho vay trung hạn, dài hạn bằng nguồn vốn trung hạn, dài hạn
do huy động tiền gửi trung hạn, dài hạn và phát hành trái khoán.
Hoạt động NH ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của thị trường chứng
khoán đòi hỏi hình thành nên những NH, những trung gian tài chính chuyên hoạt động
trong một lĩnh vực nào đó, phân chia NH trung gian thành các NH hoạt động trong lĩnh vực
riêng: NHTM, NH đầu tư, NH phát triển...
Đặc trưng NH được thể hiện rõ nhất thông qua các chức năng sau:
-Chức năng làm thủ quỹ cho xã hội.
-Chức năng trung gian thanh toán.
-Chức năng làm trung gian tín dụng.
-Chức năng “tạo tiền”.
NH làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách
hàng như: trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc
nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng, tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo
lệnh của họ.
NH thực hiện chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở nó thực hiện chức năng làm
thủ quỹ cho xã hội. Việc nhận tiền gửi và theo dõi các khoản thu, chi trên tài khoản tiền gửi
của khách hàng là tiền đề để NH thực hiện vai trò trung gian thanh toán. Mặt khác, việc
thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt giữa các chủ thể kinh tế có nhiều hạn chế như rủi ro do
phải vận chuyển tiền, chi phí thanh toán lớn, đặc biệt là với khách hàng ở cách xa nhau.
Chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa quan trọng với nền kinh tế.
Trước hết, thanh toán không dùng tiền mặt qua NH góp phần tiết kiệm chi phí lưu
thông tiền mặt và đảm bảo thanh toán an toàn. Khả năng lựa chọn hình thức thanh toán
thích hợp cho phép khách hàng thực hiện thanh toán chính xác hiệu quả. Điều này góp
phần tăng nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, tốc độ luân chuyển vốn và hiệu quả của quá
trình tái sản xuất xã hội.
Mặt khác, việc cung ứng một dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt có chất lượng
làm tăng uy tín cho NH và do đó tạo điều kiện để thu hút nguồn vốn tiền gửi.
Chu chuyển tiền tệ hiện nay chủ yếu thông qua hệ thống NHTM và do vậy, chỉ khi
chức năng trung gian thanh toán được hoàn thiện thì vai trò của NHTM mới được nâng cao
hơn với tư cách là người thủ quỹ cho xã hội.
1.1.2 Khái niệm, sự cần thiết và ý nghĩa thanh toán giữa các NHTM.
Khái niệm: Thanh toán giữa các NH là việc thanh toán vốn tiền tệ giữa các chi
nhánh NH trong cùng hệ thống hoặc giữa các NH khác hệ thống phát sinh trên cơ sở đáp
ứng yêu cầu thanh toán hàng hoá, dịch vụ và điều chuyển của các đơn vị, tổ chức kinh tế,
cá nhân và nghiệp vụ điều chuyển tiền của chính bản thân NH.
Sự cần thiết thanh toán giữa các NH: Hoạt động kinh tế ngày càng phát triển, theo đó
là sự phát triển của thanh toán tiền tệ trong nước và quốc tế. Mối quan hệ ngày càng đa
dạng, điều đó không chỉ đòi hỏi sự gia tăng hoạt động của hệ thống ngân hàng nói chung
mà còn làm cho hoạt động thanh toán vốn giữa các NH ngày càng trở nên cần thiết. Điều
đó thể hiện như sau:
Nền kinh tế ngày càng phát triển thì việc trao đổi hàng hoá dịch vụ không chỉ bó hẹp
ở một địa phương mà nó còn mở rộng ra mọi miền đất nước. Hiện nay, nhiều hệ thống
NHTM và các tổ chức tín dụng khác nhau có mạng lưới chi nhánh trong toàn quốc. Bên
cạnh đó, khách hàng được quyền lựa chọn NH để mở tài khoản cho mình. Do đó, thanh
toán tiền hàng hoá dịch vụ giữa người mua và người bán qua hai NH khác nhau là rất cần
thiết. Nó giúp cho việc thanh toán các khoản nợ giữa các tác nhân trong nền kinh tế một
cách dễ dàng, nhanh chóng, đem lại hiệu quả to lớn cho kinh tế-xã hội.
Việc cấp chuyển vốn, kinh phí, chuyển tiền thực hiện nghĩa vụ ngân sách diễn ra
thường xuyên, liên tục đòi hỏi phải có nghiệp vụ thanh toán giữa các NH để đáp ứng yêu
cầu của việc chuyển vốn trong nền kinh tế.
Ngân hàng, tổ chức tín dụng không chỉ là nơi cung ứng các dịch vụ thanh toán mà còn
là chủ thể tổ chức tham gia vào hệ thống thanh toán, thực hiện việc thanh toán trong phạm
vi nội bộ của chính hệ thống các NH như: điều chuyển vốn, cấp vốn, chuyển nhượng tài
sản, nộp khấu hao, chuyển lãi lỗ...đảm bảo cho việc quản lý và sử dụng vốn được khép kín
trong toàn hệ thống NHTM.
