Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Giáo dục đạo đức cho thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay : Luận văn ThS. Triết học: 60 22 80

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (835.75 KB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

ĐỖ THỊ THÙY

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN THEO TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội - 2014
1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

ĐỖ THỊ THÙY

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN THEO TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành triết học
Mã số:60.22.80

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. HOÀNG CHÍ BẢO

Hà Nội – 2014


2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................4
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................4
2. Tình hình nghiên cứu. ...........................................................................................6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. ....................................................................10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................10
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. ......................................................10
6. Đóng góp và ý nghĩa khoa học của luận văn.....................................................11
7. Kết cấu của luận văn ...........................................................................................11
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO THANH NIÊN ...............................................................................................12
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức, giáo dục đạo đức, vai trò và nhiệm vụ
của thanh niên. ..........................................................................................................12
1.1.1. Quan niệm về đạo đức và giáo dục đạo đức ...................................................12
1.1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức. .......................................................17
1.1.3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò, nhiệm vụ của thanh niên và giáo dục
đạo đức cho thanh niên..............................................................................................20
1.2. Về nội dung giáo dục đạo đức và tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho
thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay. .....................................................30
1.2.1. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cho
thanh niên. .................................................................................................................30
1.2.2. Phương pháp cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cho
thanh niên. .................................................................................................................39
1.2.3. Tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức thanh niên
trong giai đoạn hiện nay ............................................................................................45
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
THANH NIÊN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN

HIỆN NAY ...............................................................................................................51
2.1. Thực trạng giáo dục đạo đức cho thanh niên hiện nay ......................................51

1


2.1.1. Những kết quả tích cực trong công tác giáo dục đạo đức thanh niên hiện nay
...................................................................................................................................51
2.1.2. Những hạn chế trong công tác giáo dục đạo đức thanh niên hiện nay. ..........61
2.1.3. Những nguyên nhân gây nên tình trạng thanh niên vi phạm đạo đức. ...........71
2.2. Nhữn giải pháp chủ yếu đẩy mạnh công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên
hiện nay theo Tư tưởng Hồ Chí Minh .......................................................................76
2.2.1. Nhóm giải pháp về nhận thức .........................................................................77
2.2.2. Nhóm giải pháp hoạt động thực tiễn. ..............................................................86
KẾT LUẬN ............................................................................................................100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................103

2


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Thái độ của đoàn viên, thanh niên đối với những hành vi tuyên truyền
xuyên tạc của các thế lực thù địch [68, tr 234]. ........................................................56
Bảng 2.2: Quan niệm sống của cá nhân [68, tr 239]. ................................................57
Bảng 2.3: Tỷ lệ nam thanh niên có quan hệ tình dục với gái mại dâm .....................66
Bảng 2.4: Tình hình nghiện ma túy ở Việt Nam từ 2000 – 2009 [74, tr32]..................67
Bảng 2.5: Về sự chuyển đổi của một số giá trị của thanh niên hiện nay [76, tr. 232].
...................................................................................................................................68

3



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại, nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt
Nam và thế giới, không chỉ lãnh đạo nhân dân Việt Nam đấu tranh giành độc
lập dân tộc, thống nhất đất nước mà còn để lại cho dân tộc Việt Nam một di
sản quý báu, đó là tư tưởng của Người. Trong báo cáo chính trị của Ban chấp
hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hôi (bổ sung phát
triển năm 2011) được Đại hội XI của Đảng thông qua đã trình bày quan niệm
mới nhất của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh như sau: "Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của Cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân
loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi
mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi"
[24, tr. 88]. Tư tưởng của Người cùng với Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam hành động của cách mạng Việt Nam đặc biệt là trong
sự nghiệp xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới hiện nay.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao
vai trò của thế hệ trẻ, lớp người kế cận sự nghiệp cách mạng ở nước ta. Với
cách nhìn khách quan khoa học, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai
trò, vị trí, khả năng của thanh niên đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và
dân tộc. Người cho rằng: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà.
Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh
niên” [54, tr.185]. Chính vì thế trước lúc đi xa Người không quên căn dặn
Đảng ta: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng


4


và rất cần thiết” [56, tr. 510]. Nghị Quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ 4 (Khóa VIII) đã nhấn mạnh: "Sự nghiệp đổi mới có thành công
hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng
đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường
xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên".
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu, vận dụng đúng đắn tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cho thanh niên để có một lực lượng
xây dựng đất nước đủ Đức và Tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc: Đức
là gốc của người cách mạng. Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang đi vào chiều
sâu và được triển khai trên quy mô lớn, trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Cơ chế thị trường, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đang phát huy
tác dụng tích cực, tạo nên sự phát triển năng động và thúc đẩy nhịp độ tăng
trưởng kinh tế ở nước ta. Nhưng, kinh tế thị trường cũng ngày càng bộc lộ
những mặt trái, gây ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống tinh thần của xã hội ta.
Những ảnh hưởng tiêu cực đó len lỏi, thẩm thấu vào mọi quan hệ xã hội, làm
sai lệch các chuẩn mực giá trị đạo đức dân tộc, dẫn tới sự suy thoái về đạo
đức ở một bộ phận nhân dân như lối sống sùng bái vật chất, chủ nghĩa cá nhân
vụ lợi, vị kỷ, thực dụng, lối sống đua đòi, ăn chơi xa hoa, lãng phí, truỵ lạc
v.v. ảnh hưởng xấu tới thế hệ thanh niên. Mặt khác, sự du nhập văn hóa
phương Tây một cách thiếu chọn lọc, thiếu định hướng đạo đức và văn hóa có
nguy cơ dẫn tới làm băng hoại các giá trị truyền thống của dân tộc, sự tha hoá
nhân cách của con người. Đạo đức bị suy thoái nghiêm trọng với những lệch
lạc chuẩn mực từ lời ăn tiếng nói, ứng xử đến phong cách sống.......Chính
những ảnh hưởng tiêu cực này đã và đang làm suy giảm những giá trị văn
hóa của con người Việt Nam Chúng ta cần phải có thái độ và hành động như
thế nào để khắc phục tình trạng này. Vì vậy, việc giữ vững định hướng chính
trị và giá trị tinh thần trong thực tiễn xây dựng đất nước, trong đời sống đạo


