Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Phát triển thế giới quan duy vật biện chứng của học viên Trường chính trị Hưng Yên.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN VĂN THIỆP

PHÁT TRIỂN THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN
CHỨNG CỦA HỌC VIÊN TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
HƯNG YÊN HIỆN NAY
Chuyên ngành

: Triết học

Mã số

: 60 22 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Văn Tài

Hà Nội - 2012

1


BẢNG QUY ƯỚC VIẾT TẮT

CNCS :

Chủ nghĩa Cộng sản


CNXH :

Chủ nghĩa xã hội

CNH :

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNTB :

Chủ nghĩa tư bản

HĐH :

Hiện đại hóa

XHCN :

Xã hội chủ nghĩa

TBCN :

Tư bản chủ nghĩa

LỜI CAM ĐOAN

2


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của GS.TS. Nguyễn Văn Tài.
Các số liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực, bảo
đảm tính khách quan. Các tài liệu tham khảo có nguồn
gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày

tháng

Tác giả

Nguyễn Văn Thiệp

3

năm 2012.


Mục lục

Trang
Mở đầu

1

Chương 1: Bản chất phát triển thế giới quan duy vật biện chứng

7

của học viên Trường chính trị Hưng Yên
1.1


Khái niệm và vai trò thế giới quan duy vật biện chứng của học viên

1.1.1

Trường chính trị Hưng Yên

1.1.2

Khái niệm thế giới quan duy vật biện chứng của học viên Trường

7

7

chính trị Hưng Yên
Vai trò thế giới quan duy vật biện chứng của học viên Trường chính
18

trị Hưng Yên
1.2

Thực chất phát triển thế giới quan duy vật biện chứng của học viên

32

Trường chính trị Hưng Yên
1.2.1

Phát triển thế giới quan duy vật biện chứng của học viên Trường


32

chính trị Hưng Yên
1.2.2
Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển thế giới quan duy vật
biện chứng của học viên Trường chính trị Hưng Yên
Chương 2: Tình hình và một số giải pháp cơ bản phát triển thế

40
52

giới quan duy vật biện chứng của học viên Trường
chính trị Hưng Yên hiện nay
2.1.

Tình hình phát triển thế giới quan duy vật biện chứng của học viên

52

Trường chính trị Hưng Yên hiện nay
2.1.1

Đánh giá thực trạng phát triển thế giới quan duy vật biện chứng của
học viên Trường chính trị Hưng Yên hiện nay
Dự báo những nhân tố tác động đến phát triển thế giới quan duy vật

4

52



2.1.2

biện chứng của học viên Trường chính trị Hưng Yên hiện nay

75

Những yêu cầu đặt ra cho sự phát triển thế giới quan duy vật biện
chứng của học viên Trường chính trị Hưng Yên hiên nay
2.1.3

2.2

83

Một số giải pháp cơ bản phát triển thế giới quan duy vật biện chứng

88

của học viên Trường chính trị Hưng Yên
2.2.1

Nâng cao chất lượng đào tạo ở nhà trường

88

2.2.2

Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục chính trị trong quá trình


100

giáo dục, đào tạo ở nhà trường hiện nay
Xây dựng và phát huy vai trò tích cực của môi trường văn hóa trong
2.2.3

104

nhà trường
Phát huy tính tích cực trong tự học tập, rèn luyện của học viên

2.2.4

107
Kết luận

111

Danh mục tài liệu tham khảo

114

5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay chúng ta đi vào xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, việc xây dựng con người vừa “hồng” vừa “chuyên”, đồng thời phát

huy nhân tố con người là yêu cầu cấp bách. Ở đây, vai trò của đội ngũ cán bộ
càng có ý nghĩa quyết định. Trước diễn biến đa dạng phức tạp trên thế giới và
trong nước đòi hỏi người cán bộ phải có bản lĩnh chính trị, tri thức khoa học
vững vàng để nhận thức và hoạt động đúng đắn, phù hợp với quy luật khách
quan của đất nước và xu thế của thời đại. Trong công tác cán bộ, việc phát
triển thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
hiện nay là vấn đề vừa cơ bản vừa cấp bách. Bởi vì, thế giới quan khoa học là
cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
định hướng đúng đắn cho hoạt động thực tiễn. Hay nói cách khác, thế giới
quan khoa học có vai trò quan trọng trong nhận thức và cải tạo thực tiễn. Do
đó, việc phát triển thế giới quan duy vật biện chứng - thế giới quan khoa học
cho đội ngũ cán bộ của Đảng không chỉ là việc làm thường xuyên, lâu dài mà
còn là vấn đề cấp thiết trong công cuộc đổi mới hiện nay của nước ta.
Hưng Yên là tỉnh nằm phía Đông Nam của Thủ đô Hà Nội, mới được
tái lập tháng 1/1997, có vị trí chiến lược an ninh - quốc phòng, có điều kiện
địa - chính trị thuận lợi. Song, trong những năm qua, tốc độ phát triển kinh tế
- xã hội, văn hóa chưa thật tương xứng với tiềm năng vốn có của nó. Trường
Chính trị Hưng Yên là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong hệ thống
chính trị từ tỉnh đến cơ sở. ở đó, cán bộ có điều kiện tiếp cận nội dung kiến
thức cơ bản để phục vụ hoạt động công tác của mình, góp phần quan trọng
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng của tỉnh. Tuy nhiên, sự tác động của
những biến đổi phức tạp của kinh tế, chính trị, xã hội trong nước, khu vực và
thế giới hiện nay đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển thế giới

