Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG XUẤT NHẬP KHẨU CHI NHÁNH CẦN THƠ GIAI ĐOẠN 2003 - 2005.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.52 KB, 35 trang )

PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ
DỤNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG XUẤT NHẬP KHẨU CHI
NHÁNH CẦN THƠ GIAI ĐOẠN 2003 - 2005.
------
I. PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN, GIAI ĐOẠN
2003-2005.
1. Phân tích chung tình hình huy động vốn.
Huy động vốn là hoạt động tương đối khó khăn đối với các Ngân hàng vì nó phụ
thuộc vào nhiều yếu tố. Muốn huy động vốn tốt thì Ngân hàng phải hội đủ khá nhiều điều
kiện như cơ sở vật chất, vị trí thuận lợi để dễ giao dịch, mức lãi suất huy động, công nghệ
thông tin và chất lượng phục vụ ...Trên địa bàn thành phố hiện nay có trên 25 Ngân hàng
với sự cạnh tranh gay gắt, mỗi ngân hàng đều dựa vào đặc trưng thế mạnh của mình và áp
dụng những hình thức kinh doanh riêng nhằm thu hút khách hàng. Đối với EIB Cần Thơ,
khách hàng là doanh nghiệp có quan hệ tiền gửi ngày càng tăng qua các năm, đặc biệt là
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Bảng 03: Số đơn vị có quan hệ tài khoản tiền gửi còn đang hoạt động.
Chỉ tiêu 2003 2004 2005
1. DN Nhà nước (đvị) 22 9 11
2. DN ngoài quốc doanh (đvị) 157 241 258
3.Tổ chức nước ngoài (đvị) 0 0 3
4.Tổ chức tín dụng 12 4 6
5. Cá nhân 1.195 2.483 3.006
(Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ.)
Rút ra bài học từ những năm trước, chi nhánh đã đẩy mạnh đa dạng hoá các khách
hàng, chú ý phát triển quan hệ với các thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế ngoài quốc
doanh, hạn chế quan hệ với các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả. Khách hàng
chủ yếu của Ngân hàng là các cá nhân và doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Năm 2003, số doanh nghiệp Nhà nước giao dịch gửi tiền tại Ngân hàng là khá nhiều
là 22 doanh nghiệp, nhưng sang năm 2004 thì giảm đáng kể, còn 9 đơn vị, năm 2005 tăng
lên là 11 doanh nghiệp, còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì tăng lên theo từng năm,
từ 157 đơn vị năm 2003 lên 241 đơn vị năm 2004 và đến 2005 là 258 đơn vị. Cá nhân cũng


là khách hàng tiềm năng của khách hàng nên được Ngân hàng rất chú trọng, năm 2003
khách hàng cá nhân có quan hệ tiền gửi tại Chi nhánh là 1.195 người, sang năm 2004 là
2.483 người và năm 2005 là 3.006 người.
Nguyên nhân là các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn ngày càng kém hiệu quả nên số
vốn họ cần tăng lên. Không chỉ số tiền gửi giảm mà các doanh nghiệp này phải đi vay để
bù đắp nguồn vốn cho mình. Ngược lại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng lớn
mạnh về số lượng lẫn chất lượng. Hoạt động kinh doanh của họ ngày càng phát triển nhờ
những những chính sách linh hoạt theo xu hướng thị trường. Bên cạnh đó đời sống người
dân ngày càng tăng lên, các khách hàng cá nhân trên địa bàn cũng ý thức hơn vai trò của
ngân hàng, và họ chọn hình thức gửi tiền vào Ngân hàng là một giải pháp an toàn nhất. Vì
vậy, Chi nhánh cần có biện pháp cụ thể để thu hút tiền gửi của hai đối tượng này.
Tiền gửi của các tổ chức tín dụng chiếm tỷ lệ thấp nhất. Năm 2003 và 2004 Ngân
hàng chỉ có quan hệ với các tổ chức tín dụng trong nước. Cụ thể là năm 2003 là 12 ngân
hàng, sang năm 2005 còn 4 ngân hàng, sang năm 2005 số ngân hàng có quan hệ tiền gửi là
6 đồng thời Chi nhánh đã mở rộng mối quan hệ với các ngân hàng quốc tế. Mối quan hệ
với các ngân hàng thường là phục vụ trong việc thanh toán nên số tiền gửi thường không
cao. Nhưng nhìn chung thì mối quan hệ với các tổ chức tín dụng của Chi nhánh là còn ít,
vậy nên Ngân hàng cần mở rộng quan hệ với các Ngân hàng để phục vụ nhu cầu thanh toán
thuận lợi hơn cho khách hàng.
Cần Thơ đã trở thành thành phố trực thuộc Trung Ương hơn 3 năm nay, đời sống
còn thấp so với khu vực nói riêng và cả nước nói chung. Tâm lý người dân lại thường chỉ
tin tưởng những ngân hàng lớn (là những ngân hàng thương mại Nhà nước) và hình như
không muốn thay đổi thói quen đó. Đối mặt với những khó khăn đó, để có thể tồn tại và
thúc đẩy việc kinh doanh ngày càng phát triển, đòi hỏi EIB Cần Thơ cũng như các ngân
hàng khác phải nâng cao chất lượng huy động vốn để thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân cư. Hơn nữa, do điều kiện tăng trưởng của nền kinh tế, nhu cầu về vốn của các
cá nhân và doanh nghiệp ngày càng cao, càng trở nên cấp thiết thì việc phát huy tốt công
tác huy động vốn là điều cực kỳ quan trọng. EIB Cần Thơ đã không ngừng nỗ lực để giữ
khách hàng cũ, lôi kéo nhiều khách hàng mới và được đánh giá là Ngân hàng huy động vốn
hiệu quả trong những năm gần đây. Để hiểu rõ hơn về công tác huy động vốn của Ngân