Để làm tốt các nghiệp vụ trên, thanh toán giữa các NH ra đời là một tất yếu.
Ý nghĩa:
Thanh toán giữa các NH là hành lang cho thanh toán không dùng tiền mặt phát triển.
Thanh toán giữa các NH góp phần phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá phát triển,
bởi nếu tổ chức tốt nghiệp vụ thanh toán giữa các NH sẽ đảm bảo cho thanh toán nhanh,
chính xác, an toàn. Từ đó giúp cho các doanh nghiệp, cá nhân thu hồi vốn nhanh, đầy đủ để
tiếp tục chu kỳ sản xuất kinh doanh tiếp theo.
Thể hiện chức năng tập trung vốn trong thanh toán của NH trong nền kinh tế quốc
dân là NH đã phát huy được vai trò giám đốc đối với nền kinh tế, nâng cao uy tín, góp
phần tăng cường vai trò làm trung gian thanh toán cho nền kinh tế.
Thực hiện thanh toán giữa các NH giúp cho NH và các TCTD thu hút được lượng vốn
tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư để cho vay phục vụ
phát triển kinh tế, tăng trưởng nguồn vốn cho NH. Ngoài ra, thông qua các dịch vụ thanh
toán, NH đã tiết kiệm được chi phí trong lưu thông, chi phí bảo quản, hạn chế tham ô, lợi
dụng, bảo vệ an toàn tài sản...Trong quá trình thanh toán, người mua không phải mang một
lượng tiền mặt rất lớn để thanh toán cho người bán mà thực hiện thanh toán thông qua các
dịch vụ thanh toán qua NH.
Thanh toán giữa các NH không chỉ tạo điều kiện cho các NH tổ chức quản lý vốn và
điều hoà vốn có hiệu quả trong cả nước mà còn tạo điều kiện nối liền các cơ sở NH thành
một hệ thống chặt chẽ và điều hoà vốn trong nội bộ hệ thống NH. Điều đó làm tăng tốc độ
vòng quay vốn, tăng hiệu quả sử dụng vốn, tránh tình trạng có NH thừa vốn mà vẫn phải
trả lãi tiền gửi cho khách hàng, trong khi đó lại có NH thiếu vốn phục vụ sản xuất kinh
doanh, bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh có thể thu được nguồn lợi lớn. Thông qua điều chuyển
vốn, NH thiếu vốn vẫn giữ được khách hàng và tiến hành hoạt động kinh doanh trôi chẩy,
chi nhánh thừa vốn vẫn có thu nhập từ nguồn vốn thừa do hưởng lãi suất điều hoà.
1.1.3 Điều kiện thanh toán giữa các NH.
Như ta đã biết, thanh toán giữa các NH là việc thanh toán vốn tiền tệ giữa các chi
nhánh NH trong cùng hệ thống hoặc giữa các NH khác hệ thống phát sinh trên cơ sở đáp
ứng yêu cầu thanh toán hàng hoá, dịch vụ và điều chuyển của các đơn vị, tổ chức kinh tế,
cá nhân và nghiệp vụ điều chuyển tiền của chính bản thân NH. Vì vậy, điều kiện thanh
toán giữa các NH là:
Điều kiện pháp lý: Phải xây dựng được hệ thống pháp lý ổn định và tin cậy, thể lệ
và chế độ đồng bộ, tạo cơ sở vững chắc để tổ chức nghiệp vụ thanh toán. Hệ thống pháp lý
chặt chẽ là cơ sở để giải quyết các tranh chấp nẩy sinh và ngăn ngừa các sai phạm trong
thanh toán.
Thực hiện thanh toán qua tài khoản tiền gửi mở tại ngân hàng khác phải có sự thoả
thuận bằng văn bản của hai ngân hàng chủ quản, đồng thời, phải theo đúng nguyên tắc mở
và sử dụng tài khoản. Thanh toán kịp thời, cập nhật chính xác, an toàn tài sản, không được
chiếm dụng vốn lẫn nhau.
Đối với uỷ nhiệm chi hộ, thu hộ phải có văn bản thoả thuận và cam kết chặt chẽ giữa
hai ngân hàng bảo đảm sự tín nhiệm trong thanh toán. Định kỳ, hai bên phải đối chiếu,
thanh toán sòng phẳng với nhau.
Đối với thanh toán bù trừ: Các NHTM, TCTD, Kho Bạc Nhà Nước muốn tham gia
thanh toán bù trừ phải có đơn xin tham gia thanh toán bù trừ, phải chấp hành nội quy trong
thanh toán như: giới thiệu người giao dịch, mẫu chữ ký, chấp hành giờ truyền nhận dữ liệu
hay phiên giao dịch.