6


quan duy vật biện chứng của học viên. Mặc dù không nhiều, nhưng một bộ
phận học viên còn có nhận thức lệch lạc, mơ hồ, có biểu hiện suy giảm niềm
tin cộng sản, sa sút về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng đang là vấn đề

mà công tác giáo dục, đào tạo của trường phải đặc biệt quan tâm.
Những hạn chế chung của tỉnh có thể do nhiều phương diện, trong đó
phải nói đến hiệu quả công tác đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh, đặc
biệt là công tác xây dựng, phát triển thế giới quan khoa học cho họ. Cho nên,
phát triển thế giới quan duy vật biện chứng của học viên là cơ sở vững chắc
cho việc xây dựng và bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị cho họ,
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đào tạo đội ngũ lãnh đạo, quản lý của tỉnh góp
phần đạt hiệu quả vào cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận, bảo vệ và phát triển
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phản bác các luận điệu xuyên
tạc, vu cáo, chống phá Đảng, Nhà nước, vạch rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn,
phương thức chống phá của các thế lực thù địch; giữ vững và tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới.
Đây chính là lý do đã thôi thúc tác giả chọn lựa, tìm hiểu đề tài
nghiên cứu “Phát triển thế giới quan duy vật biện chứng của học viên
Trường Chính trị Hưng Yên hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề thế giới quan duy vật biện chứng và phát triển thế giới quan
duy vật biện chứng là một vấn đề thời sự hết sức nóng hổi, là một vấn đề lý
luận khoa học mang tính chất thực tiễn sâu sắc. Do đó, vấn đề này đã được
đông đảo các nhà lý luận, các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm
nghiên cứu. Trong nhiều năm qua các nhà nghiên cứu lý luận ở Việt Nam
và thế giới đã thực hiện hàng loạt các đề tài nghiên cứu nhằm luận giải và
làm sáng tỏ những vấn đề lớn về vai trò của thế giới quan duy vật biện
chứng. Có thể nêu lên một số công trình nghiên cứu của các tác giả theo
các hướng sau:

7


Các công trình nghiên cứu về thế giới quan duy vật biện chứng:

V.I.Li-xốp-ski và V.Mi-tri-ep: "Nhân cách của người sinh viên" (chương VI:
Sự hình thành thế giới quan), Nxb Đại học Tổng hợp Lêningrát, 1974; Bùi
Ngọc: "Thế giới quan khoa học một tất yếu lịch sử", Tạp chí Thông Tin khoa
học xã hội, số 8, 1981; Ch.L.Xiếc-nốp: "Những vấn đề cấp bách của việc hình
thành thế giới quan Mác-Lênin", Tạp chí Giáo dục Mác-Lênin, số 3-1985; Lê
Xuân Vũ: "Thế giới quan Mác-Lênin trong đời sống tinh thần nhân dân ta",
Tạp chí Cộng sản số 6-1986; Nguyễn Trọng Chuẩn: "Một số khía cạnh về vai
trò của sinh học hiện đại đối với sự hình thành và củng cố thế giới quan khoa
học", tạp chí triết học, số 3, 1988; Trần Văn Phòng: "Nét độc đáo trong thế
giới quan duy vật biện chứng Hồ Chí Minh", tạp chí Khoa học xã hội, số
09(97); Vũ Văn Phúc - Ngô Văn Thạo: “Những giải pháp và điều kiện thực
hiện phòng, chống suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng
viên”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
Các công trình nghiên cứu về bồi dưỡng, phát triển thế giới quan duy
vật biện chứng cho cán bộ, đảng viên: V.I.Lvaxi Lenco: "Thế giới quan khoa
học và những vấn đề lý luận của việc xây dựng thế giới quan khoa học trong
xã hội xã hội chủ nghĩa", bản tự lược thuật, Luận án tiến sĩ triết học, 1975;
Bùi Ỉnh: "Vấn đề xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng đối với cán bộ,
đảng viên là người dân tộc, thiểu số trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta", Luận án PTS Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, 1988; Trần Thước: "Sự hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở
tầng lớp trí thức Việt Nam", Luận án PTS triết học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, 1993; Bun-nhông-khin-sa-mom: "Xây dựng thế giới quan
duy vật biện chứng cho đảng viên Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai
đoạn hiện nay", Luận án PTS, số 48, Học viện Nguyễn Ái Quốc; Trần Thanh
Hà: "Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho cán bộ, đảng viên người
dân tộc Khơmer ở đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn cách mạng hiện

8



nay", Luận án Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
1993; Trần Viết Quân: "Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Tây Nguyên", Luận văn thạc sĩ triết học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002; Nguyễn Ngọc Quý: “Phát
triển thế giới quan duy vật biện chứng của học viên đào tạo sĩ quan ở học
viện Hải Quân hiện nay”, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị Quân
sự, 2004; Nguyễn Thị Luyến: “Vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện
chứng cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội hiện nay”, Luận
văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005.
Các công trình nghiên cứu về đội ngũ cán bộ tỉnh Hưng Yên:
Nguyễn Thị Hồng Lê: “Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay”,
Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004.
Các công trình nêu trên tuy tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, song
đã tập trung làm rõ một số vấn đề cơ bản như: Khái niệm thế giới quan nói
chung và thế giới quan duy vật biện chứng nói riêng, vấn đề cấu trúc, vai trò
của chúng; Tầm quan trọng và tính tất yếu của việc giáo dục bồi dưỡng, phát
triển thế giới quan duy vật biện chứng cho các đối tượng như sinh viên, cán
bộ nói chung trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; Nêu ra những nhân
tố cơ bản trong việc hình thành, tác động phát triển thế giới quan duy vật biện
chứng. Từ đó các tác giả đưa ra một số những phương hướng chung và các
giải pháp cụ thể cho mỗi đối tượng nghiên cứu trên cơ sở đòi hỏi của thực tiễn
trong mỗi giai đoạn nhất định.
Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào đi vào luận giải một
cách hệ thống,cơ bản và chuyên sâu vấn đề phát triển thế giới quan duy vật
biện chứng của học viên Trường Chính trị Hưng Yên trước tình hình mới.
Dựa trên thực tế giáo dục, bồi dưỡng thế giới quan Mác-Lênin của Trường
Chính trị Hưng Yên trong những năm qua cho đội ngũ cán bộ trong tỉnh và