hàng, ta sẽ đi sâu vào phân tích tình hình huy động vốn của Ngân hàng trong 3 năm trở lại
đây (2003-2005).
Bảng 04: Tình hình huy động vốn, giai đoạn 2003-2005
ĐVT: Triệu đồng.
Chỉ tiêu 2003 2004 2005
2004/2003 2005/2004
Số tiền % Số tiền %
1. Vốn HĐ từ KH 99.604 122.449 214.780 22.845 22,94 92.331 75,4
+ TG thanh toán 26.734 36.40
3
50.27
1
9.669 36,17 13.868 38,1
+ TG tiết kiệm 68.571 84.43
9
141.3
55
15.868 23,14 56.916 67,4
+ Phát hành
GTCG
4.299 1.607 23.15
4
(3.232) (75,18) 21.547 1340
2.Vốn HĐ
TCTD
74 820 67 746 1.008 (753) (91,8)
Tổng cộng 99.678 123.2
69
214.8
48

23.591 23,67 91.579 74,29
(Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ.)
Vốn huy động là nguồn vốn mà Ngân hàng huy động tại chỗ với nhiều hình thức.
Nguồn vốn huy động càng lớn càng tạo thế chủ động trong việc cho vay và tạo ra lợi nhuận
cho Ngân hàng. Từ năm cuối năm 2003, EIB Cần Thơ áp dụng phần mềm Korebank nên
việc huy động dễ dàng và hiệu quả hơn. Chính công nghệ đã tạo cho Ngân hàng một bước
đột phá trong công tác huy động vốn. Vốn huy động của yếu là từ các tổ chức kinh tế và cá
nhân trên địa bàn.
1.1.Vốn huy động từ khách hàng:
Năm 2003, do tình hình nợ xấu còn tồn đọng, và khách hàng chưa thực sự đủ tin
tưởng để gửi gắm niềm tin vào Ngân hàng nên chủ yếu là khách hàng cũ với tiền gửi thanh
toán là 26.734 triệu đồng, tiền gửi tiết kiệm là 68.571 triệu đồng. Để tăng cường nguồn
vốn cho mình, Ngân hàng đã phát hành giấy tờ có giá với số tiền là 4.299 triệu đồng. Năm
2004, tình hình huy động vốn của Ngân hàng có những bước khởi sắc mới. Vốn huy động
từ khách hàng là 122.449 triệu đồng, tăng 22,94 % so với năm 2003, trong đó tiền gửi
thanh toán tăng 36,17%, tiền gửi tiết kiệm tăng 23,14 %, còn phát hành giấy tờ có giá giảm
75,18 %. Nguyên nhân là năm 2004 là TP Cần thơ trực thuộc Trung ương nên Đảng và Nhà
nước có rất nhiều dự án đầu tư vào đây nhằm đổi mới bộ mặt toàn thành phố. Đứng trước
thời cơ đó, các tổ chức kinh tế tiến hành dự trữ và gửi tiền vào Ngân hàng nhằm tìm kiếm
cơ hội đầu tư khi thời điểm thích hợp.
Năm 2005 thì được coi là bước đột phá trong công tác huy động vốn của Ngân hàng.
Vốn huy động từ khách hàng tăng 91.331 triệu đồng, tương đương 75,4% so năm 2004.
Trong đó tiền gửi thanh toán tăng 38,1%, đáng nói là tiền gửi tiết kiệm tăng 56.916 triệu
đồng, tức tăng 67,4 %. Song song với tiền gửi tiết kiệm tăng thì huy động từ phát hành
giấy tờ có giá cũng tăng mạnh mẽ, lên tới 1.340 % so với năm 2004. Lý do chính là Chi
nhánh đã sử dụng rất nhiều hình thức huy động vốn hấp dẫn như tiết kiệm có dự thưởng,
khuyến mãi, lãi suất huy động thì vào loại cao nhất so với các ngân hàng trên địa bàn….
EIB Cần Thơ đã dần khẳng định được vị thế của mình, tạo niềm tin nơi khách hàng.
1.2. Vốn huy động từ các tổ chức tín dụng.
Về vốn huy động từ các tổ chức tín dụng thì năm 2003 là 74 triệu đồng, năm 2004 là