Điều kiện về tổ chức và kỹ thuật: Thanh toán giữa các ngân hàng phải được tổ chức
một cách khoa học, áp dụng kỹ thuật hiện đại đảm bảo thanh toán chính xác, nhanh chóng,
an toàn, chi phí thấp; phải có trung tâm xử lý thông tin nhanh nhậy, thông suốt theo các
chuẩn mực quy định của NHNN nhằm đáp ứng được các phương thức thanh toán giữa các
NH. Thông tin phải được cập nhật và lưu trữ, bảo quản cẩn trọng, đảm bảo tính bảo mật
cao. Phải bố trí những người có trách nhiệm cao, trung thực và thành thạo nghiệp vụ thanh
toán giữa các NH, đẩy nhanh tốc độ và sự an toàn trong thanh toán.
Điều kiện về vốn: Các NHTM thực hiện thanh toán giữa các NH phải có đủ khả
năng cân đối nguồn và sử dụng vốn, phải chuẩn bị được đủ lượng vốn đảm bảo khả năng
thanh khoản, đáp ứng nhu cầu về vốn trong thanh toán. Trường hợp làm mất khả năng
thanh toán phải chịu phạt theo quy định.
Các NHTM khi thực hiện thanh toán qua thanh toán bù trừ phải luôn duy trì tồn quỹ
tiền mặt và số dư trên tài khoản tiền gửi cần thiết tại NHNN để đảm bảo cho khả năng
thanh toán, sẵn sàng chi trả cho khách hàng. Trường hợp thiếu vốn thanh toán thì vay Ngân
hàng chủ trì hoặc Ngân hàng thành viên.
1.1.4 Các nghiệp vụ thanh toán của NH và sự phát triển của chúng.
1.1.4.1 Các hình thức thanh toán (Means of payment).
Sản xuất hàng hoá càng phát triển thì các hoạt động nghiệp vụ của NH cũng không
ngừng mở rộng và phát triển. Các nghiệp vụ này ngày càng được cải tiến phù hợp với xu
hướng phát triển chung về khoa học công nghệ trên thế giới, trong đó lĩnh vực thanh toán
đặc biệt quan trọng với điều kiện và trình độ phát triển của mỗi nưóc. Nhìn chung, các
nước có nền kinh tế thị trường thì hình thức thanh toán qua NH phổ biến sau đây:
Hình thức thanh toán séc:
Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập trên mẫu in sẵn do NHNN quy định để
yêu cầu đơn vị thanh toán trích một số tiền từ tài khoản tiền gửi thanh toán của mình để trả
cho người thụ hưởng có tên trên séc hoặc người cầm séc.
Séc là hình thức thanh toán lâu đời, phổ biến nhất ở hầu hết các NH trên thế giới với
tiêu đề: Cheque (tiếng Anh), Chéque (tiếng Pháp) dịch ra tiếng Việt là “chi phiếu”. Séc bao
gồm nhiều loại khác nhau: séc ký danh, séc vô danh, séc tiền mặt, séc chuyển khoản, séc
bảo chi, séc định mức, séc cá nhân, séc du lịch.
Đối tượng áp dụng: Séc thường được áp dụng để thanh toán chi trả các khoản tiền
hàng hoá dịch vụ, công nợ.
Phạm vi áp dụng: Bên mua và bên bán phải mở tài khoản tại cùng một NH hoặc khác
NH cùng một hệ thống. Trường hợp bên mua và bên bán có tài khoản tại hai NH khác hệ
thống thì hai đơn vị thanh toán đó phải tham gia thanh toán bù trừ giao nhận chứng từ trực
tiếp.
Điều kiện để séc được NH chấp nhận thanh toán:
-Người phát hành séc chỉ được ghi số tiền trên séc trong phạm vi số dư tài khoản tiền
gửi của họ tại NH. Nếu phát hành quá số dư NH không chấp nhận thanh toán đồng thời,
NH còn áp dụng phạt vi phạm hợp đồng thanh toán và phạt chậm trả.
-Trường hợp có nhiều tờ séc nộp vào NH cùng một lúc để đòi tiền từ một tài khoản
mà số dư trên tài khoản đó không đủ để thanh toán toàn bộ những tờ séc đó thì thứ tự thanh
toán được xác định theo số séc đã phát hành, các séc có số thứ tự nhỏ hơn sẽ được thanh
toán.
-Séc phải đảm bảo tính hợp pháp hợp lệ cả về hình thức và nội dung.
Séc chuyển khoản là loại thanh toán do chủ tài khoản phát hành trực tiếp để trả tiền
cho người thụ hưởng trên cơ sở số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của mình tại NH. Loại
séc này rất tiện lợi cho bên mua nhưng không tiện lợi cho bên bán. Do đó, trong thanh toán
truyền thống, séc được ghi theo nguyên tắc ghi nợ trước ghi có sau.
