Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

CẢI CÁCH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRUNG QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.99 KB, 77 trang )

CẢI CÁCH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRUNG QUỐC
(NHTM TQ)
I. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG
NHTM TQ
Trước khi thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa vào năm
1949, hệ thống ngân hàng Trung Quốc bao gồm ngân hàng Trung ương
(NHTƯ), ba ngân hàng thương mại lớn là Ngân hàng Bưu điện, Ngân hàng
Nông nghiệp, Ngân hàng Trung Hoa, một số các ngân hàng và các tổ chức tài
chính nhỏ độc lập khác. Năm 1949, ba NHTM lớn này đã được sáp nhập hoặc
liên kết với ngân hàng Trung ương là ngân hàng chủ đạo cung cấp phần lớn
dịch vụ ngân hàng ở Trung Quốc cho tới năm 1978.
Sau năm 1978, theo chương trình cải cách kinh tế chuyển đổi cơ chế
quản lý tập trung cao độ sang cơ chế quản lý có mức tự do hoá và phân cấp
quản lý cao hơn, Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Xây Dựng và Ngân hàng
Trung Hoa được tách riêng khỏi hoạt động của ngân hàng Trung ương. Việc
tách riêng các hoạt động ngân hàng xuất phát từ ý tưởng cho rằng một hệ thống
phân cấp quản lý cao hơn sẽ hoạt động hiệu quả hơn. Mỗi ngân hàng theo sự
chỉ định sẽ cung cấp dịch vụ cho một ngành nhất định của nền kinh tế. Quan
điểm này ngăn cản sự cạnh tranh giữa các ngân hàng và buộc các khách hàng-
nông dân, các doanh nghiệp công nghiệp và các công ty thương mại hoặc các
công ty có vốn đầu tư nước ngoài- trong từng ngành phải giao dịch với một
ngân hàng chuyên doanh.
Hiện nay, hệ thống ngân hàng Trung quốc bao gồm nhiều ngân hàng
khác nhau. Dưới Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (ngân hàng trung ương) là
các ngân hàng chuyên doanh lớn sau:
1. Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc
2. Ngân hàng Trung Quốc
3. Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc
4. Ngân hàng Công Thương Trung Quốc
5. Ngân hàng Bưu điện
6. Ngân hàng Phát triển Quốc doanh


7. Ngân hàng Xuất Nhập khẩu
8. Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp
Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa là ngân hàng trung ương của Trung
Quốc có ba hệ thống chi nhánh theo khu vực hành chính. Ngân hàng Nhân dân
Trung Hoa là tổ chức cấp bộ tương đương Bộ Tài Chính, chịu trách nhiệm xây
dựng và thực hiện các chính sách tiền tệ và lãi suất; giám sát các ngân hàng, các
tổ chức tài chính phi ngân hàng, các công ty bảo hiểm; kiểm tra phê chuẩn việc
thành lập, sáp nhập, giải thể các tổ chức tài chính.
Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc được thành lập vàp năm 1955,
đóng cửa năm 1957, mở cửa lại từ năm 1963 đến năm 1965 và được tái lập vào
năm 1979. Trách nhiệm chính của ngân hàng này là nhận tiền gửi, cho vay các
dự án nông nghiệp và công nghiệp nông thôn, cung cấp dịch vụ thanh toán cho
các doanh nghiệp công thương nông thôn. Gần đây, ngân hàng này đã được
phép huy động và cho vay bằng ngoại tệ và thực hiện thanh toán quốc tế. Ngân
hàng này có chi nhánh ở tất cả các tỉnh, thành phố và các huyện.
Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc hoạt động từ năm 1954 đến năm
1966. Ngân hàng này sáp nhập vào Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa trong 13
năm, sau đó được tái lập vàp năm 1979. Từ năm 1994, nghiệp vụ mang tính
chính sách trong ngân sách trước đây do Ngân hàng Xây dựng đảm nhiệm, ví
dụ: những khoản vay trung và dài hạn trong xây dựng mang tính cơ bản, cải tạo
kĩ thuật, khoản vay ngoại hối lớn để xuất nhập khẩu thiết bị đồng bộ loại lớn và
tín dụng xuất khẩu, đã dần dần giao cho Ngân hàng Phát triển nhà nước và
Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc. Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc chủ
yếu kinh doanh nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn mang tính thương nghiệp,
đồng thời làm các dịch vụ uỷ thác mang tính chính sách của ngân hàng phát
triển Nhà nước, nhiệm vụ chủ yếu là dựa trên kế hoạch của nhà nước và các
phương châm chính sách có liên quan, huy động, phân phối và tổ chức cung
ứng tiền vốn xây dựng trung và dài hạn, giám sát, quản lý việc sử dụng vốn.
Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc ngoài thiết lập các cơ quan chi nhánh ở các
địa phương trên toàn quốc theo khu vực hành chính, còn thiết lập các chi nhánh

ở các địa phơng có nhiệm vụ xây dựng khá tập trung và địa phương sở tại có
hạng mục trọng điểm.
Ngân hàng Công thương Trung Quốc được tách khỏi ngân hàng Trung
ương năm 1984. Ngân hàng Công thương Trung Quốc chủ yếu kinh doanh tài
chính ở thành phố, phục vụ cho doanh nghiệp công thương, các cơ quan đoàn
thể và cư dân thành thị, nhiệm vụ chủ yếu là hỗ trợ sản xuất công nghiệp, mở
rộng luư thông hàng hoá, hỗ trợ ngành dịch vụ phát triển, thúc đẩy tiến bộ và
cải tạo khoa học kĩ thuật, phục vụ cho việc xây dựng kinh tế. Cùng với sự cạnh
tranh đan xen về dịch vụ giữa các ngân hàng ngày càng khốc liệt, phạm vi
nghiệp vụ của ngân hàng Công thương Trung Quốc mở rộng hơn nữa, theo hư-
ớng tổng hợp hoá, như đã đảm nhiệm dịch vụ cho các doanh nghiệp ở hương
trấn, nghiệp vụ xây dựng cơ sở hạ tầng và dịch vụ ngoại hối..., đồng thời thành
lập các ngân hàng chi nhánh ở nước ngoài.
Ngân hàng Trung Quốc được thành lập vào năm 1908 và đã hoạt động
với tư cách là ngân hàng trung ương của Trung Quốc trong thời gian 40 năm
dưới hình thức góp vốn nhà nước và tư nhân, trong đó sở hữu nhà nước chiếm
đa số. Từ năm 1949, Ngân hàng Trung Hoa chủ yếu tập trung vào nghiệp vụ
nhận tiền gửi, cho vay bằng ngoại tệ và thanh toán quốc tế. Ngân hàng này có
chi nhánh ở tất cả các tỉnh, thành phố, huyện và hoạt động với một hệ thống chi
nhánh và đại lý trên toàn cầu.
Ngân hàng Bưu điện được tái lập vào năm 1986 sau 38 năm ngừng
hoạt động ở đại lục. Là một ngân hàng cổ phần trong đó cổ đông chính là chính
quyền trung ương và địa phương. Quy mô kinh doanh của Ngân hàng Bưu điện
không hạn chế chỉ trong ngành thương mại, do đó ngân hàng này đã cung cấp
dich vụ tài chính trên toàn thế giới. Là một Ngân hàng đa năng, Ngân hàng Bưu
điện có lợi thế cạnh tranh hơn so với bốn ngân hàng chuyên doanh chỉ được
kinh doanh theo các chức năng được quy định cho tới giữa thập niên 90.
Từ cuối thập niên 80, nhiều ngân hàng thương mại địa phương đã
được thành lập và đặt tại các tỉnh hoặc các đặc khu kinh tế như: Ngân hàng Phát
triển Quảng Đông, Ngân hàng Thương mại Trung Quốc, Ngân hàng phát triển

Thâm Quyến và Ngân hàng phát triển Phố Đông. Gần đây, các ngân hàng nước
ngoài đã không ngừng mở cửa chi nhánh hoạt động và văn phòng ở Trung
Quốc. Các chi nhánh này được phép tham gia các hoạt động kinh doanh ngoại
tệ ở Trung Quốc và gần đây, một số ngân hàng nước ngoài được phép tham gia
các hoạt động ngân hàng liên quan tới đồng NDT. Một số các ngân hàng tư
nhân cũng được phép hoạt động tại Trung Quốc. Ngân hàng Dân Sinh Trung
Quốc là ngân hàng tư nhân đầu tiên được Quốc vụ viện và Ngân hàng Nhân dân
Trung Hoa cho phép hoạt động vào năm 1995. Các ngân hàng tư nhân nhận tiền
gửi với lãi suất cao hơn so với các tổ chức tài chính lớn và họ cũng cho vay với
lãi suất cao hơn so với các ngân hàng lớn. Các NHTM TQ không ngừng phát
triển cả về quy mô lẫn chất lượng chứng tỏ vai trò của hệ thống NHTM trong
nền kinh tế đang tăng lên rất nhanh.