5


đức là yêu cầu cấp thiết để góp phần ngăn chặn sự suy thoái nhất là suy thoái
đạo đức, lối sống của con người Việt Nam, trong đó có thế hệ trẻ hiện nay.
Xây dựng đời sống tinh thần văn minh, tiến bộ với những giá trị đạo
đức cao đẹp là công việc không thể thực hiện dễ dàng trong chốc lát. Nó đòi
hỏi chúng ta phải xây dựng lại thang giá trị mới cho phù hợp, phải lựa chọn
đối tượng ưu tiên cho việc giáo dục đạo đức và phải coi đó là nhiệm vụ lâu
dài, có tầm quan trọng chiến lược. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có thể
bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay
không, chính là một phần lớn nhờ công học tập của các em” (trích thư gửi học
sinh nhân ngày khai trường năm đầu tiên của nước Việt Nam độc lập 9-1945).
Đảng ta cũng nhiều lần khẳng định: Sự cần thiết phải bồi dưỡng các giá trị
văn hoá, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống của con người Việt Nam, coi trọng
bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên khát vọng mãnh liệt xây dựng đất nước
giàu mạnh. Giáo dục đạo đức là một trong những chuẩn bị quan trọng cho thế
hệ trẻ bước vào cuộc sống lập thân, lập nghiệp vì tương lai của cộng đồng,
của dân tộc Việt Nam. Như vậy là, bên cạnh rất nhiều đối tượng khác trong xã
hội, thanh niên phải là đối tượng cần được coi trọng nhất trong việc thực hiện
công tác giáo dục đạo đức hiện nay.
Chính vì vậy tác giả chọn vấn đề: Giáo dục đạo đức cho thanh niên
theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay làm luận văn thạc sĩ
chuyên ngành triết học. Với luận văn này tác giả mong muốn được góp phần
nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào
việc giáo dục đạo đức cho thế thế hệ trẻ để xây dựng đất nước giàu mạnh, văn
minh, hiện đại.
2. Tình hình nghiên cứu.


6


Giáo dục đạo đức cho thanh niên là một vấn đề lớn và hết sức quan
trọng, do đó đã thu hút nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Cho tới nay đã có
nhiều công trình bàn luận về giáo dục đạo đức cho thanh niên theo tư tưởng
Hồ Chí Minh được công bố.
Vấn đề đạo đức nói chung và đạo đức thanh niên nói riêng trong những
năm gần đây đã được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, đã có nhiều công
trình nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau
Trước hết là nghiên cứu, sưu tầm, hệ thống hóa từ những tác phẩm của
Hồ Chí Minh về thanh niên và giáo dục thanh niên: Hồ Chí Minh về giáo dục
thanh niên, Nxb Thanh niên. H.1973 gồm có những bài viết của Người về
giáo dục đạo đức thanh niên, những nhiệm vụ của thanh niên cần làm, những
phẩm chất mà thanh niên cần có. Trong tạp chí Cộng sản 2005, số 5 có bài
viết: Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng giáo dục thanh niên của tác giả
Đoàn Nam Đàn.
Tiếp đó đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết của nhiều tác giả
liên quan đến đề tài. Thí dụ như: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức do PGS.
TS Thành Duy( chủ biên 1996). Cuốn sách là một công trình nghiên cứu công
phu của một tập thể tác giả, các nhà khoa học có nhiều năm nghiên cứu về tư
tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng về đạo đức của Người. Cuốn sách đã trình
bày có hệ thống về nguồn gốc, đặc trưng và những nội dung cơ bản của tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Trên cơ sở nghiên cứu bản chất và nội dung tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, cuốn sách đã khẳng định tính phổ biến và giá trị
trường tồn của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nhắm quán triệt và vận dụng tư
tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức của Người trong bối cảnh xã hội hiện
nay.
Đề tài KHXH.04-09 CĐ “phương pháp đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào

cuộc sống nhằm xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ Công nghiệp

7


hoá, hiện đại hoá đất nước” do PGS.TS Lê Văn Tích làm chủ nhiệm đề tài. Ở
đề tài này tác giả trên cơ sở phân tích nhận thức của các nhóm xã hội về tư
tưởng Hồ Chí Minh, đề xuất một số cách thức và phương pháp để đưa những
nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh vào đời sống của các nhóm xã hội như:
công nhân, nông dân, bộ đội, thanh niên, học sinh, sinh viên.
Cuốn sách: Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội do
GS.TSKH Huỳnh Khái Vinh (chủ biên) đã trình bày những vấn đề cơ bản của
lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội, mối quan hệ giữa lối sống, đạo đức và
phát triển con người; quan điểm và giải pháp xây dựng lối sống đạo đức,
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, cùng với sự biến đổi nhanh chóng
của thế giới, toàn cầu hóa nước ta đã đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Trong nền
kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập thang giá trị đạo đức truyền thống ít
nhiều có sự thay đổi. Đây là một hiện tượng phức tạp, mới mẻ thu hút sự quan
tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Một số chuyên khảo tiêu biểu đi sâu
nghiên cứu nhằm xác định các giá trị đạo đức truyền thống làm cơ sở cho việc
xây dựng đời sống văn hóa tinh thần và con người Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới, đặc biệt là thế hệ thanh niên: “Vấn đề kế thừa và phát huy các giá trị đạo
đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước
ta” của Nguyễn Văn Lý, Tạp chí Triết học số 2- 1999; "giáo dục đạo đức, lối
sống và bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay - vấn
đề và giải pháp" của GS.TS Hoàng Chí Bảo; "Xây dựng nếp sống lành mạnh
để sinh viên phát triển nhân cách" của GS.TS Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Thanh
niên số 20 - 2001; "Rèn luyện nếp sống sinh viên qua hoạt động thực tiễn" của
GS.TS Hoàng Chí Bảo, tạp chí Thanh niên số 21 - 2001; " Tư tưởng Hồ Chí