820 triệu đồng, sang năm 2005 còn 67 triệu đồng. Nguyên nhân của sự tăng giảm bất
thường như vậy là do tình hình cho vay vốn ở các ngân hàng khác không ổn định. Nhận xét
về công tác huy động vốn từ các tổ chức tín dụng là chưa thật hiệu quả vì có sự cạnh tranh
gay gắt giữa các ngân hàng trên địa bàn.
Các phương thức huy động vốn biến động cụ thể như thế nào, ta sẽ đi sâu vào phân
tích từng loại tiền gửi cụ thể.
2. Các phương thức huy động vốn.
2.1. Tiền gửi thanh toán.
Tiền gửi thanh toán ở Ngân hàng chủ yếu là các tổ chức kinh tế. Do yêu cầu trong
sản xuất kinh doanh cũng như thấy rõ được những tiện ích từ các sản phẩm, dịch vụ nên
ngày càng có nhiều doanh nghiệp giao dịch thường xuyên với Ngân hàng.
Bảng 5: Tình hình Tiền gửi thanh toán qua 3 năm
Chỉ tiêu
2003 2004 2005 2004/2003 2005/2004
Số
tiền
%
Số
tiền
%
Số
tiền
%
Số
tiền
%
Số
tiền
%
1.TG không KH 26.385 98,7 33.003 90,6 46.170 91,8 6.618 25,1 13.167 39,9

2.TG có KH 349 1,3 3.400 9,34 4.101 8,16 3.051 874, 701 20,6
+ TGKH <12t 349 726 108 377 108 (618) (85)
+ TGKH > 12t - 2.674 3.993 2.674 - 1.319 49,3
Tổng cộng 26.734 100 36.403 100 50.271 100 9.669 36,2 13.868 38,1
ĐVT: Triệu đồng.
. (Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ).
Với phương châm “khách hàng là thượng đế”, Ngân hàng luôn đáp ứng tốt nhất
trong khả năng của mình mọi nhu cầu của khách hàng. Kết quả là tiền gửi thanh toán năm
2004 là 36.403 triệu đồng, tăng 9.669 triệu đồng, tương ứng 36,17 % so với năm 2003.
Năm 2005 là 50.271 triệu đồng, tăng 38,1% so với năm 2004.
2.1.1. Tiền gửi thanh toán không kỳ hạn:
Đây là khoản tiền nhàn rỗi của các cá nhân, doanh nghiệp, là khoản tiền mà người gửi
có thể rút ra bất kỳ thời gian nào mà không cần thông báo trước. Mục đích của loại tiền gửi
này đối với các doanh nghiệp là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản, thực hiện các khoản chi
trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chi trả lương cho nhân viên của doanh nghiệp,
đồng thời hạn chế được chi phí tổ chức thanh toán, bảo quản tiền và vận chuyển tiền. Nắm
rõ được những lợi ích đó nên số lượng doanh nghiệp gửi tiền càng tăng lên. Năm 2003,
loại tiền gửi này huy động được 26.385 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 98,3% trong tổng số tiền
gửi thanh toán, năm 2004 là 33.003 triệu, tăng 6.618 triệu đồng, tức 25,08 % so với năm
2003, nhưng tỷ trọng lại giảm, chiếm còn 90,6% tổng tiền gửi thanh toán. Năm 2005 là
46.170 triệu đồng, tăng 13.167 triệu tức là 39,9 % so với năm 2004.
Sự gia tăng đáng kể của tiền gửi thanh toán không kỳ hạn là do Ngân hàng tiến hành
hiện đại hoá trên mọi phương diện. Phần mềm Korebank được áp dụng đã cải tiến các dịch
vụ của Ngân hàng một cách hoàn chỉnh và tích hợp thông qua nhiều kênh phân phối, bao
gồm mạng ATM, Phonebanking, mobilebanking, internetbanking…, đặc biệt là việc giao
dịch một cửa đã phát huy tính ưu việt như tạo cho khách hàng sự thoải mái, nhanh chóng,
chính xác khi giao dịch với Ngân hàng.
Các loại thẻ tín dụng cũng là một hình thức của tiền gửi thanh toán không kỳ hạn.
Đây là một thị trường tiềm năng rất lớn đối với các Ngân hàng vì những tiện ích mà thẻ
đem lại. Lợi ích của các loại thẻ là giúp Ngân hàng thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong nền