9


thông qua việc giảng dạy môn triết học, tác giả mạnh dạn chọn đề tài này làm
luận văn thạc sĩ triết học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn, nguyên nhân và những
yêu cầu đặt ra cho phát triển thế giới quan duy vật biện chứng của học
viên Trường chính trị Hưng Yên, từ đó đề xuất những phương hướng, giải
pháp phát triển thế giới quan duy vật biện chứng của học viên Trường Chính
trị Hưng Yên hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ:
- Làm rõ khái niệm, vai trò và thực chất phát triển thế giới quan duy vật
biện chứng của học viên Trường Chính trị tỉnh Hưng Yên.
- Nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng, dự báo những nhân tố tác động và
yêu cầu phát triển thế giới quan của học viên Trường Chính trị Hưng Yên.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển thế giới quan duy vật
biện chứng của học viên Trường Chính trị Hưng Yên hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về phát triển thế giới quan duy vật
biện chứng của học viên Trường Chính trị Hưng Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Các vấn đề liên quan trực tiếp đến phát triển thế giới quan duy vật biện
chứng của học viên Trường Chính trị Hưng Yên từ năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn:
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về vấn


10


đề giáo dục bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho cán bộ, đảng
viên; Luận văn dựa trên những tài liệu, báo cáo thống kê, tổng kết của các cấp
ủy Đảng và chính quyền ở tỉnh và Trường Chính trị Hưng Yên về thực tiễn
đào tạo trong những năm gần đây, cùng với kết quả, tư liệu mà tác giả trực
tiếp khảo sát, phỏng vấn, điều tra thực tế.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn vận dụng trực tiếp phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, cùng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể khác như: phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích và
tổng hợp, tổng kết thực tiễn, điều tra xã hội học, thống kê, so sánh và
phương pháp chuyên gia.v.v... kế thừa có chọn lọc những thành quả nghiên
cứu đã có, để hoàn thành luận văn.
6. Ý nghĩa của luận văn
Đóng góp của luận văn là:
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chiến
lược, kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ ở tỉnh Hưng Yên.
- Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy và học tập ở trường chính trị nói chung và Trường Chính trị Hưng Yên nói
riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1: Bản chất phát triển thế giới quan duy vật biện chứng của
học viên Trường Chính trị Hưng Yên.
Chương 2: Tình hình và một số giải pháp cơ bản phát triển thế giới
quan duy vật biện chứng của học viên Trường Chính trị Hưng Yên hiện
nay.


11


Chương 1
BẢN CHẤT PHÁT TRIỂN THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG
CỦA HỌC VIÊN TRƯỜNG CHÍNH TRỊ HƯNG YÊN

1.1. Khái niệm và vai trò thế giới quan duy vật biện chứng của học
viên Trường Chính trị Hưng Yên
1.1.1. Khái niệm thế giới quan duy vật biện chứng của học viên
Trường Chính trị Hưng Yên
Hưng Yên là một tỉnh nằm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc vùng đồng bằng
sông Hồng, phía Đông giáp tỉnh Hải Dương, phía Nam giáp tỉnh Thái Bình,
phía Tây giáp tỉnh Hà Nam, phía Bắc liền kề với Thủ đô Hà Nội và tỉnh Bắc
Ninh. “Tỉnh Hưng Yên được thành lập vào năm Minh Mạng thứ 12 (năm
1831)”.
Hòa bình lập lại, tỉnh Hưng Yên trải qua nhiều lần thay đổi địa giới
hành chính: ngày 26/01/1968, Ủy ban thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết
số 504-NQ/TVQH phê chuẩn hợp nhất hai tỉnh là Hưng Yên và Hải
Dương thành tỉnh Hải Hưng. Sau đó, để đáp ứng với tình hình và nhiệm
vụ phát triển kinh tế-xã hội trong giai đoạn mới, ngày 06/11/1996, Quốc
hội khóa IX kỳ họp thứ X ra Nghị quyết về việc chia tỉnh Hải Hưng thành
hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên. Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị
và Nghị quyết của Quốc hội, bắt đầu từ ngày 01/01/1997, tỉnh Hưng Yên
chính thức được tái lập sau 28 năm hợp nhất với tỉnh Hải Dương. Tỉnh lỵ
đặt tại thị xã Hưng Yên. Hiện nay, tỉnh Hưng Yên có 10 đơn vị hành
chính cấp huyện bao gồm: “Thành phố Hưng Yên, các huyện Văn Lâm,
Văn Giang, Mỹ Hào, Yên Mỹ, Khoái Châu, Ân Thi, Kim Động, Tiên Lữ,
Phù Cừ với 160 xã, phường, thị trấn; diện tích tự nhiên là 923,5km2, dân

số đến năm 2005 là khoảng 1,131 triệu người”. Mật độ dân số 1200
người/km2, là mật độ cao trong cả nước.