Bước vào thế kỉ 21, Trung Quốc đã xây dựng một hệ thống tổ chức tài
chính hoàn chỉnh với Ngân hàng Trung ương làm lãnh đạo, NHTM QD và các
NHTM khác làm nòng cốt, các hệ thống ngân hàng khác như ngân hàng chính
sách, cơ quan tài chính ngân hàng và cơ quan tài chính ngoại tệ cùng tồn tại.
II. NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH CẢI CÁCH CỦA HỆ THỐNG NHTM TQ
1. Đối với các NHTM quốc doanh (QD) và các NHTM cổ phần (CP)
1.1. Hiện trạng của các NHTM QD và các NHTM CP
Ngày 11/12/2001, Trung Quốc đã chính thức gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới WTO. Điều này đã thúc đẩy hơn nữa sự phát triển kinh tế
Trung Quốc, mà đặc biệt là đẩy nhanh quá trình cải cách của hệ thống NHTM
TQ. Do thực hiện công cuộc điều chỉnh cơ cấu ngân hàng trên diện rộng nên
hiện nay, hệ thống NHTM TQ đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ: Bốn
NHTM QD lớn đã chuyển đổi thành những ngân hàng toàn năng và trở thành
hạt nhân của hệ thống tài chính, chiếm 90% tổng tài sản của cả hệ thống ngân
hàng, 67% tài sản tiền gửi ngân hàng và 56% tài sản tài chính. Mỗi một ngân
hàng trong số 4 NHTM QD lớn có quy mô tài sản trung bình trên 400 tỷ USD,
số lao động trung bình trên 415 000 người và số chi nhánh vào khoảng 15 000
đến 58 000. Hơn nữa, tốc độ tăng trưởng tín dụng của các NHTM QD vẫn tiếp

tục tăng mạnh- gần 26% trong giai đoạn 1999- 2002.
1
Bên cạnh đó, các NHTM
CP cũng không ngừng phát triển về số lượng. Một loạt những ngân hàng kiểu
mới có cơ chế kinh doanh tự chủ, tự chịu lỗ lãi, tự gánh vác rủi ro, tự cân bằng
nguồn vốn từng bước được hình thành như Ngân hàng phát triển Quảng Đông,
1 Các số liệu lấy từ nguồn: Tạp chí Thông tin Kinh tế- Xã hội (Số 6/2003)
Ngân hàng hưng nghệp Phúc Kiến, Ngân hàng thực nghiệm Trung Tín, Ngân
hàng Quang Đại Trung Quốc, Ngân hàng Hoa Hạ, Ngân hàng Dân Sinh Trung
Quốc, Ngân hàng phát triển Hải Nam… Mặc dù những NHTM này vẫn khó có
thể so sánh với NHTM QD về các mặt quy mô tiền vốn, số lượng cơ cấu và
tổng số nhân viên..., nhưng tốc độ tăng trưởng tiền vốn và lãi suất của nó đã cao
hơn NHTM QD, tốc độ tăng tiền gửi là 77% trong giai đoạn 1999-2001, tốc độ
tăng vốn cho vay là 42% trong cùng kỳ (so với 21% của NHTM QD)
2
. Cho thấy
sức kinh doanh tương đối mạnh, tình hình phát triển nhanh và hiệu quả kinh
doanh tốt, đã trở thành một đội quân sinh lực của hệ thống NHTM Trung Quốc
và trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, hệ thống NHTM Trung Quốc
không tránh khỏi phải đối mặt với những mặt còn tồn tại và những thách thức
mới trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Các NHTM ngoài việc phải cạnh
tranh khốc liệt trên phương diện tiền vốn, thì sự cạnh tranh trên phương diện
phi tiền tệ cũng rất khốc liệt. NHTM Trung Quốc trước đây triển khai tương đối
ít các dịch vụ về phương diện phi tiền tệ, cùng với việc tăng cường thể chế quản
lý và từng bước pháp luật hóa ngành ngân hàng, thu lợi nhuận thông qua chênh
lệch lãi suất cũng ngày càng khó khăn. Vì vậy, cạnh tranh trong lĩnh vực phi