kinh tế với chi phí thấp nhất, tạo sự khác biệt về chất lượng phục vụ và thương hiệu để
cạnh tranh, giảm thiểu chi phí vận hành và tăng hiệu quả kinh doanh cho Ngân hàng. Ta
hãy đi sâu vào tìm hiểu tình hình huy động vốn qua phát hành thẻ ở EIB Cần Thơ.
**.Tình hình phát hành và thanh toán các loại thẻ tại EIB Cần Thơ.
Bên cạnh khách hàng là doanh nghiệp thì khách hàng cá nhân chiếm một tỷ lệ đáng
kể, đặc biệt là khi Ngân hàng đa dạng hóa các loại thẻ ra thị trường. EIB Cần Thơ đã đa
dạng hoá các loại thẻ nhằm tạo cho khách hàng nhiều sự lựa chọn và thuận lợi hơn trong
giao dịch. Ngoài các loại thẻ ATM, Visa, Master Card, năm 2005 Eximbank còn là Ngân
hàng đầu tiên phát hành thẻ quốc tế với thương hiệu Eximbank - Visa Debit với tác dụng
như ví tiền có thể đi khắp thế giới. Với tính thuận lợi và ưu việt của chúng, số lượng khách
hàng sử dụng thẻ ngày càng nhiều. Đây là cơ hội để Ngân hàng huy động vốn. Vì vậy, bên
cạnh các hình thức tiết kiệm có dự thưởng áp dụng cho các loại tiền gửi ngắn hạn thì Ngân
hàng cũng chú trọng vào việc khuyến khích dân chúng sử dụng thẻ của Ngân hàng, cụ thể
như chương trình “Thông điệp hoa hồng”. Đồng thời các giải thưởng bằng tiền mặt đều
trao cho khách hàng thông qua thẻ ATM.
Bảng 06: Tình hình phát hành và thanh toán thẻ.
Chỉ tiêu 2003 2004 2005
Số thẻ Doanh số
(Tr. đg)
Số thẻ Doanh số
(Tr. đg)
Số
thẻ
Doanh số
(Tr. đg)
ATM - - 1.298 1.537 3.700 9.694
Visa 46 1,2 285 3,5 420 6
Master 200 0,67 312 1,7 520 4
Visa Debit - - - - 138 100,5
(Nguồn: Tổ Thẻ EIB Cần Thơ.)

Qua bảng ta thấy tình hình phát hành và thanh toán thẻ ngày một tăng cả về số lượng
thẻ lẫn doanh số. Năm 2003, thị trường thẻ còn trầm lắng do Ngân hàng chưa đầu tư vào
công tác tiếp thị nên người dân chưa hiểu nhiều về tác dụng của thẻ cũng như ít chú ý đến
chúng. Năm 2004 thì có dấu hiệu khả quan hơn, đặc biệt là Ngân hàng cho phát hành thẻ
ATM và được sự hưởng ứng của người dân. Đi cùng với nền kinh tế trên đà tăng trưởng và
đời sống người dân nâng cao, sự tiện ích và nhanh chóng luôn được chú trọng. Năm 2005
có thể nói là bước ngoặt của loại hình kinh doanh thẻ ở EIB Cần Thơ. Các loại thẻ quốc tế
tăng mạnh, Visa phát hành 520 thẻ, doanh số thu được là 6 triệu đồng. Master có doanh số
là 4 triệu đồng. Riêng Visa Debit vừa tham gia thị trưòng vào khoảng cuối năm 2005 đã
được khách hàng ưa chuộng, tuy phát hành 138 thẻ nhưng doanh số là 100,5 triệu đồng.
Nguyên nhân là do công tác tiếp thị của tổ thẻ tại chi nhánh tập trung vào các đối tượng có
nhu cầu sử dụng như: các giảng viên Đại học Cần Thơ, bác sỹ, doanh nhân hay các du học
sinh...
Với loại thẻ ATM cũng tăng rất nhanh. Năm 2005 phát hành 3.700 thẻ đạt 9.694 triệu
đồng doanh thu. Lý do là trong năm các doanh nghiệp đã tham gia trả lương cho cán bộ
công nhân viên qua tài khoản tại EIB Cần Thơ như: Công ty Meko, Coopmark Cần Thơ,…
Một phần nữa là do chi nhánh không thu phí phát hành nên thu hút nhiều khách hàng tham
gia.
2.1.2. Tiền gửi thanh toán có kỳ hạn.
Do nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế chỉ là tạm thời, là sự dự trữ để chờ
cơ hội đầu tư nên các doanh nghiệp thường gửi tiền theo loại tiền gửi không kỳ hạn. Tỷ lệ
tiền gửi thanh toán có kỳ hạn chiếm một phần rất nhỏ trong các loại tiền gửi. Nhìn vào
bảng ta thấy tiền gửi kỳ hạn trên 12 tháng vẫn được khách hàng ưa chuộng hơn vì đây là
thời gian vừa phải để khách hàng chọn thời hạn đầu tư hợp lý. Và loại này chủ yếu là tiền
gửi của doanh nghiệp. Lượng tiền gửi có kỳ hạn năm 2003 là 349 triệu đồng. Sang năm
2004 thì có sự tăng trưởng mạnh mẽ, Ngân hàng đã huy động được 3.400 triệu đồng, tăng
847,2% so với năm 2003. Năm 2005, tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng đã giảm xuống đáng
kể (còn 108 triệu, giảm 85,12 % so với năm 2004), tiền gửi kỳ hạn trên 12 tháng tăng
49,33%.
Nguyên nhân là tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động. Vụ kiện bán phá giá