Trường hợp bên bán yêu cầu bên mua có sự xác nhận của đơn vị thanh toán trên tờ
séc, khi nhận được yêu cầu, đơn vị thanh toán sẽ làm thủ tục bảo chi trên cơ sở số tiền mà
người phát hành đã lưu ký. Vì vậy, người chịu trách nhiệm thanh toán séc là NH hay đơn
vị thanh toán bảo chi séc.
Có thể thấy, việc áp dụng séc bảo chi rất có lợi cho người thụ hưởng. Người thụ
hưởng chắc chắn sẽ nhận được tiền, do đó, người thụ hưởng không bị mất vốn, không bị
chiếm dụng vốn. Quá trình thanh toán được thực hiện nhanh chóng vì NH bảo chi séc hoặc
NH phục vụ người thụ hưởng ghi có ngay cho người thụ hưởng. Ngược lại, khi áp dụng
thanh toán bằng séc bảo chi, người mua lại phải làm thủ tục ruờm rà để được bảo chi séc,
phải lưu ký tiền trên tài khoản tiền gửi bảo chi séc và không được hưởng lãi trên số tiền lưu
ký đó.
Nhìn chung, thanh toán séc là thể thức đơn giản, thuận tiện được sử dụng rộng rãi ở
nhiều nước trên thế giới. Công ước Séc quốc tế Giơ-ne-vơ năm 1931 đã được một số nước
thông qua cho đến nay vẫn được xem là luật điều chỉnh các quan hệ liên quan đến việc
phát hành và sử dụng séc. Tuy nhiên, trong thực tế, sử dụng séc không phải tuyệt đối an
toàn, đã có xuất hiện séc giả. Do vậy, kỹ thuật thanh toán séc không ngừng được hoàn
thiện trên mọi phương diện.
Hình thức thanh toán bằng uỷ nhiệm thu (UNT):
UNT là chứng từ đòi tiền do người bán lập và uỷ nhiệm cho NH phục vụ mình đòi
tiền người mua hay người nhận cung ứng dịch vụ trên cơ sở hàng hoá hay đơn vị đã cung
ứng. Ngân hàng phục vụ người bán không chịu trách nhiệm về việc người mua có thanh
toán hay không. Chính vì thế, đối với nghiệp vụ này, NH phải kết hợp nghiệp vụ bảng, ghi
nhập sổ theo dõi UNT gửi đi để theo dõi tình hình thanh toán, trả tiền của người mua nếu
người mua có tài khoản tiền gửi tại NH khác.
Đối tượng áp dụng: UNT được sử dụng để thanh toán tiền hàng hoá khi người bán
cung cấp cho người mua hoặc tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại, tiền nhà đất...
Điều kiện áp dụng: Hai bên mua bán phải thống nhất với nhau dùng hình thức UNT
với những điều kiện cụ thể ghi trên hợp đồng, đồng thời, phải thông báo bằng văn bản cho
NH phục vụ bên chi trả biết để làm căn cứ thực hiện thanh toán.
Phạm vi áp dụng: Hình thức thanh toán này được áp dụng rộng rãi trong quan hệ
thanh toán nội địa và thanh toán quốc tế đối với mọi đối tượng khách hàng dù họ mở tài
khoản tại bất cứ đơn vị thanh toán nào. Áp dụng uỷ nhiệm thu rất có lợi trong trường hợp
thu hộ phí các dịch vụ công cộng, giúp các đơn vị cung ứng dịch vụ công cộng giảm chi
phí nhân viên phải đến từng nhà để thu tiền.
Tuy nhiên, nó vẫn còn hạn chế vì UNT do người bán lập chứng từ và là xuất phát
điểm trong quy trình thanh toán, mà nguyên tắc hạch toán là ghi nợ trước có sau. Mặc dù
an toàn cho các NH tham gia quy trình thanh toán nhưng quy trình luân chuyển chứng từ
còn vòng vèo, tốc độ thanh toán chậm.
Hình thức thanh toán uỷ nhiệm chi (UNC):
UNC là lệnh của chủ tài khoản được lập theo mẫu in sẵn của NHNN uỷ quyền cho
NH phục vụ mình trích một số tiền nhất định từ tài khoản tiền gửi của mình để trả cho
người thụ hưởng có tài khoản cùng NH hay khác NH, trong cùng hệ thống hoặc khác hệ
thống.
Đối tượng áp dụng: UNC được dùng chủ yếu là để thanh toán tiền hàng hoá, công nợ
dịch vụ theo đó người mua là người mở đầu trong quy trình thanh toán, thực hiện ra lệnh
cho NH phục vụ mình trích tài khoản tiền gửi thanh toán của mình để chuyển trả cho người
bán.
Phạm vi áp dụng: UNC được sử dụng rộng rãi, người trả tiền hoàn toàn có thể sử
dụng UNC để trả tiền cho người thụ hưởng có tài khoản cùng NH hoặc khác NH cùng hệ
thống hay khác hệ thống.