tiền tệ sẽ là trọng điểm cạnh tranh của NHTM Trung Quốc trong thế kỷ 21. Ví
dụ, về phương diện cố vấn tài chính cho khách hàng, ngân hàng, công ty uỷ
thác, công ty chứng khoán và công ty quỹ tiền tệ đều có thể thực hiện được. Xét

từ tình hình bản thân NHTM QD, NHTM CP và môi trường kinh tế của Trung
Quốc, những khó khăn chính mà NHTM QD, NHTM CP phải đối mặt trong thế
kỷ 21 chủ yếu trên phương diện sau:
2 Các số liệu lấy từ nguồn: Tạp chí Thông tin Kinh tế- Xã hội (Số 6/2003)
1.1.1. Những nguồn vốn không tốt khó có thể được xoá sổ trong một thời
gian ngắn
Tiền vốn không tốt do những khoản vay mang tính chính sách và quản
lý không tốt để lại đã tích luỹ trong nhiều năm khó mà xoá sổ được, trở thành
chướng ngại quan trọng trong phát triển NHTM, bên cạnh đó tiền vốn không tốt
mới do việc quản lý thiếu quy củ tạo ra cũng là một vấn đề không thể xem nhẹ.
Hiện nay, tỉ lệ trích phần trăm tiền chuẩn bị cho những khoản nợ không đòi
được mà Bộ tài chính quy định có sự chênh lệch rất lớn so với NHTM nước
ngoài, muốn dựa vào số tiền chuẩn bị cho những khoản nợ không đòi được để
xoá sổ khoản tiền không trong sạch do NHTM tích tụ trong nhiều năm là khá
khó khăn. Hơn thế nữa, mặc dù rất nhiều ngân hàng Trung Quốc đang phát triển
các kỹ thuật xếp hạng tín dụng nhất quán với các nguyên tắc của NHTM, lãi
suất vẫn bị NHTƯ- ngân hàng Nhân dân Trung Quốc quản lý chặt. Do đó các tổ
chức tài chính nội địa không thể định giá món vay theo mức độ rủi ro tín dụng.
Theo NHTƯ Trung Quốc thì tổng số nợ xấu của các ngân hàng Trung Quốc vào
khoảng 700 tỷ USD, chiếm khoảng 50% số dư nợ. Chính phủ sẽ phải tốn 518 tỷ
USD (khoảng 43% GDP năm 2002) và mất 8 đến 10 năm mới làm trong sạch
được hệ thống ngân hàng. Hầu hết các khoản nợ xấu là ở các doanh nghiệp
quốc hữu không có khả năng hoặc sẽ không thanh toán nợ. Hàng năm, 4 NHTM
QD được yêu cầu cho các DNNN vay 50 tỷ NDT trong giai đoạn 1998-2001.
Gần đây, Bắc Kinh đã nỗ lực cứu các bản cân đối của 4 NHTM quốc doanh và
đóng cửa các doanh nghiệp quốc hữu làm ăn thua lỗ. Năm 1998, Chính phủ đã
bơm 33 tỷ USD để cải thiện tình hình tài chính. Năm 1999, tổng số nợ khó đòi
169 tỷ USD của 4 ngân hàng quốc doanh (ngân hàng Công thương, ngân hàng
Xây dựng, ngân hàng Trung Quốc, ngân hàng Nông nghiệp) đã được chuyển
cho 4 công ty quản lý tài sản của Chính phủ Trung Quốc (AMSc). Sau đó, bốn

AMSc đã phát hành 141 tỷ USD tiền trái phiếu và bù 28 tỷ USD tiền mặt. Đồng
thời NHTƯ đã yêu cầu các ngân hàng lớn nhất giảm tín dụng xấu từ mức 25%-
30% tổng dư nợ hiện nay xuống còn 15% vào năm 2005
3
. Ngoài ra Thông tư
ngày 24 tháng 4 năm 2002 của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã yêu cầu tất
cả các ngân hàng phải đưa ra những quy định hạn chế nợ xấu đến năm 2005 để
tránh mối đe doạ xảy ra “khủng hoảng tài chính” và khuyến khích các ngân
hàng áp dụng tiêu chuẩn cân đối vốn quốc tế. Hơn nữa, NHTƯ cũng yêu cầu
các ngân hàng phải giảm tỷ lệ nợ không hoạt động (NPL) khoảng 3% mỗi năm.