Minh về thanh niên và xây dựng tổ chức Đoàn thanh niên cộng sản Việt Nam"
của GS.TS Hoàng Chí Bảo, Tạp chí phát triển Nhân lực số 2 - 2011; "Từ lời
dạy của Bác đến chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp" của GS.TS Hoàng Chí
8


Bảo, tạp chí Tuyên giáo số 2 - 2013, Nguyễn Duy Quý(chủ biên), Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006; “Về việc tạo ra bước chuyển mạnh mẽ
trong xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Văn Phúc,
Tạp chí Triết học, số 11- 2006; “Về tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị và
chuẩn mực đạo đức mới” của Nguyễn Văn Phúc, Tạp chí Triết học, số 3- 2007.
Nghiên cứu về đạo đức và đạo đức thanh niên đã có không ít luận
văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ như: “Giáo dục đạo đức với sự hình thành và phát
triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của Trần Sĩ
Phán (luận án tiến sĩ, 1999); “Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc xây dựng
đạo đức mới cho thế hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam” của Nguyễn Đình Quế (luận
văn thạc sĩ, 2000). Các công trình nghiên cứu trên đều khẳng định rằng đạo
đức là vấn đề mà toàn nhân loại quan tâm trước hết trong cuộc sống hiện tại.
Hiện nay đạo đức của toàn nhân loại đang đứng trước tình huống suy thoái
nghiêm trọng. Thực trạng này không chỉ diễn ra ở một nước nào đó mà nó
ngày càng phổ biến ở nhiều nước phát triển và đang phát triển. Suy thoái đạo
đức có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tinh thần của con người, nó cũng tác
động tiêu cực đến phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia. Thông
qua việc nghiên cứu đạo đức ở các khía cạnh như lịch sử đạo đức, các giá trị
đạo đức, chuẩn mực xã hội v.v. các tác giả đã liên hệ với thực trạng đời sống
đạo đức tại Việt Nam. Phát huy giá trị đạo đức truyền thống để xây dựng đạo
đức mới trong xã hội trong đó đặc biệt chú trọng xây dựng, đạo đức mới cho
thanh niên là vấn đề đang được quan tâm nghiên cứu .
Trong các công trình nêu trên các tác giả đã nghiên cứu vấn đề thanh
niên trên nhiều phương diện khác nhau, song chủ yếu là những nghiên cứu lý

luận. Chủ đề giáo dục đạo đức thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn
nhiều khía cạnh chưa được nghiên cứu sâu. Chính vì vậy trong luận văn này,
tác giả đi sâu nghiên cưú đề xuất giải pháp giáo dục đạo đức cho thanh niên
9


theo tư tưởng Hồ Chí Minh với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của
mình vào việc giáo dục thế hệ thanh niên vừa “hồng” vừa “chuyên” để xây
dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở hệ thống hóa những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục đạo đức cho thanh niên, luận văn đề xuất yêu cầu, và một số giải
pháp chủ yếu giáo dục đạo đức thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh hiện
nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Khái quát một số nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục đạo đức thanh niên.
- Phân tích phương pháp, ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
đạo đức cho thanh niên.
- Phân tích thực trạng đạo đức thanh niên trong giai đoạn hiện nay từ đó
thấy được thực trạng giáo dục đạo đức trong công tác giáo dục đạo đức thanh
niên.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu giáo dục đạo đức thanh niên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức
thanh niên.
Phạm vi nghiên cứu: giới hạn vào lĩnh vực đạo đức của thanh niên,
không đi sâu nghiên cứu các lĩnh vực khác của thanh niên, đồng thời tập trung

nghiên cứu các giải pháp giáo dục đạo đức thanh niên. Việc đánh giá thực
trạng đạo đức cũng tập trung chủ yếu vào những năm đổi mới gần đây
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
10


Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta. Luận văn cũng kế thừa những kết quả nghiên
cứu của các tác giả đi trước có liên quan đến chủ đề luận văn.
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương
pháp logic, phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống - cấu trúc, so
sánh…nhằm làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra của đề tài.
6. Đóng góp và ý nghĩa khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ thực trạng giáo dục đạo đức thanh niên từ đó đề xuất
những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức thanh
niên trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong việc nghiên cứu và giảng dạy môn đạo đức học, trong thực tiễn công tác
giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương 4 tiết
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục đạo đức cho
thanh niên
Chương 2: Thực trạng và giải pháp giáo dục đạo đức thanh niên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.