Ưu điểm của uỷ nhiệm chi là được sử dụng rộng rãi về phạm vi địa lý đối với mọi đối
tượng khách hàng dù họ mở tài khoản tại bất cứ đơn vị thanh toán nào. UNC đảm bảo
quyền lợi cho bên mua do bên mua chỉ chấp nhận thanh toán khi họ đã nhận được hàng
hoá, dịch vụ đúng như trong hợp đã ký kết, đồng thời, bảo vệ quyền lợi cho NH do NH
thực hiện ghi nợ trước ghi có sau.
Ngược lại, UNC không bảo đảm quyền lợi cho bên bán. Bên bán có thể gặp rủi ro do
bên mua không đủ khả năng thanh toán hoặc bên mua cố tình không thanh toán. Do đó,
người ta chỉ áp dụng hình thức thanh toán này trong trường hợp bên mua và bên bán có tín
nhiệm nhau hoặc thanh toán có giá trị nhỏ hoặc chủ yếu là thanh toán phi mậu dịch.
Tuy nhiên, UNC vẫn là hình thức thanh toán được ưa chuộng nhất hiện nay vì đơn
giản, dễ thực hiện. Mặt khác, NH chuyển tiền nhanh đảm bảo yêu cầu của khách hàng.
Hình thức thanh toán thư tín dụng:
Thư tín dụng là lệnh của NH phục vụ bên mua gửi cho NH phục vụ bên bán để tiến
hành trả tiền cho người bán về giá trị hàng hoá đã cung ứng trên cơ sở người bán xuất trình
các hoá đơn, chứng từ hợp lệ, hợp pháp phù hợp với các điều kiện, phạm vi thời hạn hiệu
lực của thư tín dụng.
Phạm vi áp dụng: Thư tín dụng áp dụng giữa hai chi nhánh NH cùng hệ thống hoặc
trên địa bàn phục vụ người bán có NH cùng hệ thống với NH bên mua có tham gia thanh
toán bù trừ. Như thế, NH bên mua (NH phát hành) sẽ uỷ quyền cho NH cùng hệ thống với
mình và cùng địa bàn với NH bên bán có tham gia thanh toán bù trừ thực hiện thanh toán
hoặc chiết khấu bộ chứng từ hợp lệ của bên bán bằng phương thức thanh toán bù trừ.
Đối tượng áp dụng: Thư tín dụng thường được sử dụng để thanh toán tiền hàng hoá,
dịch vụ giữa hai bên mua-bán chưa hiểu rõ về nhau, chưa có mối quan hệ thân thiết và
không tin tưởng nhau. Bởi lẽ, thủ tục thanh toán bằng thư tín dụng rất rườm rà khó khăn
đối với cả bên mua và bên bán. Bên mua phải thực hiện làm thủ tục mở thư tín dụng và
được NH phục vụ mình chấp nhận phát hành thư tín dụng trước khi nhận được hàng hoá
dịch vụ từ người bán. Ngược lại, bên bán muốn nhận được thanh toán của NH phát hành
hoặc NH thanh toán. NH chiết khấu thì phải lập được bộ chứng từ hoàn hảo, phù hợp
những điều kiện đã ghi trong thư tín dụng. Trong hình thức này, thư tín dụng được coi là
căn cứ, cơ sở để hai bên mua bán trao đổi, thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ cho nhau.
Thanh toán bằng thư tín dụng là hình thức thanh toán hữu hiệu nhất cho cả bên mua
và bên bán vì quyền lợi chính đáng của cả hai bên đều được bảo vệ. Bên mua chỉ chấp
nhận thanh toán khi nhận được hàng hoá với bộ chứng từ đầy đủ như đã thoả thuận trong
hợp đồng còn bên bán chắc chắn sẽ nhận được tiền khi giao nhận bộ chứng từ đầy đủ cho
NH phục vụ mình. Do an toàn và chuẩn xác cao nên nó được sử dụng phổ biến trong thanh
toán quốc tế.
Hình thức thanh toán bằng thẻ NH:
Thẻ NH là một phương tiện thanh toán hiện đại gắn liền với kỹ thuật tin học và ứng
dụng tin học trong hoạt động NH. Qua thẻ NH, người chủ thẻ có thể sử dụng để rút tiền từ
máy rút tiền tự động ATM hoặc thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ tại cơ sở chấp nhận thanh
toán thẻ.
Thẻ thanh toán chỉ được áp dụng trong nền tảng công nghệ tin học và viễn thông
được áp dụng trong công nghệ thanh toán của NH.
Thẻ thanh toán do NH phát hành và bán cho khách hàng của mình để thanh toán chi
trả các khoản vật tư, hàng hoá, dịch vụ, các khoản thanh toán khác và rút tiền tại các đại lý
thanh toán hay tại các quầy rút tiền tự động.
Phạm vi áp dụng thẻ NH rất rộng rãi và không bị giới hạn về không gian, thời gian.