tôm và cá ba sa của Mỹ và EU đã làm ảnh hưởng đến các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản
trong nước, mà đồng bằng sông Cửu Long là khu vực nuôi trồng và chế biến tôm lớn nhất
Việt Nam. Thêm vào đó, đồng Dollar Mỹ (USD) cũng không ổn định làm cho việc kinh
doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp ngừng trệ. Để an toàn và chờ tình hình mới sáng
sủa hơn, số lượng doanh nghiệp gửi tiền vào Ngân hàng tăng. Năm 2005 thì tình hình kinh
tế diễn ra cũng phức tạp theo những chiều hướng mới, người dân lo sợ đồng tiền mất giá
nên các khách hàng có tài khoản tiền gửi bằng ngoại tệ đã rút để mua vàng cất giữ.
Loại tiền gửi thanh toán có kỳ hạn ít được khách hàng quan tâm tới và có tỷ lệ tiền
gửi thấp do lãi suất không hấp dẫn bằng tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Mặc dù tăng qua các
năm nhưng doanh số chưa cao, vì vậy Ngân hàng chú trọng hơn vào loại tiền gửi này bằng
cách sử dụng những hình thức huy động vốn hấp dẫn hơn như khuyến mãi, tăng lãi suất.
2.2. Tiền gửi tiết kiệm.
Tiền gửi tiết kiệm luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động, và
cũng là loại tiền mà Ngân hàng dành nhiều “ưu ái” nhất. Đây là lượng tiền nhàn rỗi của
dân chúng, các đơn vị kinh tế nhằm mục đích chính là hưởng phần lãi suất mà Ngân hàng
trả cho khách hàng khi gửi tiền. Thời hạn càng cố định, thời gian càng dài thì lãi suất thu
được càng cao, nên hầu hết khách hàng đều thích gửi tiền có kỳ hạn mà đặc biệt là loại tiền
gửi kỳ hạn dưới 12 tháng để phòng ngừa những rủi ro khách quan xảy ra. Nguyên nhân của
sự chênh lệch đó là do các khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn tạo ra nguồn vốn ổn định cho
Ngân hàng hoạt động, còn tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn thì ngược lại, nó sẽ làm nguồn
vốn hoạt động của Ngân hàng không ổn định vì khách hàng có thể rút tiền bất kỳ lúc nào
họ cần. Vì vậy, để thu hút khách hàng gửi tiền có kỳ hạn, tạo tiền đề cho sự hoạt động của
Ngân hàng thì đòi hỏi các Ngân hàng phải để lãi suất tiền gửi không kỳ hạn thấp hơn tiền
gửi có kỳ hạn.
Bảng 07: Tình hình tiền gửi tiết kiệm qua 3 năm (2003-2005)
ĐVT: Triệu đồng.
Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2004/2003 2005/2004
Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền %
1.TG K KH 6.240 9,1 3.372 3,9 2.036 1,44 (2.868) (46) (1.336) (39,6)
2.TG có KH 62.331 90,9 81.067 96,1 139.319 98,6 18.736 30,1 49.928 61,6