11



Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CHO THANH NIÊN
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức, giáo dục đạo đức, vai trò và
nhiệm vụ của thanh niên.
1.1.1. Quan niệm về đạo đức và giáo dục đạo đức
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo
đức học đã xuất hiện hơn 26 thế kỷ trước đây trong các trường phái triết học
Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại. Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La
Tinh là mos (moris) có nghĩa là lề thói, đạo nghĩa. Còn luân lý được xem như
đồng nghĩa với đạo đức thì gốc ở chữ Hy Lạp là Êthicos nghĩa là lề thói, tập
tục. Hai danh từ đó chứng tỏ rằng, khi ta nói đến đạo đức, tức là nói đến
những lề thói, tập tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người với
người trong sự giao tiếp nhau hằng ngày. Ở Á Đông, theo Nho giáo, đạo đức
được lý giải ở cương thường hay rộng ra là luân thường. Đạo là chỉ những
mối quan hệ nhằm duy trì một trật tự từ gia đình tới xã hội. Đó là quan hệ vua
– tôi, cha mẹ - con, chồng - vợ, anh – em, bạn bè. Trong năm mối quan hệ
trên, ba quan hệ đầu là phục tùng, tạo thành tam cương: bầy tôi phải trung
thành với vua, con phải hiếu với cha mẹ, vợ phải phục tùng chồng. Từ đó có
thể hiểu: “Đạo chính là đường đi lối lại của nề nếp, có phép tắc rõ ràng. Theo
nghĩa đen và nghĩa bóng của từ này, đạo là con đường đúng đắn từ nơi đi cho
đến nơi tới. Đạo là hệ thống những nguyên lý, những phép tắc, những vận
động cơ bản của sự vận động” [28, tr108]. Đức là những quy định, những yêu
cầu phải thực hiện cho đúng trách nhiệm của mỗi giới, mỗi người. Ví dụ đối
với nữ giới, yêu cầu là phải thực hiện tứ đức: công, dung, ngôn, hạnh. Đối với
nam giới: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Đức là biểu hiện của Đạo, là kết quả
vận động của đạo. Đạo mà không đúng đức cũng không có “Đạo là cái vật
phải theo, đức là vật có được do theo đạo” [28, tr. 121].

12



Trong quá trình hình thành và phát triển của đạo đức thì các nhà nghiên
cứu đã đưa ra rất nhiều định nghĩa về đạo đức:
Theo từ điển viết: Đạo là nhiều tài nghệ, đức là tu hành tột cùng, hiểu
theo nghĩa hẹp người có đạo đức là người có tài nghệ và nết hạnh tốt. Còn
trong từ điển triết học lại định nghĩa: đạo đức hay luân lý là một trong những
hình thái sớm nhất của ý thức xã hội bao gồm những nguyên lý hay đạo lý,
quy tắc, chuẩn mực, điều tiết hành vi của con người trong quan hệ với người
khác và cộng đồng.
Trong đạo đức, nhu cầu và lợi ích của toàn xã hội hoặc của một bộ
phận xã hội mà quan trọng nhất là của giai cấp được phản ánh một cách đặc
trưng bằng hệ thống tiêu chuẩn, gọi là tiêu chuẩn đạo đức. Trên cơ sở của các
tiêu chuẩn này, các quy tắc xử sự chung gọi là các quy phạm đạo đức được
hình thành.
Trong xã hội, những yêu cầu của đạo đức mang hình thức bổn phận mà
tất cả mọi người đều phải làm theo, không trừ một ai, là như nhau với tất cả
mọi người. Trong cơ chế thực hiện các quy phạm đạo đức, ý thức biểu hiện cả
dưới hình thức cảm xúc của tình cảm, động cơ, ham muốn, và như vậy cá nhân
vừa thể hiện với tư cách là khách thể, vừa thể hiện với tư cách là chủ thể đã ý
thức được sự kiểm tra của xã hội, nghĩa là thể hiện một nhân cách đạo đức.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, đạo đức xét đến
cùng là sự phản ánh các quan hệ xã hội, giá trị đạo đức được thể hiện ở chỗ nó
phục vụ cho tiến bộ xã hội, vì hạnh phúc của con người. Đạo đức giúp cho xã
hội loài người tiến lên trình độ cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, một phương thức điều
chỉnh hành vi con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thông qua
một hệ thống những giá trị, nguyên tắc, chuẩn mực biểu thị sự quan tâm tự
nguyện, tự giác của con người, với con người trong quan hệ giữa con người


13


với xã hội. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội có chức năng điều chỉnh
hành vi của con người. Đạo đức là những nguyên tắc sống, những quy phạm
phù hợp với một hình thái kinh tế - xã hội nhất định được hình thành từ những
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Mỗi chế độ xã hội khác nhau có
những quy phạm đạo đức khác nhau. Giai cấp nào thống trị về kinh tế cũng
thống trị về đạo đức và tư tưởng văn hoá. Khi giai cấp tiêu biểu cho xu thế
phát triển đi lên của xã hội thì đạo đức của nó đại diện cho nền đạo đức tiến
bộ. Còn các giai cấp phản động thì đại diện cho một nền đạo đức suy thoái.
Mỗi thời kỳ lại có những quan niệm và quy định đạo đức khác nhau về tốt,
xấu, lương thiện. Bàn về đạo đức cộng sản chủ nghĩa, Lênin cho rằng “đó là
những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất
cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội
của những người cộng sản” [51, tr. 214]. Đây là quan điểm mang tính cách
mạng và khoa học về đạo đức mà quan niệm của tôn giáo và các nền đạo đức
khác không thể đạt tới.
Từ những điều trên thì tựu chung đạo đức hiểu theo hai nghĩa như sau:
Hiểu theo nghĩa hẹp: Đạo đức là luân lý, những quy định, những chuẩn
mực ứng xử trong quan hệ của con người với con người.
Hiểu theo nghĩa rộng: đạo đức liên quan chặt chẽ đến phạm trù chính trị,
pháp luật, lối sống thì đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách nó phản
ánh bộ mặt của nhân cách, của một cá nhân đã được xã hội hóa. Khi thừa
nhận đạo đức là một hình thái ý thức xã hội thì đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi
cộng đồng, mỗi tầng lớp, giai cấp trong xã hội cũng phản ánh ý thức chính trị
của họ đối với các vấn đề đang tồn tại.
Có thể nói, đạo đức là phép ứng xử có nhân phẩm giữa người này với
người khác. Đạo đức luôn là mối quan hệ hai chiều, đòi hỏi mỗi người phải
thực hiện theo đúng vị trí của mình trong mối quan hệ giữa các thành viên