Nếu khách hàng có thể thanh toán, khách hàng có thể sử dụng (rút tiền, gửi tiền, kiểm tra
số dư trên tài khoản, thanh toán chi trả tiền hàng hoá dịch vụ....) bất cứ nơi nào có máy
ATM hoặc cơ sở chấp nhận thẻ. Hơn nữa, thanh toán bằng thẻ đã tiết kiệm chi phí, công
sức cho người mua, người bán, giảm lượng tiền mặt trong lưu thông và tăng chu chuyển
vốn cho nền kinh tế. Chính bởi tiện ích này mà thẻ NH rất được ưa chuộng ở các nước trên
thế giới. Tuy nhiên, việc sử dụng thanh toán bằng thẻ NH cũng bị giới hạn một mức tối đa
cho phép được thanh toán trong một ngày để đảm bảo an toàn và khả năng chi trả cho
nguồn thanh toán.
Với trình độ và tốc độ phát triển của khoa học kỹ thuật ngày nay, trong tương lai,
chắc chắn thẻ thanh toán chưa phải là công cụ thanh toán cuối cùng.
1.1.4.2 Các phương thức thanh toán qua NH (Mode of payments).
Tuỳ vào trình độ phát triển của công nghệ ngân hàng cũng như đặc điểm tổ chức hệ
thống NH, các nước có các phương thức thanh toán qua NH khác nhau. Ở Việt Nam, từ khi
hệ thống NH được tổ chức theo hệ thống hai cấp, các phương thức thanh toán vốn giữa các
NH bao gồm:
Phương thức thanh toán liên hàng:
Thanh toán liên hàng là quan hệ thanh toán nội bộ giữa các ngân hàng trong cùng hệ
thống phát sinh trên cơ sở các nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt giữa các khách
hàng có mở tài khoản ở các chi nhánh ngân hàng khác nhau trong cùng hệ thống hoặc các
nghiệp vụ chuyển tiền, điều hoà vốn trong nội bộ một hệ thống.
Thanh toán liên hàng là một bộ phận không thể thiếu được trong công tác thanh toán
của NH. Làm tốt công tác thanh toán liên hàng sẽ có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh
tế nói chung và với ngành NH nói riêng. Cụ thể :
Thanh toán liên hàng thúc đẩy quá trình thanh toán nhanh chóng, chính xác. Thay vì
khách hàng phải mang tiền mặt từ NH mua đến thanh toán cho người bán hàng, khách hàng
chỉ cần uỷ nhiệm cho NH phục vụ mình trích tài khoản để thanh toán cho người bán thông
qua NH phục vụ người bán.
Thanh toán liên hàng góp phần nâng cao tốc độ luân chuyển vốn tiền tệ phục vụ quá
trình tái sản xuất mở rộng, do thời gian thanh toán nhanh, rút ngắn quá trình sản xuất và
lưu thông hàng hoá dịch vụ.
Thanh toán liên hàng tạo điều kiện cho việc mở rộng và phát triển thanh toán không
dùng tiền mặt, góp phần khuyến khích cá nhân, tổ chức mở tài khoản tại các NH, ổn định
và mở rộng khách hàng.
Thanh toán liên hàng góp phần giảm chi phí lưu thông do không phải vận chuyển tiền
mặt từ nơi này đến nơi khác để thanh toán, đồng thời, hạn chế được mất mát tham ô trong
thanh toán.
Tuy nhiên, thanh toán liên hàng chỉ áp dụng với những ngân hàng trong cùng hệ
thống. Việc xử lý chứng từ vẫn mang tính thủ công, phát hiện sai lầm chậm, khó bảo toàn,
bảo mật thông tin, đặc biệt là việc quyết toán cuối năm rất vất vả, công việc quá nhiều,
sang năm sau công việc năm trước vẫn chưa giải quyết xong.
Phương thức thanh toán bù trừ:
Thanh toán bù trừ là một phương thức thanh toán giữa các NH khác hệ thống trên
cùng một địa bàn do NHNN chủ trì. Thông qua nghiệp vụ này, các NH thực hiện thu hộ chi
hộ cho NH khác và sẽ thanh toán quyết toán ngay trong ngày khi quyết toán bù trừ.
Thanh toán bù trừ thực hiện theo quyết định 181/NH-QĐ ngày 10/10/1991 về “Quy
tắc tổ chức và kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán bù trừ giữa các NH” và Công văn 637/Kinh tế
ngày 28/10/1991 về hướng dẫn thực hiện quyết định 181/NH-QD.
Để được tham gia thanh toán bù trừ, các thành viên phải tuân thủ đầy đủ các quy định
do NH chủ trì quy định, phải mở tài khoản tiền gửi thanh toán bù trừ tại NH chủ trì. Cán bộ
đi giao dịch thanh toán bù trừ phải có đủ năng lực, trình độ và đảm bảo đủ các điều kiện
giao dịch, phải đăng ký mẫu chữ ký tại NH thành viên khác và tại NH chủ trì. Nếu để xẩy
ra sai sót, tổn thất thì thành viên phải chịu trách nhiệm theo quy định.