Hiện tại, số nợ không hoạt động của 4 NHTM QD lớn là 25,37% vào thời điểm
đầu năm 2002, sau khi giảm được 3,81% trong một năm
4
.
Bảng 1: Nợ khó đòi ở mức đỉnh tính theo tỷ lệ phần trăm tổng số nợ
trong các cuộc khủng hoảng ngân hàng
1.1.2. Khó khăn trong việc cắt giảm nhân viên
Công nhân viên chức trong NHTM rất nhiều, đặc biệt là NHTM QD.
Số lao động trung bình trên 415 000 người
5
. Người đông dẫn đến hiệu quả thấp,
tăng tối đa giá thành của ngân hàng. So sánh đối chiếu giữa NHTM và ngân
hàng có vốn đầu tư nước ngoài mới thành lập có rất ít công nhân viên chức,
hiệu quả cao, có thể trả công nhân viên chức mức lương khá cao, từ đó thu hút
lượng lớn nhân viên có trình độ cao, điều này lại tăng cường hơn nữa sức cạnh
tranh của những ngân hàng này và làm suy yếu sức cạnh tranh của NHTM QD.
3 Các số liệu tham khảo từ: Far Eastern Economic Review 14/11/2002
The Economist 25/11/2002
Business Week 25/11/2002
4 Theo Tạp chí Thị trường t i chính tià ền tệ 15/10/2003

5 Tạp chí Thông tin Kinh tế- Xã hội (Số 6/2003)
So sánh quốc tế lại càng rõ nét hơn. Ngân hàng quốc tế có quy mô tiền
vốn giống như ngân hàng Công thương Trung Quốc, số công nhân viên chức
thường không được vượt quá 30 nghìn người, như vậy, quy mô quản lý tài sản
và tổng kim ngạch lợi nhuận bình quân đầu người của công nhân viên chức ở
những ngân hàng đó lớn hơn nhiều so với ngân hàng Công thương Trung Quốc.
1.1.3. Chất lượng tài sản kém, tỷ lệ an toàn vốn thấp
Thực hiện quản lý tỉ lệ tiền vay và chất lượng tiền vốn tín dụng ngày
càng xấu đi, tỉ lệ đủ vốn thấp là bài toán khó, tồn tại phổ biến của NHTM Trung
Quốc. Quản lý tỉ lệ tiền vay là quản lý kinh doanh toàn diện lấy nguyên tắc đối
xứng giữa tiền vốn và tiền vay làm cơ sở, từ góc độ kết hợp tiền vốn và tiền
vay. Thông qua việc đặt ra hàng loạt chỉ tiêu tỉ lệ, từ khống chế duy trì sự cân
đối trong kết cấu tổng lượng giữa nguồn vốn với tiền nợ nhằm quy phạm hành
vi kinh doanh của cơ quan tài chính, từ đó bảo đảm sự điều tiết linh hoạt và
năng lực chi trả đầy đủ của tiền vốn, bảo đảm sự cân đối giữa tính an toàn, tính
lưu động và tính lợi nhuận của tiền vốn thống nhất với việc thực hiện mục tiêu
và nguyên tắc cơ bản này. Nó là phương thức và biện pháp quan trọng quản lý
hiện đại hoá NHTM. Nhưng xét từ tình hình thực tế ở Trung Quốc trong thời
gian gần đây cho thấy, việc thực hiện quản lý tỉ lệ tiền vốn và tiền vay một cách
quy củ còn gặp rất nhiều khó khăn. Ở các nước khác, tỷ lệ của vốn cho vay/ tiền
gửi tại các NHTM nhà nước thường không vượt quá 50%. Nhưng tại Trung
Quốc, tỷ lệ này đã đạt quá 70%
6
. Mặc dù tỷ lệ này đã giảm đôi chút, xong nó
chưa được xuống mức như mục tiêu và như dự kiến. Ngoài ra, theo tài liệu có
liên quan cho thấy, tiền vốn trong NHTM QD ở Trung Quốc thiếu một cách
nghiêm trọng. Theo quy định của “Luật ngân hàng thương mại”, tiền vốn của