14


trong gia đình hay ngoài xã hội. Đạo đức là phương thức xác lập mối quan hệ giữa
cá nhân và xã hội, là phương thức điều chỉnh quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Giáo dục đạo đức là nhiệm vụ bao trùm và xuyên suốt toàn bộ hoạt động
giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội để hình thành và phát triển nhân
cách. Giáo dục đạo đức phải trở thành mối quan tâm của toàn xã hội, là vấn
đề của mọi vấn đề trong chiến lược giáo dục và đào tạo vì sự phát triển con
người và phát triển xã hội.
Đối tượng của giáo dục là con người. Từ lúc sinh ra, rồi lớn lên và
trưởng thành - cả về mặt thể chất lẫn tinh thần, tức là toàn bộ đời sống sinh lý
- tâm lý - cho đến suốt cuộc đời sau này gắn với nghề nghiệp và hoạt động xã
hội, với tư cách là một con người của xã hội, một công dân của nhà nước, một
cá nhân - chủ thể của hoạt động, một cái Tôi - Nhân cách, con người luôn
luôn ở trong những ảnh hưởng và tác động của giáo dục.
Hơn nữa, có thể nói, mọi nội dung, mọi phương thức, hình thức giáo
dục, mọi con đường dẫn tới thực hiện chương trình giáo dục xã hội, mọi nỗ
lực mà giáo dục xã hội huy động đều quy tụ vào giáo dục đạo đức làm người,
nói rộng ra là giáo dục văn hóa làm người, lấy văn hóa đạo đức làm nền tảng
và là cái cốt lõi. Giáo dục đạo đức là cái căn bản của mục tiêu giáo dục con
người, giáo dục nhân cách.
Nội dung của giáo dục đạo đức, nói một cách tổng quát, bao gồm giáo
dục nhận thức để hình thành và phát triển những xúc cảm, tình cảm đạo đức
trong sáng, cao quý thuộc về nhân tính của con người; xây dựng niềm tin đạo
đức dựa trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa nhận thức và tình cảm đạo đức đã đạt
được; tập luyện hành vi và trau dồi thói quen trong những ứng xử đạo đức
hàng ngày giữa người với người… Nhu cầu đạo đức và văn hóa đạo đức đó
chính là nhu cầu cơ bản hàng đầu của đời sống tinh thần phong phú của con

người, là những giá trị và chuẩn mực đạo đức mà con người với tư cách là

15


một chủ thể hoạt động đã chiếm lĩnh được, đã trở thành sự lựa chọn mang tính
tự nguyện và khẳng định của bản thân mình, coi đó là giá trị và ý nghĩa của lẽ
sống, biểu hiện và tự biểu hiện ra trong hình thức độc đáo của cá thể ở trong
lối sống và nếp sống hàng ngày. Đó là kết quả tổng hợp của toàn bộ nội dung
và quá trình giáo dục đạo đức đã nêu trên, trong đó cần phải đặc biệt nhấn
mạnh tới vai trò của bồi dưỡng tình cảm đạo đức và trau dồi, tập luyện các
hành vi, thói quen đạo đức. Giáo dục đạo đức không dừng lại ở nhận thức, tức
là cung cấp những hiểu biết để hình thành ý thức và niềm tin cho con người
về sự cần thiết phải có đạo đức, sống phù hợp với những giá trị và chuẩn mực
đạo đức mà xã hội đòi hỏi đồng thời tham gia vào cuộc đấu tranh vì một đời
sống đạo đức tốt đẹp của con người và xã hội. Phương diện giáo dục nhận
thức đạo đức tuy rất quan trọng nhưng nó chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ.
Người có hiểu biết lý trí đạo đức chưa hẳn là người có đạo đức nếu nó không
thể hiện sự hiểu biết đạo đức đó thành hành vi, hành động đạo đức trong thực
tiễn. Hơn nữa, sự thực hành đạo đức của mỗi cá nhân thường được thúc đẩy
và dẫn dắt bởi động cơ và động lực quan trọng về mặt tinh thần, đó là những
xúc cảm và tình cảm đạo đức đã trở thành một thuộc tính tâm lý ổn định và
bền vững trong đời sống cá nhân. Đó cũng là mặt phẩm chất của nhân cách.
Bồi dưỡng và làm nảy nở không ngừng những xúc cảm và tình cảm đạo đức
lành mạnh, trong sáng ở mỗi cá nhân, có thể xem đó là hạt nhân của giáo dục
đạo đức. Sự hình thành và phát triển nhu cầu đạo đức, văn hóa đạo đức ở mỗi
người diễn ra như thế nào - điều đó phụ thuộc một phần lớn ở sức mạnh thúc
đẩy tình cảm đạo đức ở người đó. Phải có những tình cảm đạo đức mãnh liệt,
con người mới tự mình có những thôi thúc nội tâm bên trong để hình thành
cho chính mình nhu cầu đạo đức và văn hóa đạo đức, từ đó mới có thể chuyển