Về thanh toán số chênh lệch trong thanh toán bù trừ: Phải trích TK tiền gửi để thanh
toán, nếu không đủ thì phải nộp tiền mặt hoặc ngân phiếu thanh toán, cũng có thể vay NH
chủ trì để thanh toán, trường hợp NH chủ trì không cho vay thì phải phạt chậm trả.
Chứng từ sử dụng trong thanh toán bù trừ bao gồm các chứng từ thanh toán gốc, các
bảng kê mẫu số 12,14,15,16 được giao nhận trực tiếp tại phiên thanh toán bù trừ. Các
chứng từ chưa thuộc phạm vi thanh toán bù trừ như uỷ nhiệm thu, thư tín dụng, séc...thì
chuyển sang NH thanh toán để thực hiện ghi nợ trước.
TK sử dụng: Nếu là NH chủ trì thì sử dụng TK 5011. Tài khoản này dùng để hạch
toán kết quả thanh toán bù trừ của NH chủ trì với NH thành viên tham gia thanh toán bù trừ
và sau khi thanh toán bù trừ xong thì hết số dư.
Nếu là NH thành viên thì sử dụng TK 5012. Tài khoản này dùng để hạch toán kết quả
thanh toán bù trừ với các NH khác và sau khi thanh toán bù trừ xong cũng phải hết số dư.
Phương thức thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại NHNN:
Phương thức thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại NHNN là phương thức thanh toán
giữa các NH khác hệ thống khác địa bàn, đều mở tài khoản tại NHNN.
Để áp dụng phương thức thanh toán này phải có các điều kiện sau:
-Hai NH phải mở tài khoản tại một hay hai chi nhánh NHNN và làm đầy đủ các thủ
tục về mở tài khoản tiền gửi theo quy định.
-Tài khoản tiền gửi của các NH phải thường xuyên có số dư để đảm bảo khả năng
thanh toán kịp thời.
-Dấu và chữ ký trên chứng từ và bảng kê chứng từ thanh toán qua NHNN phải đúng
với mẫu dấu, chữ ký đã đăng ký.
-Việc thanh toán phải kịp thời, đầy đủ, chính xác. Nếu NH nào để chậm trễ thì NH đó
sẽ bị phạt.
Thanh toán qua mở tài khoản tiền gửi tại NHNN đáp ứng nhu cầu thanh toán đối với
các khách hàng mở tài khoản tiền gửi tại các NH khác hệ thống khác địa bàn, thúc đẩy quá
trình trao đổi và sản xuất hàng hoá. Tuy nhiên, phương thức này ít được áp dụng do tốc độ
thanh toán chậm.
Phương thức thanh toán qua tài khoản tiền gửi ở NH khác:
Khi các NHTM không cùng hệ thống, không cùng địa phương có tần suất thanh toán
trực tiếp với nhau cao, nếu thanh toán từng lần qua tài khoản tiền gửi tại NHNN thì tốc độ
chậm. Để khắc phục nhược điểm này, NHNN cho phép các NHTM mở tài khoản tại nhau
để thanh toán trực tiếp. Định kỳ, các NHTM thanh quyết toán với nhau thông qua tài khoản
tiền gửi tại NHNN. Theo phương thức này, các NHTM có thể đều mở tài khoản tiền gửi ở
NH khác để uỷ quyền thu hộ cho khách hàng. Việc thu hộ, chi hộ chỉ tiến hành trong phạm
vi những khoản thanh toán đã thoả thuận và quy định trong hợp đồng uỷ thác thanh toán
giữa các NH. Mỗi khi phát sinh các khoản thanh toán thu hộ chi hộ, NH mới phát sinh phải
gửi các chứng từ thanh toán cho NH có quan hệ hạch toán sổ sách. Định kỳ thanh toán, các
NH phải đối chiếu số liệu với nhau, quyết toán số tiền đã thu hộ, chi hộ và thanh toán với
nhau số chênh lệch phải thu, phải trả.
Phương thức thanh toán mở tài khoản tại nhau đã làm gia tăng tốc độ thanh toán, hạn
chế được những nhược điểm đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, việc mở tài khoản tại nhau
làm cơ sở cho việc thanh toán cho nhau đã gây đọng vốn cho các NHTM.
Phương thức thanh toán uỷ nhiệm thu hộ, chi hộ giữa các NHTM:
Để khắc phục những hạn chế của phương thức mở tài khoản tại nhau, NHNN cho
phép các NHTM có thể ký hợp đồng thanh toán song biên trên cơ sở sự tín nhiệm giữa hai
NHTM và hợp đồng thanh toán có quy định rõ nội dung thanh toán, số tiền tối đa cho một
món thanh toán, tổng số tiền thanh toán, kỳ hạn thanh quyết toán qua tài khoản tiền gửi tại
NHNN.
1.2 Hệ thống thanh toán chuyển tiền điện tử của Ngân Hàng Công Thương Việt
Nam.