NHTM nên đạt 8% tiền rủi ro. Hiện nay đa số NHTM QD khó mà đạt được
6 Theo Tạp chí Ngoại thương 1-10/5/2003
mức này, ngân sách nhà nước không có tiền đầu tư vào nhiều hơn nữa, làm cho

tín dụng và khả năng chống lại rủi ro của ngân hàng liên tục bị suy yếu. Mặc dù
năm 1998, Bộ tài chính đã phát hành 270 tỉ NDT
7
trái phiếu đặc biệt, làm thay
đổi đôi chút tình hình thiếu tiền vốn trong 4 NHTM QD, nhưng vấn đề vẫn khá
nghiêm trọng. Hơn nữa, chất lượng tiền vốn tín dụng ngày càng kém, thêm vào
đó, tỷ lệ đủ vốn không ngừng giảm sút, làm cho chỉ tiêu lượng hoá phản ánh
thành quả quản lý tiền vốn, tiền vay khó mà thực hiện được, khó thực hiện toàn
diện và quy củ việc quản lý tỉ lệ tiền vốn và tiền nợ, càng khó hoà nhập vào quỹ
đạo của quy tắc quốc tế. Trong lĩnh vực tài chính hiện đại, cho dù một NHTM
quản lý khá tốt cũng có thể nảy sinh vấn đề, chứ đừng nói đến trong thời buổi
tiền tệ dao động, khủng hoảng tiền tệ có thể xảy ra bất cứ lúc nào, gây ra cho
ngân hàng những tổn thất ngoài sức tưởng tượng, thậm chí dẫn đến ngân hàng
phá sản. Như cuộc khủng hoảng của ngân hàng Nhật trong những năm gần đây,
sự phồn vinh ảo của ngành ngân hàng do nền kinh tế bong bóng tạo ra, để lại
mầm hoạ cho ngành kinh doanh ngân hàng, một khi bong bóng vỡ sẽ xuất hiện
phản ứng dây chuyền, dẫn đến nảy sinh hàng loạt vấn đề. Sự sụp đổ của mấy
quỹ tín dụng lớn năm 1996, sự sụp đổ của ngân hàng Thác Trực-Đảo Hô Cai
Đô -Nhật Bản vào tháng 11 năm 1997 và sự sụp đổ của công ty chứng khoán
Nhật Bản lớn-Công ty chứng khoán Sơn Nhất đều là những ví dụ mới nhất về
rủi ro tài chính. Vấn đề tài chính nghiêm trọng xuất hiện ở NHTM 100% vốn
nhà nước trong thời gian gần đây đã chứng tỏ điều này. Cùng với việc xây dựng
cơ cấu kinh doanh mới, NHTM CP sử dụng các biện pháp có lợi, tìm mọi cách
thu hồi các khoản nợ cũ, luân chuyển lượng vốn tồn đọng, tích cực điều chỉnh
kết cấu, ưu hoá chất lượng tiền vốn khiến cho kết cấu lâu dài và ngắn hạn của
tiền vốn cho vay tín dụng cũng như phương hướng kết cấu ngành ngân hàng có
được sự điều chỉnh phân bố hợp lý. Nhìn từ tổng thể, thực lực kinh doanh của
7 Theo Sách: Trung Quốc- nhìn lại một chặng đường phát triển
NHTM còn chưa đủ hùng hậu, trình độ quản lý kinh doanh hiện đại hoá chưa
cao, nhiệm vụ ưu hoá nguồn vốn còn rất nặng nề. Điều đó không chỉ không

tương xứng với địa vị của NHTM khi tham gia vào sự vận hành của thị trường,
mà còn ảnh hưởng đến việc phát huy ưu thế tổng thể, làm yếu đi chức năng dịch
vụ. Mặc dù NHTM đã thành lập ban ngành bảo toàn tiền vốn, nhưng do về căn
bản mà nói, mấu chốt thực sự của việc luân chuyển tiền vốn là ở chỗ cải cách
thể chế, tức là làm như thế nào để thúc đẩy sự phát triển của cải cách doanh
nghiệp lại đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của ngân hàng.