từ giáo dục sang tự giáo dục, thực hiện đồng nhất giữa đối tượng giáo dục và
chủ thể giáo dục trong chính bản thân mình. Như vậy, theo bản chất nhân văn,
giáo dục đạo đức đặc biệt chú trọng tới thực hành đạo đức trong hoạt động
16


thực tiễn của con người. Tình cảm đạo đức, có thể nói chứa đựng trong nó cả
cái Chân, cái Thiện lẫn cái Mỹ, chúng kết hợp và thúc đẩy lẫn nhau một cách
hài hòa. Những cử chỉ hành vi đạo đức tốt đẹp bao giờ cũng bắt nguồn từ
những xúc cảm, tình cảm trong sáng, vô tư, vị tha, đức hy sinh quên mình,
không một chút tính toán vụ lợi nào. Người có đạo đức thường làm việc tốt
bởi sự thúc đẩy của lòng mong muốn trở nên tốt đẹp và tốt đẹp hơn, làm điều
tốt, việc tốt vì người khác, cho người khác.
1.1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức.
Hồ Chí Minh có ý thức rất rõ ràng về vị trí, vai trò, sức mạnh của đạo
đức. Mặc dù Người không để lại một tác phẩm chuyên nào về đạo đức,
nhưng những tư tưởng lớn về đạo đức lại được thể hiện trong nhiều bài viết,
bài nói của Người. Theo Hồ Chí Minh, tiêu chí để đánh giá chính xác đạo đức
con người ở hành động, ở việc làm, ở cách đối nhân xử thế, đạo đức phải
được xem xét trong ba mối quan hệ cơ bản: với mình, với người và với công
việc. Trong ba mối quan hệ đó, hoạt động của con người hình thành nên
những hành vi, chuẩn mực đạo đức. Đó là việc mình có nghiêm khắc với
chính bản thân hay không? Thái độ của mình với ông bà, bố mẹ, anh chị em,
đối với đồng chí, đồng đội, cấp trên, cấp dưới, đối với quần chúng nhân dân,
đối với Đảng, với Nhà nước, với kẻ thù như thế nào? Bản thân mình có hết
lòng, toàn tâm toàn ý với công việc được giao hay không. Điều đó xác định
đạo đức của mỗi người. Vì vậy mà Người đã viết:
Đối với tự mình phải cần kiệm liêm chính
Đối với đồng sự phải thân ái giúp đỡ
Đối với chính phủ phải tuyệt đối trung thành

Đối với nhân dân phải kính trọng lễ phép
Đối với công việc phải tận tụy
Đối với địch phải cương quyết khôn khéo. [54, tr. 406 – 407].

17


Đạo đức được xác định trong mối quan hệ với mình, với người và với
công việc. Như vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức không phải
chỉ là những lý tưởng cao xa mà còn là những thái độ, hành vi, việc làm cụ
thể của mỗi người hằng ngày, hằng giờ trong cuộc sống sinh hoạt, trong học
tập, trong lao động và trong chiến đấu.
Hồ Chí Minh đã nêu những nội dung, những chuẩn mực chung có ý
nghĩa cơ bản và có tính phổ cập đối với mọi người, mọi tầng lớp, đồng thời
Người cũng chỉ rõ những chuẩn mực cụ thể đối với từng tầng lớp như: công
nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, thiếu niên, nhi đồng, bộ đội, công an,
kiểm sát…Song đối tượng Người chú ý nhiều nhất là đạo đức của người cách
mạng, người cán bộ, đảng viên. Đạo đức cách mạng do chủ tịch Hồ Chí Minh
đề xướng và cùng với Đảng ta dày công xây dựng bồi đắp khác với đạo đức
cũ về chất, ngược lại nó hoàn toàn thống nhất với đạo đức của Chủ nghĩa Mác
– Leenin. Đó là kết hợp truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với đạo đức
mang bản chất của giai cấp công nhân và tinh hoa đạo đức nhân loại. Người
nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời”. Đạo
đức cũ – đạo đức thực dân, phong kiến, là thứ đạo đức ích kỷ, nó kìm hãm
trói buộc con người, tàn phá con người. Còn đạo đức mới vì nước vì dân.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách
mạng, cũng giống như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông, của suối. Hồ
Chí Minh khẳng định: “Cây phải có gốc, không có gốc cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân” [16, tr. 252-253]. Người còn ví đạo đức đối với

người cách mạng như là sức khỏe của người gánh nặng và đi xa. Theo Hồ Chí
Minh, nhiệm vụ cách mạng hoàn toàn không dễ dàng đơn giản mà bao giờ
cũng khó khăn, phức tạp. Thực hiện nhiệm vụ cách mạng đòi hỏi người cách