+TGKH<12t 42.136 58.016 103.560 15.880 37,7 45.544 78,5
+TGKH>12t 20.195 23.051 35.759 2.856 14,1 12.708 55,1
Tổng cộng 68.571 100 84.439 100 141.355 100 15.868 23,1 56.916 67,4
(Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ).
2.2.1. Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Mục đích của khách hàng gửi tiền tiết kiệm không kỳ hạn là nhằm sinh lợi cho số
tiền tạm thời nhàn rỗi. Xét về cơ cấu, loại tiền gửi này luôn chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng
nguồn vốn. Qua 3 năm, phương thức huy động này giảm mạnh. Cụ thể năm 2003, tiền gửi
tiết kiệm không kỳ hạn là 6.240 triệu đồng, chiếm 9,1% tổng tiền gửi tiết kiệm. Sang năm
2004 chỉ còn 3.372 triệu đồng chiếm 3,93 % và giảm 46% so với năm 2003. Đến năm 2005
thì lượng tiền gửi này còn 2.036 triệu đồng, giảm 39,6% so năm trước đó. Nguyên nhân là
do loại tiền này mang lại cho khách hàng lãi không cao, nên nếu họ có vốn nhàn rỗi tạm
thời thì họ gửi hình thức tiền gửi thanh toán không kỳ hạn như sử dụng thẻ để thuận tiện
hơn trong việc rút tiền.
2.2.2. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn xác định thời gian hoàn trả cho khách hàng nên nó tạo
ra nguồn vốn ổn định cho Ngân hàng, và Ngân hàng có thể chủ động đầu tư cho vay trung
và dài hạn. Nắm được lợi thế của loại tiền gửi này, EIB Cần Thơ luôn dùng những hình
thức huy động tốt nhất nhằm làm tăng nguồn vốn cho mình. Năm 2003, tiền gửi kỳ hạn
dưới 12 tháng là 42.136 triệu đồng, sang năm 2004 là 58.016 triệu đồng, tăng 15.880 triệu
đồng tương đương 37,69%. Đến năm 2005 thì có sự tăng trưởng vượt bậc từ những nguyên
nhân trên là 103.560 triệu đồng, tăng 78,5 so với năm 2004. Đối với loại tiền gửi kỳ hạn
trên 12 tháng thì tuy không biến động mạnh như tiền gửi ngắn hạn nhưng chúng cũng tăng
lên đáng kể. Năm 2004 tăng 2.856 triệu đồng. Năm 2005 tăng 12.708 triệu đồng, tương
đương 55,13% so với năm 2004.
Để có những kết quả đó, các chương trình tiết kiệm có dự thưởng được Ngân hàng
áp dụng liên tục, chủ yếu huy động các loại tiền gửi ngắn hạn (dưới 12 tháng) và đây cũng
là loại tiền gửi mà khách hàng ưu chuộng nhất nhằm giảm rủi ro, nhất là khi khách hàng
gửi tiền bằng ngoại tệ. Thêm vào đó, chi nhánh luôn theo sát diễn biến tình hình huy động
vốn trên địa bàn, nhằm điều chỉnh mức lãi suất phù hợp, hấp dẫn, chú trọng nâng cao chất

lượng dịch vụ cung cấp. Hơn nữa, sự nhận thức về vai trò quan trọng của Ngân hàng ngày
càng được người dân quan tâm và tiếp cận. Do vậy Ngân hàng đã thu hút ngày càng nhiều
lượng nguồn vốn nhàn rỗi của dân chúng.
2.3. Tình hình phát hành giấy tờ có giá.
Trong các phương thức huy động vốn từ khách hàng thì giấy tờ có giá có số lượng
tiền huy động thấp nhất. Điều này cũng dễ hiểu vì tính chất của các loại giấy tờ có giá là
thường có lãi suất cao nhưng kỳ hạn dài, và chỉ được rút tiền khi đáo hạn, nên người dân
không "mặn mà" lắm với loại tiền gửi này mà thích gửi tiền theo loại truyền thống là gửi
tiết kiệm.
Bảng 08: Tình hình phát hành giấy tờ có giá qua 3 năm (2003-2005).
ĐVT: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
2003 2004 2005 2004/2003
2005/2004
Số tiền Số tiền Số tiền Số tiền % Số tiền %
Giấy tờ có giá 4.299 1.607 23.154 (3.232) (75,18) 21.547 1340,8
(Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ).
Tình hình phát hành giấy tờ có giá của EIB biến động không ổn định. Năm 2003,
vốn huy động từ lợi tiền gửi này là 4.299 triệu đồng, sang năm 2004 giảm xuống còn 1.607
triệu đồng, tức đã giảm đi 62,6%. Nguyên nhân là do tình hình kinh tế chính trị thế giới
diễn biến khá phức tạp. Để đảm bảo an toàn, người dân đổ xô đi mua vàng hoặc nếu gửi
tiền vào Ngân hàng thì chọn loại tiền gửi kỳ hạn ngắn hạn. Năm 2005, như đã phân tích ở
những phần trên thì Ngân hàng đã dùng nhiều chính sách nhằm phát huy hiệu quả huy
động vốn, nhưng mặc dù phát hành giấy tờ có giá tăng lên (23.154 triệu đồng, tương
đương 1340,8% so với năm 2004) nhưng so với tổng nguồn vốn huy động, phương thức
huy động này còn chiếm tỷ lệ nhỏ. Vì giấy tờ có giá là công cụ để huy động tiền gửi tiết
kiệm có kỳ hạn ổn định – do Ngân hàng phát hành ra nhằm mục đích kinh doanh trong
từng thời kỳ nhất định, là nguồn vốn mà Ngân hàng có thể sử dụng cho hoạt động đầu tư,
nên Ngân hàng cần chú trọng đến loại tiền gửi này, làm sao để cho người dân hiểu được
tác dụng và tiện ích của giấy tờ có giá đem lại, và để huy động với số lượng tiền lớn hơn.

2.4. Vốn huy động từ các tổ chức tín dụng.
Tiền gửi của các tổ chức tín dụng nhằm mục đích đảm bảo nhu cầu chuyển tiền dịch
vụ, thanh toán liên hàng…Mỗi Ngân hàng phải có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà
nước, kho bạc Nhà nước và một số tổ chức tín dụng khác, nhằm để thực hiện các khoản
thanh toán, chuyển tiền, chi trả (thông qua các dịch vụ chi hộ, thu hộ, uỷ nhiệm chi, sec…)
cho khách hàng ở Ngân hàng khác. Đây cũng là khoản tiền gửi tạm thời của các Ngân hàng
bạn khi phát sinh tình trạng thừa vốn, và nếu khách hàng cần vay thì số vốn này sẽ được
điều chuyển về đáp ứng nhu cầu khách hàng.