12


Là tỉnh nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, bao gồm 7 tỉnh,
thành phố: Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh
Phúc và Bắc Ninh. Một khu vực có nhiều lợi thế và đang trở thành vùng phát
triển sôi động, có ưu thế rất thuận lợi cho việc hội nhập với nền kinh tế Châu
á và thế giới thông qua mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập
khẩu và tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Do vị trí nằm ở trung tâm
đồng bằng sông Hồng nên hệ thống giao thông thủy, bộ khá phát triển. Có các
đường quốc lộ quan trọng 39A, 5A, đường sắt Hà Nội - Hải phòng và các
tuyến đường sông Hồng, sông Luộc chạy qua; gần các sân bay Gia Lâm, Nội
Bài, Cát Bi và các cảng biển lớn như Hải Phòng, Cái Lân... thuận lợi cho việc
thông thương phát triển sản xuất và giao lưu với các tỉnh lân cận. Là một tỉnh
đất không rộng và thuần nông, không có rừng và biển, kinh tế nông nghiệp
còn chiếm 35,3% trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, nhưng Hưng Yên là một miền
quê tươi đẹp, một mảnh đất phù sa màu mỡ, có đặc sản nhãn lồng, hạt sen và
có truyền thống văn hiến, với Phố Hiến một thời là chốn phồn hoa đô hội, chỉ
đứng sau thủ đô Hà Nội, mà người xưa đã có câu: “Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì
Phố Hiến”. Hưng Yên còn là vùng đất “địa linh nhân kiệt” có những làng tiến
sĩ, nơi sản sinh ra nhiều bậc tài danh của đất nước trong nhiều thời kỳ lịch sử
và là quê hương của nhiều nhà cách mạng, nhiều vị tướng tài.
Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên được thành lập theo
Quyết định số 09/QĐ-UB ngày 14/01/1997 của UBND tỉnh Hưng Yên.
Trường là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Tỉnh ủy, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực
tiếp của Ban Thường vụ và Thường trực Tỉnh ủy; có chức năng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức Nhà nước trong toàn tỉnh. Trường có nhiệm vụ đào

tạo chương trình Trung cấp lý luận chính trị - Hành chính; bồi dưỡng về lý
luận chính trị, nghiệp vụ công tác; tham gia nghiên cứu khoa học, tổng kết
thực tiễn ở địa phương về công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền cơ
sở, công tác dân vận và các vấn đề liên quan tới nội dung chương trình đào

13


tạo, bồi dưỡng. Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm của Tỉnh ủy và các
sở ngành trong tỉnh, cũng như của Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh. Ban giám đốc và mọi thành viên của Nhà trường luôn đoàn kết
gắn bó, nêu cao tinh thần trách nhiệm xây dựng cơ quan, xây dựng Đảng bộ,
các đoàn thể trong sạch, vững mạnh và không ngừng lớn mạnh. Trong 5 năm
qua (từ năm học 2005 - 2006 đến năm học 2009 - 2010), Nhà trường đã đào
tạo được 79 lớp Đại học tại chức, Cao cấp, Trung cấp lý luận chính trị, Trung
cấp chuyên ngành với số lượng: 7484 học viên; bồi dưỡng: 67 lớp với 7.800
lượt học viên và nhiều nhiệm vụ chính trị đột xuất khác về công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ cho tỉnh.
Học viên Trường Chính trị Hưng Yên là những cán bộ lãnh đạo, quản lý
của tỉnh (trừ cán bộ chủ chốt cấp Huyện, cấp tỉnh) có đủ tiêu chuẩn về thể lực,
sức khỏe, trình độ văn hóa, phẩm chất đạo đức, được các cấp tuyển chọn và
phải trải qua thi tuyển sinh vào trường theo quy chế của Bộ Giáo dục - Đào tạo.
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
cán bộ, trong suốt 80 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn chú
trọng và đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với đòi hỏi
của từng thời kỳ cách mạng, đó chính là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Đảng ta xác định phải "có một đội ngũ cán bộ đủ phẩm
chất và năng lực xây dựng đường lối chính trị đúng đắn và tổ chức thực hiện
thắng lợi đường lối, đó là vấn đề cốt tử của lãnh đạo, là sinh mệnh của Đảng
cầm quyền" [15, tr.27]. Trong công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện sự
nghiệp CNH, HĐH, Đảng ta nhấn mạnh vai trò của cán bộ trong chiến lược

cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành
bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ,
là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng" [15, tr.66]. Như vậy, bất kỳ
lúc nào và ở đâu, vai trò của đội ngũ cán bộ cũng rất quan trọng đối với sự
nghiệp cách mạng. Vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý tỉnh Hưng

14


Yên (học viên Trường chính trị tỉnh Hưng Yên) được thể hiện ở những điểm
sau:
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý tỉnh Hưng Yên có vai trò quan trọng
trong việc xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị các cấp
trong tỉnh vững mạnh và phát động, lãnh đạo, phát triển phong trào cách
mạng của quần chúng trong tỉnh. Họ là nòng cốt, tổ chức sắp xếp, tập hợp lực
lượng, là linh hồn của các tổ chức trong hệ thống chính trị của tỉnh, là trung
tâm đoàn kết, tập hợp mọi tiềm năng, nguồn lực, động viên mọi tầng lớp nhân
dân ra sức thi đua hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của tỉnh. đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý tỉnh Hưng Yên có vai trò quan trọng đối với
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ các cấp, đối với năng lực và
hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền các cấp và mọi hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng trong tỉnh. Họ là người dẫn dắt,
định hướng các phong trào quần chúng, tổng kết rút kinh nghiệm, biểu dương
và nhân rộng các điển hình tiên tiến trong các hoạt động sản xuất kinh doanh,
quản lý đô thị, xây dựng đời sống văn hóa, phòng chống các tệ nạn xã hội...
Qua đó, họ đóng góp tích cực vào việc xây dựng, hoàn thiện chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước cũng như những chủ trương,
chính sách các cấp của tỉnh.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh Hưng Yên còn là một trong
những nguồn quan trọng cung cấp cán bộ cho huyện, tỉnh và Trung ương.