18


mạng phải có quyết tâm phấn đấu thật cao, phải dám hy sinh, phải kiên trì,
bền bỉ
Người cách mạng là người tự nguyện phấn đấu hy sinh cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân và xây dựng xã hội mới. Sự nghiệp
cách mạng là sự nghiệp khó khăn gian khổ. Vì vậy nếu người cách mạng
không có đạo đức thì “không giữ vững được chủ nghĩa”, không chịu nổi đòn
roi và sự tra tấn của kẻ thù.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong khi đất nước rơi vào cảnh nô lệ.
Một điều tâm huyết đã trở thành hoài bão ham muốn, ham muốn tột bậc của
Người chính là làm sao “cho dân ta được ấm no, đồng bào ta ai cũng được
học hành, ai cũng được hạnh phúc”. Vì vậy mà: “Giải phóng dân tộc, giải
phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức,
không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì làm nổi được việc gì” [54, tr.
253]. Do vậy, phải có đạo đức cách mạng, để khi gặp khó khăn, gian khổ,
người cách mạng cũng không chịu lùi bước, có như vậy mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và nhân dân giao phó, nhờ có đạo đức mà
người cách mạng có sức mạnh của đức tin, nghị lực và bản lĩnh để chiến
thắng hoàn cảnh:
“Giàu sang không quyến rũ
Nghèo khó không chuyển lay
Uy vũ không khuất phục”
Khi nói về đạo đức Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến đạo đức cách
mạng, đến việc thực hành đạo đức cách mạng trong quá trình giải phóng dân

tộc, giải phóng giai cấp, xây dựng xã hội mới, con người mới xã hội chủ
nghĩa. Mặc dù nhấn mạnh vị trí, vai trò của đạo đức, coi đó là nền tảng của
con người nhưng Người cũng không hề xem nhẹ tài năng. Theo Người, phải
có tài, có tri thức mới hoàn thành nhiệm vụ. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức và

19


tài năng phải kết hợp với nhau, không thể có mặt này mà thiếu mặt kia được.
Người nói: “Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, có khi còn làm
hỏng việc. Có tài mà không có đức thì nguy hiểm, bởi có thể làm điều xấu,
điều ác gây hại cho xã hội. Do vậy đức và tài phải gắn bó với nhau, trong đó
đức là gốc, là cái phải có trước tiên:“Mọi việc thành hay bại là do cán bộ thấm
nhuần đạo đức cách mạng hay là không”, “phải có chính trị trước rồi mới có
chuyên môn”, “chính trị là đức, chuyên môn là tài, có tài mà không có đức là
hỏng” [55, tr. 492]. Người thực sự có đạo đức thì bao giờ cũng cố gắng học
tập, nâng cao trình độ, nâng cao năng lực để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Đạo đức, theo Hồ Chí Minh phải là đạo đức cách mạng, gắn liền với
việc xây dựng xã hội, con người mới, con người xã hội chủ nghĩa. Đạo đức là
phẩm chất tốt đẹp của con người “phần nhiều do giáo dục mà nên”. Đạo đức
theo Người còn được hiểu là toàn bộ những chuẩn mực xã hội nhằm điều
chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng.
1.1.3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò, nhiệm vụ của thanh
niên và giáo dục đạo đức cho thanh niên.
Tuổi thanh niên - lứa tuổi đẹp nhất của cuộc đời mỗi một con người (15
- 30) vẫn được xem là mùa xuân của nhân loại. Đây là là lứa tuổi đang phát
triển cả về thể chất, tâm lý, tinh thần, cả về nhu cầu và tình cảm, trí tuệ và tài
năng, ước mơ và lý tưởng, tư duy và tính cách. Đó cũng là lứa tuổi đang ở vào
thời kỳ định hướng giá trị cuộc sống và đang trưởng thành về nhân cách.
Thanh niên là một nhóm xã hội đặc thù chiếm số đông trong dân cư;

đan xen trong các giai tầng, cơ cấu xã hội và cơ cấu nghề nghiệp. Hiện nay
thanh niên Việt Nam chiếm 28,9% dân số cả nước và chiếm 36,4% lực lượng
lao động toàn xã hội, là nguồn nhân lực dồi dào, có tiềm năng to lớn trong sự
nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thanh niên là hình
ảnh phản chiếu của xã hội thu nhỏ, vì thế muốn biết tương lai của một dân tộc

20


thế nào, của một xã hội ra sao có thể xem xét qua diện mạo của thế hệ thanh
niên. Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều có sự thống nhất tuổi
thanh niên bắt đầu từ 14 hoặc 15 tuổi và kết thúc ở tuổi nào thì có sự khác
biệt. Có nước quy định là 25 tuổi, có nước quy định là 30 và cũng có nước
quy định là 40 tuổi.
Ở Việt Nam đã có giai đoạn tuổi thanh niên được hiểu gần như đồng
nhất với tuổi đoàn viên (15 đến 28 tuổi). Ngày nay, do điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội phát triển, thời gian học tập, đào tạo cơ bản của tuổi trẻ dài
hơn nên tuổi thanh niên được xác định là 15 đến 30 tuổi. Tương lai độ tuổi
của thanh niên Việt Nam có thể sẽ tăng vì theo Khoản 2 Điều 1 của dự thảo
luật thanh niên, độ tuổi của thanh niên từ 16 đến 35. Tuy nhiên, vấn đề này
còn nhiều ý kiến khác nhau. Tuỳ thuộc vào nội dung và góc độ nghiên cứu
mà có nhiều cách quan niệm khác nhau về thanh niên. Trong thực tế Việt
Nam có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về thanh niên.
Trong cuốn “Quản lý Nhà nước đối với công tác thanh niên” - “Thanh
niên là một phạm trù triết học, chỉ một nhóm nhân khẩu xã hội đặc thù, ở độ
tuổi nhất định (từ 15- 30 tuổi), có mặt trong tất cả các giai cấp, các tầng lớp
xã hội, dân tộc, các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, có những đặc
điểm chung về tâm lý, sinh lý, nhận thức xã hội, có vai trò quan trọng đối với
mỗi quốc gia, dân tộc trong cả hiện tại và tương lai” [30, tr. 25].
Trong cuốn: "Tìm hiểu một số thuật ngữ về công tác thanh niên" "Thanh niên là một tầng lớp người - xã hội đặc thù, với độ tuổi nằm trong

giới hạn từ 14, 15 đến trên dưới 30 tuổi" [49, tr. 179].
Từ những quan niệm khác nhau về thanh niên có thể khái quát một số
đặc điểm thanh niên như sau:
Thứ nhất, phạm trù thanh niên biểu đạt một hình thái cụ thể, đặc thù
thuộc phạm trù con người, phạm trù xã hội. Họ là một lớp người, một thế hệ