1.2.1 Qúa trình phát triển của thanh toán chuyển tiền điện tử.
Thanh toán liên hàng thủ công:
Trong thời kỳ bao cấp, hoạt động thanh toán giữa các NH khác địa bàn bằng thủ
công với một phương thức truyền thống duy nhất là thanh toán liên hàng bằng thư, bằng
điện qua đường bưu điện. Thời gian cho một món thanh toán thông thường phải từ 3-5
ngày và thậm chí là hàng tuần cho những món đi tỉnh xa.
Do việc thanh toán chậm, lượng vốn nằm trong thanh toán chiếm khá lớn không đáp
ứng công việc kinh doanh của khách hàng nên đã tạo ra tâm lý không muốn thanh toán
không dùng tiền mặt qua NH mà chỉ muốn dùng phương tiện trực tiếp bằng tiền mặt. Vì
vậy đã gây ra áp lực rất lớn về tiền mặt, tạo sự khan hiếm giả tạo, đã xuất hiện tỷ lệ % giữa
thanh toán bằng chuyển khoản và tiền mặt. Đây cũng là một trong những nguyên nhân góp
phần làm tăng tốc độ lạm phát vào những năm 1988, 1989 có thời kỳ lên đến 3 con số.
NHNN đã phải dùng “liệu pháp sốc” tăng lãi suất lên rất cao, có thời kỳ lên đến 12%/
tháng.
Thanh toán liên hàng qua mạng:
Từ năm 1989, hệ thống NH đã bắt đầu ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào
các hoạt động nghiệp vụ, đi đầu là hệ thống NHNN, đặc biệt từ năm 1993 đã ứng dụng
công nghệ thông tin vào lĩnh vực thanh toán. Thời kỳ này, các NH đã từng bước thích nghi
với cơ chế mới, chủ động trong việc đầu tư cơ sở vật chất cho hoạt động thanh toán của
mình để phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn, chuyển từ hình thức thanh toán liên hàng
bằng thư qua bưu điện sang thanh toán liên hàng qua mạng vi tính, chuyển việc giấy báo
liên hàng bằng tay theo mẫu in sẵn của NHTW sang lập trên máy vi tính, việc đối chiếu
cũng được thực hiện qua mạng vi tính. Áp dụng hình thức này tốc độ thanh toán tăng rõ
rệt, thời gian của một món thanh toán chỉ còn từ một đến hai ngày, giảm được lượng vốn
nằm trong thanh toán, được khách hàng đánh giá cao, từng bước xoá bỏ khoảng cách của
các DN và xã hội đối với NH.
Thanh toán chuyển tiền điện tử:
1.2.2 Khái niệm, đặc điểm và một số quy định chung:
Khái niệm: Thanh toán chuyển tiền điện tử là toàn bộ quá trình xử lý một khoản
chuyển tiền qua mạng máy vi tính kể từ khi nhận được một lệnh chuyển tiền của người
phát lệnh đến khi hoàn tất việc thanh toán cho người thụ hưởng (đối với chuyển tiền Có)
hoặc thu nợ từ người nhận lệnh (đối với chuyển tiền Nợ).
Đặc điểm:
-Quy trình thanh toán điện tử thay thế quy trình thanh toán liên hàng qua máy vi tính
hiện hành là quy trình hạch toán quản lý điều hành vốn tập trung trong hệ thống NHCT
Việt Nam.
-Thanh toán chuyển tiền điện tử được thực hiện trong môi trường pháp lý và chuẩn
hoá cao.
-Các công đoạn trong thanh toán chuyển tiền điện tử chủ yếu được tự động hoá. Quá
trình thanh toán chuyển tiền, tra soát, trả lời tra soát, chấp nhận, trả lời chấp nhận được
chương trình xử lý tự động nên đảm bảo độ chính xác cao độ.
-Phần tính ký hiệu mật được cài đặt một chương trình riêng đòi hỏi tính bảo mật hết
sức nghiêm ngặt. Hơn nữa, hai lần mã khoá bảo mật của hai bộ phận chức năng kế toán và
tin học giúp cho quá trình thanh toán chuyển tiền điện tử đạt độ an toàn tài sản rất cao.
Một số quy định chung:
-Phạm vi chuyển tiền điện tử gồm các chuyển tiền có và chuyển tiền nợ bằng VNĐ
hoặc bằng ngoại tệ giữa các NH cùng hệ thống. Các hoạt động thanh toán bù trừ tự động,
thanh toán với các TCTD khác, ATM, POS, SWIFT không thuộc phạm vi quy chế này (chỉ
tạo các giao diện cần thiết từ TTTT ra các hệ thống khác).
-Đối tượng áp dụng đối với tất cả các CNNH cùng hệ thống có đủ điều kiện kỹ thuật,
nắm vững quy trình nghiệp vụ chuyển tiền điện tử, được Tổng Giám đốc NHCT VN cho
phép tham gia bằng văn bản.