Thông qua hoạt động thực tiễn, cán bộ tích lũy được nhiều kinh nghiệm thực
tiễn, kiến thức không ngừng được bổ sung, năng lực lãnh đạo, quản lý,
phương pháp, phong cách công tác được nâng lên rõ rệt.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý tỉnh Hưng Yên giữ vai trò quan trọng
trong việc triển khai tổ chức thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước trên địa bàn tỉnh. Là những người giữ vai
trò quan trọng, có tác dụng chi phối mọi hoạt động tại cơ sở, họ không những

15


phải nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật nhà
nước để tuyên truyền, phổ biến, dẫn dắt, tổ chức cho quần chúng thực hiện mà
còn phải am hiểu sâu sắc đặc điểm, tình hình địa bàn công tác của mình để đề
ra những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể hóa đường lối, chủ trương, chính sách ấy
cho phù hợp với điều kiện.
Đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ cơ sở tỉnh Hưng Yên là những người
trực tiếp gần gũi, gắn bó với nhân dân, sống, làm việc và hàng ngày có mối
quan hệ chặt chẽ với dân. Họ thường xuyên lắng nghe, tham khảo ý kiến của
nhân dân. Trong quá trình triển khai, vận động, dẫn dắt nhân dân thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, họ tạo
ra cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Thông qua họ mà ý Đảng, lòng
dân tạo thành một khối thống nhất, làm cho Đảng, Nhà nước "ăn sâu, bám rễ"
trong quần chúng, tạo nên quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, củng cố
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, nhà nước và chế độ. Như vậy, đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước có đi vào cuộc
sống, trở thành hiện thực sinh động hay không, tùy thuộc phần lớn vào sự
tuyên truyền và tổ chức vận động nhân dân thực hiện của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý.
Với ý nghĩa đó, có thể nói xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý

tỉnh Hưng Yên là một mắt xích quan trọng thúc đẩy quá trình đổi mới, CNH,
HĐH của tỉnh và cả nước. Xây dựng đội ngũ lãnh đạo, quản lý tỉnh Hưng Yên
có tầm quan trọng đặc biệt về nhiều mặt, góp phần hoàn thành thắng lợi
nhiệm vụ chính trị của tỉnh và đóng góp vào việc hoàn thành các chỉ tiêu,
nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng,
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong tỉnh theo định hướng của Nghị
quyết các Đại hội Đảng bộ của tỉnh. Để thực hiện tốt vai trò, vị trí của mình,
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý tỉnh Hưng Yên phải thường xuyên nghiên
cứu, học tập, nâng cao trình độ, kiến thức về lý luận chính trị, chuyên môn,

16


nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo, quản lý và kinh nghiệm thực tiễn; luôn tu
dưỡng, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống trong sạch; kiên quyết
đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí; thực hành tiết kiệm; nêu cao
vai trò tiên phong, gương mẫu trước nhân dân; đoàn kết gắn bó và có mối
quan hệ mật thiết với nhân dân.
Đặc điểm của học viên Trường Chính trị tỉnh Hưng Yên:
Về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng. Học viên Trường Chính trị
Hưng Yên là cán bộ, công chức của tỉnh phần lớn trưởng thành trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trong hoạt động sản xuất, trong thực tế lãnh
đạo, quản lý. Do đó, họ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo
đức trong sáng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới đất
nước và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đa số họ am hiểu, nắm vững và
hăng hái thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, nhiệt tình, tâm huyết với công việc, có kinh nghiệm công tác, khả
năng thuyết phục, vận động quần chúng tốt, luôn hoàn thành công việc nhân
dân giao phó, được nhân dân tín nhiệm. Trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý của tỉnh, có một số ít trưởng thành sau ngày miền Nam hoàn toàn giải

phóng, thống nhất đất nước. Họ được đào tạo cơ bản, kế thừa truyền thống
cách mạng của dân tộc, năng động, nhạy bén, tiếp cận với cái mới nhanh;
được các thế hệ cán bộ đi trước hướng dẫn, giúp đỡ nên họ trưởng thành
nhanh chóng, trở thành nguồn cán bộ lãnh đạo cao hơn ở tỉnh hoặc cung cấp
cán bộ cho Trung ương.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh Hưng Yên đã có sự trưởng
thành về nhiều mặt. Họ đã bước đầu làm quen với cơ chế mới, mạnh dạn, dám
nghĩ, dám làm, đã có sự nhạy cảm về chính trị, tư duy chính trị ngày càng
năng động, nhạy bén. Thành tựu phát triển kinh tế - xã hội những năm qua
của tỉnh có sự đóng góp không nhỏ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Nhận thức của họ được nâng lên thì đồng thời khả năng cụ thể hóa, tổ chức

17


thực hiện đường lối chính sách của Đảng và nhà nước cũng được nâng lên rõ
rệt, nhất là khi triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Cán bộ chủ chốt
cơ sở làm việc sát dân hơn, lắng nghe ý kiến của nhân dân trong việc xây
dựng kế hoạch, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Phương thức và lề lối làm
việc theo hướng dân chủ và công khai. Hoạt động của Đảng, chính quyền dần
đi vào nề nếp, khắc phục dần tình trạng làm việc tùy tiện, cảm tính. Trên cơ
sở đó đã tạo được sự thống nhất và sự đồng thuận trong nhân dân, củng cố và
nâng cao lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, giữ vững ổn định
chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường an ninh quốc phòng,
trật tự trên địa bàn.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo có nhân sinh quan, phương pháp
luận đúng đắn, nhận thức rõ được tính đúng đắn, khoa học của việc kiên trì
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định con đưỡng xã hội chủ
nghĩa, nhận thức được vai trò tất yếu của Đảng cộng sản Việt Nam đi đôi với
yêu cầu đổi mới, thực hiện cơ chế thị trường định hướng XHCN, kiên quyết

đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, lệch lạc, những âm mưu, thủ
đoạn xuyên tạc, phá hoại Đảng, phá hoại công cuộc đổi mới của kẻ thù; tính
mềm dẻo của chính sách đối ngoại, mở rộng giao lưu quốc tế, với nhiệm vụ
trọng tâm là CNH, HĐH đất nước.
Về thâm niên công tác: hầu hết cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở của tỉnh đều đã có quá trình công tác lâu dài. Không có cán bộ nào có
thâm niên công tác dưới 5 năm; số cán bộ có thâm niên công tác từ 5-10 năm
chiếm tỷ lệ rất nhỏ 1,93%; đa số có thâm niên công tác từ 10 năm công tác trở
lên chiếm 98,07%.
Về trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ: Học viên Trường Chính trị
Hưng Yên có trình độ chuyên môn về công việc mà mình đảm nhiệm. Có sự
hiểu biết nhất định về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng,
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Đa số cán bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh

18


đã có trình độ học vấn tốt nghiệp phổ thông trở lên. Cụ thể: Số cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp cơ sở có trình độ trung học phổ thông trở lên chiếm tỷ lệ lớn
là 87,61%, số cán bộ chưa tốt nghiệp trung học phổ thông 12,39%. Trình độ
khoa học - kỹ thuật chuyên môn: đa số học viên Trường Chính trị Hưng Yên
không có bằng cấp chuyên môn chiếm 56,25%, số có trình độ sơ cấp là
6,84%, trung cấp là 25,01%, cao đẳng và đại học là 11,9%.
Về sức khỏe và độ tuổi: Học viên Trường Chính trị Hưng Yên là người
tổ chức thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của nhà nước ở địa bàn trong tỉnh. Nhiệm vụ của họ rất nặng nề, đòi hỏi họ
phải có sức khỏe tốt, độ tuổi phù hợp mới có đủ điều kiện hoàn thành tốt
nhiệm vụ. Xu hướng trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý được các cấp quan
tâm, diễn ra khá nhanh, tạo nên sự đổi mới của đội ngũ cán bộ và phong cách lãnh
đạo, quản lý điều hành của các tổ chức trong hệ thống chính trị tỉnh. Độ tuổi: từ

31 - 45 tuổi: 37,44%; 46 tuổi trở lên: 62,56%.
Thế giới quan duy vật biện chứng của học viên Trường Chính trị Hưng Yên
Trong lịch sử tư tưởng loài người đã có nhiều định nghĩa khác nhau về thế
giới quan, từ những quan niệm đó, có thể hiểu: thế giới quan là hệ thống
những quan điểm của một chủ thể (một người hoặc một tập đoàn người,
một giai cấp hay toàn xã hội) về thế giới và về vị trí, vai trò của con người
trong thế giới đó. Trên cơ sở đó, thế giới quan định hướng, chỉ dẫn cho
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người và là phương
thức con người tự ý thức được về bản thân mình. Trong sự tiến hóa của thế
giới quan triết học, đỉnh cao nhất mà nó đạt được chính là thế giới quan duy
vật biện chứng. Trên cơ sở phân tích sự hình thành và bản chất của thế giới
quan duy vật biện chứng, chúng tôi đồng ý với quan niệm về thế giới quan
duy vật biện chứng như sau: "Thế giới quan duy vật biện chứng là một hệ
thống quan điểm hoàn chỉnh về thế giới trên cơ sở những tri thức về tự
nhiên, xã hội và tư duy, cùng những định hướng giá trị của con người trong

19


quan hệ với hiện thực dựa trên việc giải quyết một cách duy vật biện chứng
vấn đề cơ bản của triết học" [63, tr.16]. Nó được tạo thành trên cơ sở phê
phán có chọn lọc những tư tưởng tiến bộ của các trào lưu triết học từ sự khái
quát kinh nghiệm lịch sử cùng những thành tựu của khoa học, "Các nhà triết
học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, vấn đề là cải tạo
thế giới" [37, tr.258]. Do đó, thế giới quan duy vật biện chứng khác hẳn về
chất so với các thế giới quan đối lập, như thế giới quan duy tâm tôn giáo, thế
giới quan tư sản...
Thế giới quan duy vật biện chứng được phát triển trên cơ sở chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nó thể hiện những quan điểm
khoa học của con người về thế giới mang tính khái quát và chính xác cao. Thế

giới quan duy vật biện chứng phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan và
những lợi ích căn bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đem đến
một cách nhìn hoàn toàn mới mẻ về con người, khẳng định con người là chủ
thể sáng tạo ra lịch sử. Thế giới quan duy vật biện chứng là sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn, sự thống nhất đó bắt nguồn từ bản chất triết học
Mác-Lênin. Vì vậy, thế giới quan duy vật biện chứng là loại hình thế giới
quan mang tính khoa học và cách mạng triệt để nhất. Nó không chỉ dừng lại ở
việc lý giải về thế giới mà hơn thế nữa, trên cơ sở sự lý giải đúng, nó trở
thành cái định hướng cho con người trong hành động, khẳng định vị trí của
con người trong việc cải tạo thế giới.
Sự ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng đã đánh dấu bước ngoặt
vĩ đại trong sự phát triển của thế giới quan triết học nói riêng và của thế giới
nói chung. Nó là sự thống nhất chặt chẽ các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật
và phép biện chứng do các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác sáng lập. Thế giới
quan đó có một ý nghĩa không chỉ thuần về mặt lý luận và nhận thức mà nó
còn có ý nghĩa lớn lao về mặt thực tiễn: biểu hiện thái độ của con người với
thế giới xung quanh và làm kim chỉ nam cho hành động của con người. Nhờ