21


sống trong cộng đồng xã hội với những đặc điểm chung, riêng trong quan hệ
với chính họ, với giai cấp và với xã hội, đó là những người trẻ tuổi.
Thứ hai, từ góc độ sinh lý lứa tuổi (từ 14, 15 tuổi- 30 tuổi), thanh
niên được coi là một cấp độ phát triển hoàn thiện về mặt thể chất. Sự hoàn
thiện này thể hiện ở tất cả các mặt như; chiều cao, cân nặng, sự phát triển
hoàn thiện của các cơ quan chức năng; hệ cơ, hệ xương, hệ tuần hoàn, hệ
thần kinh, hệ sinh dục v.v. Sự phát triển này là điều kiện để thanh niên tự
khẳng định vai trò, vị trí và trách nhiệm của mình trong xã hội.
Thứ ba, từ góc độ tâm lý, thanh niên luôn là những người giàu ước
mơ, hoài bão, đầy lòng nhiệt tình, hăng say, ý chí, nghị lực, luôn có nhu cầu
tìm hiểu, thích khám phá, sáng tạo, giàu óc tưởng tượng, thích giao tiếp,
thích tham gia các hoạt động xã hội, có nhu cầu cao về tình bạn, tình yêu
nam nữ và lập gia đình. Mặt khác, thanh niên ngày nay do điều kiện sinh
hoạt vật chất ngày càng được nâng cao nên con người sinh lý, tố chất sinh
học đã phát triển chín muồi nhưng những phẩm chất xã hội thì chưa hoàn
thiện, chưa ổn định vững vàng. Sự tác động của giáo dục từ gia đình, nhà
trường và xã hội chỉ mới hình thành ở họ khung nhân cách ban đầu. Do đặc
điểm này, bên cạnh những ưu điểm nổi trội, thanh niên vẫn tiềm ẩn những
hạn chế nhất định, bên cạnh sự dám nghĩ, dám làm là tính bồng bột thiếu
kinh nghiệm, thậm chí cả sự liều lĩnh; giàu ước mơ, hoài bão và lạc quan
nhưng khi gặp thất bại thì dễ hoài nghi, dao động, tự ti và chán nản; có tính

tự lập, tự khẳng định cao nhưng cũng dễ tự cao, tự đại, kiêu ngạo và nhầm
lẫn giữa hiện tượng và bản chất, giữa đúng và sai, thật và giả; họ có khát
vọng về tự do dân chủ nhưng cũng rất dễ có hành vi vô chính phủ, vô kỷ
luật; giàu óc tưởng tượng, nhạy cảm nhưng hay thần tượng hoá, dễ thay đổi,
chính vì vậy mà họ dễ tiếp thu những hệ tư tưởng này hay hệ tư tưởng khác
kể cả tích cực hay tiêu cực. Điều đó cho thấy, thanh niên rất cần đến những
tác động tích cực của xã hội, đặc biệt của giáo dục, của các nhà giáo.
22


Thứ tư, thanh niên là đối tượng có mặt ở tất cả các vùng miền, các
thành phần kinh tế, xã hội. Tuỳ theo môi trường hoạt động và đặc điểm
nghề nghiệp mà thanh niên được phân thành nhiều nhóm khác nhau, các đối
tượng xã hội khác nhau: thanh niên nông thôn, thanh niên công nhân, thanh
niên học sinh - sinh viên, thanh niên trí thức, thanh niên dân tộc, thanh niên
tôn giáo.v.v. Mỗi một nhóm này lại có đặc điểm nhu cầu, sở thích riêng,
nguyện vọng riêng.
Hiểu rõ tầm quan trọng của tầng lớp thanh niên, C.Mác đã phát hiện ra
vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong quá trình đấu tranh
chống ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản, nhằm giải phóng giai cấp vô sản
đồng thời giải phóng toàn thế giới. Giai cấp công nhân, đại biểu cho phương
thức sản xuất tiến bộ nhất trong lịch sử, có sứ mạng như C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khẳng định là kẻ “đào mồ” chôn chủ nghĩa tư bản và xây
dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trên thế giới. C.Mác và
Ph.Ăngghen coi sự nghiệp của thanh niên gắn liền với giai cấp vô sản và
phong trào đâú tranh của giai cấp vô sản. Các nhà kinh điển nhận thấy được
vai trò quan trọng của những người trẻ tuổi với tư cách là lực lượng lao động
chủ yếu trong mọi lĩnh vực xã hội, mọi tầng lớp giai cấp đặc biệt là giai cấp
công nhân. Những người sáng lập Chủ nghĩa Mác – Lênin đã rất quan tâm,
chăm lo bồi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ - lực lượng sẽ kế tục sự nghiệp đấu

tranh cách mạng của giai cấp công nhân trong giai đoạn tiếp theo. C.Mác đã
chỉ rõ rằng: “Những người công nhân tiên tiến nhất cũng hoàn toàn nhận thức
được rằng tương lai của giai cấp họ và do đó, của cải loài người tuy thuộc vào
việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên” [52, tr. 262]. Về điều này C.Mác
còn nói: Hiện nay nhiệm vụ của chúng ta là chăm sóc nhi đồng và thiếu niên
trong giai cấp công nhân.

23


×