Bảng 09: Tình hình tiền gửi của các tổ chức tín dụng
ĐVT: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
2003 2004 2005 2004/2003
2005/2004
Số tiền Số tiền Số tiền Số tiền % Số tiền %
TG của TCTD 74 820 67 746 1008,1 (753) (91,83)
(Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ).
Từ bảng số liệu qua 3 năm, ta thấy tình hình tiền gửi của các tổ chức tín dụng có sự
biến động bất thường. Năm 2003 là 74 triệu đồng, sang năm 2004 là 820 triệu đồng, tăng
1008,1%. Năm 2005 là 67 triệu đồng, giảm 91,83% so với năm 2004. Nguyên nhân là do
năm 2004 tình hình kinh tế chính trị thế giới và khu vực biến động khá phức tạp nên việc
gửi tiền để đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng ở các tổ chức tín dụng tăng. Năm
2005, mặc dù mối quan hệ của EIB Cần Thơ được mở rộng ra với các ngân hàng nhưng do
số lượng doanh nghiệp mới thành lập cũng như mở rộng quy mô sản xuất ngày càng tăng
nên họ cần vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh, và chính Ngân hàng là nơi cung cấp vốn lý
tưởng cho họ. Kết quả là lượng tiền gửi của các TCTD năm 2005 chỉ khoảng 67 triệu
đồng.
Nhận xét chung ta thấy lượng tiền gửi của các TCTD vào EIB Cần Thơ còn thấp. Vì
việc huy động từ các tổ chức tín dụng có lãi suất cao hơn huy động từ dân chúng nên việc
hạn chế loại tiền gửi này cũng là một điều tốt. Nhưng qua 3 năm thì số lượng TCTD có

quan hệ tài khoản tại Ngân hàng là 6 Ngân hàng, thể hiện mối quan hệ với các ngân hàng
bạn chưa nhiều. Vì vậy bên cạnh đầu tư phát triển các sản phẩm, dịch vụ thì mở rộng mối
quan hệ với các khách hàng là các tổ chức tín dụng cũng vô cùng cần thiết. Đó là một trong
những mục tiêu hướng tới sự phát triển bền vững của Ngân hàng.
3. Các chỉ tiêu đánh giá tình hình huy động vốn, giai đoạn 2003-2005.
3.1. Tỷ trọng của từng phương thức huy động trên Tổng vốn huy động .
Nguồn vốn huy động của Ngân hàng EIB Cần Thơ rất đa dạng, huy động từ nhiều
nguồn khác nhau: từ các tổ chức kinh tế, từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư, từ việc phát hành
giấy tờ có giá…Nhưng tóm lại, nguồn vốn huy động của Ngân hàng được phân ra thành
huy động ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Cơ cấu vốn huy động thay đổi rất linh hoạt, nó
phụ thuộc vào chiến lược kinh doanh của Ngân hàng trong từng thời kỳ nhất định. Qua
phân tích ở chương 3 ta thấy nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh
toán luôn chiếm tỷ trọng cao, còn vốn huy động từ các nguồn khác như huy động từ các
TCTD, phát hành giấy tờ có giá,…không ổn định và chiếm tỷ lệ khá nhỏ.
Bảng 10 : Tỷ trọng của từng phương thức huy động trên tổng vốn
huy động
ĐVT: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
2003 2004 2005
Số tiền % Số tiền % Số tiền %
1. TG thanh toán 26.734 26,82 36.403 29,53 50.271 23,4
+ TG không kỳ hạn 26.385 26,47 33.003 26,77 46.170 21,49
+TG có kỳ hạn 349 0,35 3.400 2,76 4.101 1,91
2. TG tiết kiệm 68.571 68,8 84.439 68,5 141.355 65,8
+ TG không kỳ hạn 6.240 6,26 3.372 2,74 2.036 0,95
+ TG có kỳ hạn 62.331 62,54 81.067 65,76 139.319 64,85
3. Phát hành GTCG 4.299 4,31 1.608 1,3 23.154 10,77
4. TG của TCTD 74 0,07 820 0,67 67 0,03
Tổng nguồn vốn HĐ 99.678 100 123.269 100 214.848 100
(Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ).