20


đã phát hiện ra những quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội cho nên thế
giới quan duy vật biện chứng hướng sự hoạt động của con người đúng theo sự
phát triển của xã hội, do đó, nó thúc đẩy thêm sự phát triển ấy.
Cấu trúc của thế giới quan duy vật biện chứng là sự thống nhất biện chứng
của các yếu tố tri thức, niềm tin, lý tưởng:
Tri thức khoa học: là sự hiểu biết sâu sắc của con người về thế giới, là
kết quả của quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn đúng đắn của con người.
Tri thức trong thế giới quan duy vật biện chứng không chỉ là tri thức về thế giới
nói chung, mà còn là tri thức về vị trí con người trong thế giới. Nó không chỉ

dừng lại ở sự phản ánh thụ động lối sống của con người, cùng với lối sống nó
còn là vị thế sống tích cực của con người, là nguyên tắc sống, sự thông thái về
cuộc sống để chỉ dẫn cho cả nhận thức lẫn hành động của con người.
Trong nội dung tri thức thế giới quan duy vật biện chứng, tri thức triết
học Mác-Lênin đóng vai trò nền tảng, là hạt nhân của thế giới quan duy vật
biện chứng. Triết học Mác-Lênin đã lý giải toàn bộ các sự kiện mà khoa học và
thực tiễn đem lại, từ đó đưa ra bức tranh khái quát đúng đắn về tự nhiên, xã hội
và con người, cũng như vai trò của con người đối với hiện thực khách quan.
Tri thức tự nó chưa phải là thế giới quan, tri thức chỉ gia nhập vào thế
giới quan duy vật biện chứng khi nó trở thành niềm tin khoa học của con
người, chỉ khi biến thành niềm tin khoa học, tri thức mới trở nên sâu sắc, bền
vững và mới trở thành cơ sở cho hành động của con người.
Niềm tin: Niềm tin là một trạng thái tâm lý, tinh thần đặc biệt được
phát triển trên cơ sở của tri thức. Nó là động lực thúc đẩy khát vọng nhận
thức và cải tạo hiện thực của con người.
Niềm tin khoa học là một nhân tố cơ bản, không thể thiếu trong cấu
trúc của thế giới quan duy vật biện chứng. Đó là sự hòa quyện một cách
hữu cơ giữa tri thức, tình cảm và ý chí cá nhân trong mỗi con người. Niềm
tin khoa học được hình thành trên cơ sở tri thức khoa học. Niềm tin khoa

21


học có vai trò như một động lực, thúc đẩy con người vươn tới khát vọng
nhận thức và cải tạo thế giới hiện thực. Niềm tin được xác lập trên cơ sở tri
thức khoa học sẽ có tác dụng thúc đẩy con người vươn tới khát vọng nhận
thức và cải tạo hiện thực, chi phối một cách mạnh mẽ nhận thức, tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống và hành động cách mạng của mỗi con người. Nếu
con người làm việc gì đó mà không có niềm tin vào sự đúng đắn của tri thức,
của tư tưởng thì con người sẽ bị mất đi những rung động của ý chí, nghị lực,

lòng nhiệt tình và sự cổ vũ cần thiết đối với hiệu quả công việc. Không có tâm
hồn nóng bỏng của niềm tin vào tri thức thì sẽ không sản sinh ra cái gì vĩ đại
cả. Vì niềm tin giúp cho con người có nghị lực phi thường vượt qua những
giây phút hiểm nghèo, giám hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng mà mình cho là cao
cả. Niềm tin thế giới quan duy vật biện chứng còn là tư tưởng được thể hiện
thông qua hành động, hành động được soi sáng bởi tư tưởng, thể hiện tính tích
cực của cá nhân mang thế giới quan duy vật biện chứng trong quan hệ đối với
nhân loại. Trái lại, sống mà không có niềm tin khoa học, hoặc thiếu niềm tin
sâu sắc, con người sẽ mất phương hướng trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn, thậm chí bị đẩy vào tình trạng khủng hoảng, bế tắc.
Thế giới quan duy vật biện chứng biểu thị niềm tin vào sự tiến bộ xã
hội loài người, niềm tin vào con người. Niềm tin đó được xây dựng trên cơ sở
khái quát thực tiễn, kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phù hợp với quy luật
khách quan và lợi ích của quần chúng. Hiện nay, niềm tin đó chính là niềm tin
cộng sản, tin vào sự thắng lợi tất yếu của CNXH.
Lý tưởng cách mạng, là nhân tố quan trọng trong cấu trúc của thế
giới quan duy vật biện chứng. Lý tưởng là sự phản ánh hiện thực khách
quan một cách đặc biệt trong ý thức của con người dưới dạng hình tượng,
kiểu mẫu hay chuẩn mực, mà con người cần phải phấn đấu đạt tới. Lý
tưởng cách mạng đóng vai trò định hướng đối với hoạt động nhận thức và
thực tiễn của con người. Nó là nhân tố kích thích sự phấn đấu vươn lên làm

22


chủ của con người trong tự nhiên, xã hội và cả bản thân. Lý tưởng đúng
đắn, cao cả sẽ làm cho mỗi người hình thành niềm hy vọng lớn, góp phần
làm cho họ có thái độ, lập trường sống đúng đắn, lao động, học tập và công
tác tích cực, giúp cho họ vươn tới những giá trị cao đẹp; như lòng nhân ái,
lòng vị tha và những phẩm chất chân, thiện, mỹ; giúp cho họ đấu tranh với

cái ác, cái xấu, cái tiêu cực và lạc hậu trong xã hội và có thể sẵn sàng hy
sinh cả tính mạng của mình cho lý tưởng cao đẹp đó. Hiện nay, lý tưởng của
loài người là lý tưởng cộng sản, hướng hoạt động của con người vào việc đạt
đến chân lý và cải tạo hiện thực, xây dựng một cuộc sống tốt đẹp, một xã hội
tiến bộ - xã hội XHCN.
Các yếu tố tri thức, niềm tin, lý tưởng thống nhất biện chứng với nhau
tạo nên thế giới quan duy vật biện chứng để thể hiện những quan điểm đúng
đắn của chủ thể về thế giới và các quy luật phát triển của chúng; về bản thân
con người, vai trò của con người trước thế giới. Nhờ kết tinh những tinh hoa
của toàn bộ lịch sử phát triển tư tưởng nhân loại, thế giới quan duy vật biện
chứng có vai trò vô cùng to lớn trong quá trình cải tạo hiện thực đặc biệt là quá
trình cách mạng vô sản nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới.
Từ khái niệm thế giới quan duy vật biện chứng và những đặc điểm của
học viên Trường Chính trị Hưng Yên, chúng tôi quan niệm thế giới quan duy vật
biện chứng của học viên Trường Chính trị Hưng Yên: Là những tri thức khoa
học, niềm tin cộng sản, lý tưởng cách mạng đang được hình thành và phát triển
ở đội ngũ này trong quá trình học tập, rèn luyện và hoạt động thực tiễn.
1.1.2. Vai trò thế giới quan duy vật biện chứng của học viên Trường
Chính trị Hưng Yên
Trong điều kiện hiện nay, tình hình chính trị trong nước và trên thế giới
có nhiều diễn biến phức tạp, mặt trái của cơ chế thị trường đang tác động
mạnh đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo,
quản lý không chỉ có trình độ chuyên môn, năng lực lãnh đạo, quản lý mà

23


phải được đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ lý luận chính trị, để có bản
lĩnh chính trị vững vàng thì mới có thể đảm nhiệm được trọng trách của mình.
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, cán bộ phải là những người: Thực sự có tài

tổ chức, những người có bộ óc sáng suốt và có bản lĩnh tháo vát trong thực
tiễn, những người vừa trung thành với chủ nghĩa xã hội, lại vừa có năng lực
lặng lẽ... tổ chức công tác chung vững chắc và nhịp nhàng... chỉ có những
người như thế, chúng ta mới đề bạt lên những chức vụ lãnh đạo quản lý [65,
tr.509]. Đó là những người trung thành, tiêu biểu cho lý tưởng và lẽ sống của
giai cấp vô sản. Hồ Chí Minh căn dặn: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì
phải có con người xã hội chủ nghĩa và tư tưởng xã hội chủ nghĩa" [45,
tr.159]. Trong sự nghiệp cách mạng có nhiều nhiệm vụ, nhiều công việc, song
người luôn coi "cán bộ là cái gốc của mọi công việc" [45, tr.269]; "muôn việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém" [45, tr.240].
Nếu có cán bộ tốt, ngang tầm thì việc xây dựng đường lối chính
sách sẽ đúng đắn và là điều kiện tiên quyết để đưa sự nghiệp cách mạng
thắng lợi. Không có đội ngũ cán bộ tốt thì cho dù có đường lối, chính sách
đúng thì khó có thể trở thành hiện thực. Muốn biến đường lối, chính sách
thành hiện thực cần phải có những người cán bộ cách mạng thực sự bằng
lý luận và năng lực thực tiễn của mình kết hợp với quần chúng nhân dân
để tổ chức thành công sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng:
"Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải
thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân
chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho
đúng" [45, tr.260]. Người cán bộ không chỉ dừng lại ở những tri thức kinh
nghiệm lẻ tẻ, rời rạc mà sau mỗi việc đã làm phải biết tổng kết thực tiễn,
khái quát, nâng lên thành lý luận để lý luận lại chỉ đường, dẫn lối cho hoạt
động thực tiễn của họ.
Bên cạnh tư chất và tài năng, đòi hỏi người cán bộ lãnh độ, quản lý

24


phải trau dồi chủ nghĩa tập thể chống chủ nghĩa cá nhân, thói quan liêu cửa

quyền hách dịch, đặc quyền đặc lợi; luôn gương mẫu, trung thực, cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư; phải gắn bó với nhân dân, giữ đúng lời hứa với
dân, luôn khiêm tốn và ham học hỏi. Những phẩm chất đạo đức đó không
phải từ trên trời rơi xuống, không phải là bẩm sinh, nhưng cũng không thể
không vươn tới được. Nó là kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện bền bỉ
lâu dài của mỗi người. Do đó, người cán bộ phải phấn đấu vừa "hồng" vừa
"chuyên", tiêu biểu mẫu mực trước quần chúng nhân dân. Để làm được điều
đó đòi hỏi người cán bộ phải có đủ tư chất, tài năng và có đạo đức tốt: "Cần,
kiệm, liêm chính, chí công vô tư".
Vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý từ cấp tỉnh đến cấp xã
càng ngày càng quan trọng thể hiện trong mọi mặt của sự nghiệp đổi mới đất
nước. Từ việc củng cố, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, đảm bảo cho các chi bộ, Đảng bộ là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính
trị ở mỗi cấp, lãnh đạo toàn diện các mặt của đời sống xã hội, xây dựng chính
quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững mạnh; phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, bảo vệ
quyền lợi chính đáng của nhân dân... đến những công việc cụ thể của quá
trình lãnh đạo như: nắm bắt và cụ thể hóa các đường lối chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước cho phù hợp với tình hình thực tiễn ở từng địa
phương, từng sở, ban ngành; đề ra kế hoạch, lãnh đạo quản lý để mọi người
thực hiện. Đồng thời, người lãnh đạo, quản lý phải biết uốn nắn những sai
lệch trong quá trình thực hiện thuộc phạm vi, quyền hạn của mình, tổng kết
phong trào, phản hồi lại các cơ quan đơn vị (nếu cần), đảm bảo sự lãnh đạo
thông suốt từ trung ương đến cơ sở. Đặc biệt, sự nghiệp CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn là một nội dung quan trọng, tất yếu khách quan của quá
trình CNH, HĐH đất nước, đang đặt ra nhiều thử thách, đòi hỏi đội ngũ cán
bộ phải có những phẩm chất, tri thức mới đáp ứng nhiệm vụ cách mạng: từ

25



×