+ Tiền gửi tiết kiệm: Qua 3 năm, tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm chiếm nhiều nhất trong
tổng nguồn vốn huy động và có xu hướng tăng cao. Năm 2003, loại tiền gửi này huy động
được 68.571 triệu đồng, chiếm 68,8% tổng vốn huy động. Sang năm 2004 tăng lên 84.439
triệu đồng nhưng chiếm 68,5% do tỷ trọng tiền gửi thanh toán tăng cao hơn. Năm 2005 là
141.355 triệu đồng. Trong đó tiền gửi có kỳ hạn chiếm tỷ lệ cao hơn tiền gửi tiết kiệm
không kỳ hạn. Nguyên nhân chủ yếu là đời sống của một số người dân ngày càng tăng, họ
đã có “của ăn của để” cũng như ngày càng tin tưởng ở Ngân hàng với hàng loạt các
chương trình tiết kiệm có dự thưởng hấp dẫn. Lựa chọn hình thức gửi tiết kiệm vào Ngân
hàng là an toàn nhất. Tuy nhiên, dân chúng nhìn chung vẫn chưa quen lắm với hình thức
tích luỹ tiền qua Ngân hàng. Ngân hàng cần đầu tư hơn nữa đến công tác tiếp thị, quảng bá
Ngân hàng mình cũng như mở nhiều phòng giao dịch hơn để gần gũi với dân hơn.
Hình 02: Các phương thức huy động vốn.

+ Tiền gửi thanh toán: Tiền gửi thanh toán cũng là một thế mạnh của Ngân hàng.
Tuy tỷ trọng không chiếm tỷ lệ cao như tiền gửi tiết kiệm nhưng nó lại hứa hẹn một tương
lai rất sáng sủa vì số lượng doanh nghiệp giao dịch và gửi tiền dùng để thanh toán ngày
càng cao. Bên cạnh đó số lượng khách hàng sử dụng thẻ thanh toán nội địa và thanh toán
quốc tế cũng tăng mạnh. Số liệu qua 3 năm cho ta thấy tiền gửi thanh toán vẫn tăng đều
đều và chiếm tỷ trọng cao dần so với tổng vốn huy động. Ngược lại với tiền gửi tiết kiệm
thì tiền gửi thanh toán không kỳ hạn chiếm tỷ lệ cao hơn tiền gửi thanh toán có kỳ hạn.
Năm 2003 tiền gửi thanh toán là 26.734 triệu đồng, chiếm 26,82% tổng vốn huy động.
Năm 2004 là 36.403 triệu đồng, chiếm 26, 53%. Năm 2005 là 50.271 nhưng tỷ trọng chiếm
23,4% tổng nguồn vốn huy động. Nguyên nhân của sự giảm sụt này như đã phân tích, các
chương trình tiết kiệm có dự thưởng ở phương thức tiền gửi tiết kiệm đã thu hút một số
lượng lớn khách hàng nên tiền gửi thanh toán có tăng nhưng tỷ lệ thì giảm xuống.
+ Phát hành giấy tờ có giá: Để đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn thì
Ngân hàng cần phải có một nguồn vốn có tính chất ổn định. Qua 3 năm tình hình phát hành
giấy tờ có giá có sự biến động thất thường, tuy nhiên chúng chiếm lại tỷ lệ nhỏ trên vốn
huy động. Năm 2003 chiếm 4,3%, năm 2004 chiếm còn 1,3%, sang năm 2005 chiếm
10,77%.

+ Tiền gửi của các tổ chức tín dụng: Tiền gửi của các tổ chức tín dụng thì chiếm 1 tỷ
lệ rất nhỏ. Từ bảng cho thấy qua 3 năm phương thức huy đồng này đều chiếm dưới 1%.
Để đánh giá hiệu quả huy động vốn, các chỉ tiêu sau được sử dụng:
4. 2. Vốn huy động / tổng nguồn vốn.
Bảng 11: Tỷ trọng vốn huy động trên tổng nguồn vốn
.
Chỉ tiêu ĐVT 2003 2004 2005
1. Vốn huy động Tr. đg 99.678 123.269 214.848
2. Tổng nguồn vốn Tr. đg 289.442 353.903 447.087
VHĐ/ Tổng NV % 34,44 34,83 48,06
(Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ.)
Qua bảng ta nhận xét, tỷ trọng vốn huy động trên tổng nguồn vốn năm 2004 là
34,83%, chỉ tăng lên một lượng rất nhỏ so với năm 2003. Sang năm 2005 thì tỷ trọng này
tăng khá cao, vốn huy động đã chiếm 48,06% trên tổng vốn. Đây là bước tăng trưởng khá
nhanh của Ngân hàng. Tuy chưa đạt đến 50% nhưng với tốc độ tăng như thế sẽ hứa hẹn
một một tương lai sáng sủa trong công tác huy động vốn. Phát huy những gì đang có, Ngân
hàng cần đẩy mạnh hơn nữa công tác huy động, tăng cường quảng bá tiếp thị sâu rộng đến
mọi tầng lớp nhân dân, giữ vững khách hàng cũ, lôi kéo khách hàng mới từ nền kinh tế để
chủ động hơn trong việc sử dụng vốn.
4.3. Vốn điều chuyển/ tổng nguồn vốn.

×