1.1.4. Khó loại bỏ tận gốc sự can thiệp hành chính, các NHTM CP đang ở
trong thế bị cạnh tranh không lành mạnh
Sự can thiệp của chính quyền các cấp tới NHTM khó mà loại bỏ được
tận gốc ở đầu thế kỉ 21. Chính quyền các cấp muốn “lập thành tích hành chính”
thì phải phát triển kinh tế, nâng cao trình độ kinh tế của địa phương mình và cả
quốc gia. Vậy, tiền phát triển lấy ở đâu? Hiện nay chủ yếu lấy từ ngân hàng.
Đặc biệt đối với chính quyền địa phương, dùng tiền của NHTM QD vào phát
triển kinh tế địa phương mình, đối với địa phương chỉ có lợi chứ hoàn toàn
không có hại. Vì dù không thu về được khoản vay của NHTM QD, thì cũng là
việc của riêng ngân hàng hay là việc của cả một quốc gia. Nhưng hạng mục
hoặc công trình mà ngân hàng hỗ trợ tiền vốn xây dựng đã ở đó rồi, thường
không mất đi đâu được. Nếu nói do những khoản vay quá thời hạn dẫn đến sức
ép về lạm phát, vậy thì sức ép này có thể truyền đến những khu vực khác, làm
cho nhiều vùng và nhiều người phải chịu trách nhiệm hơn; song những cái lợi
do xây dựng đem đến thì địa phương lại này hưởng hết, đây là động lực nội tại
để chính quyền can thiệp vào ngân hàng.
Đối với các NHTM CP, mặc dù đã trải qua nhiều năm cải cách, nhưng
mối quan hệ khăng khít giữa doanh nghiệp và chính phủ vẫn chưa hoàn toàn bị
cắt đứt, vẫn tồn tại hàng ngàn vạn mối liên hệ, thêm vào đó, một vài nhà lãnh
đạo của chính phủ còn chưa nhận thức đầy đủ về tính nguy hiểm cao của ngành
tiền tệ và những ảnh hưởng của sự ổn định của ngành tiền tệ đối với toàn bộ xã
hội, cho nên biện pháp hành chính của chính quyền các cấp vẫn phát huy vai trò
trọng yếu ở những trình độ khác nhau trong sự phát triển kinh tế và vận hành
của thị trường. Trong điều kiện đó, tuy có những bộ luật như “Luật ngân hàng

thương mại” để đảm bảo nhưng những NHTM hiện có cũng khó có thể giải
quyết một cách thuận lợi mối quan hệ giữa người đầu tư, người chi phối, người
sử dụng và người kinh doanh để hợp lý hoá hành vi của ngân hàng; khó có thể
tránh được sự can thiệp hành chính vô lý của chính quyền các địa phương, ảnh
hưởng trực tiếp đến việc quản lý và kinh doanh của toàn bộ các NHTM.
Trong hệ thống NHTM, NHTM QD vẫn chiếm trên 90% hạn ngạch
thị trường, từ đó thiếu đi sự hình thành kết cấu và cơ chế thị trường mà thị
trường tiền tệ cạnh tranh bình đẳng, có trình tự, hiệu quả cao cần, rơi vào địa vị
cạnh tranh không bình đẳng; thêm vào đó, chính sách nhà nước và phương thức
quản lý vẫn chưa xem xét đầy đủ đến sự khác nhau giữa thể chế NHTM CP và
thể chế vận hành nội bộ, đối xử giống như với NHTM QD, đã hạn chế sự phát
huy tính ưu việt của thể chế và cơ chế của NHTM CP. Ví dụ như có một vài
ngân hàng thông qua việc nâng cao lãi suất, thủ tục chi trả để lôi kéo tiền gửi,
lấy cho vay để thu hút tiền gửi; chính sách nhà nước quy định, một vài đơn vị
nào đó phải đến gửi tiền tại NHTM QD và quy định đơn vị chỉ có thể mở một
tài khoản gốc tại một ngân hàng, tất cả những điều này khiến cho NHTM CP
rơi vào thế cạnh tranh bất lợi.
1.1.5. Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp thấp
Tối đa hoá lợi nhuận là động cơ và mục đích cơ bản trong kinh doanh
của NHTM, hiệu quả kinh tế là điểm xuất phát và quy tụ trong hoạt động kinh
tế của nó. Vậy nên, xuyên suốt quá trình quyết sách cho vay vốn và quá trình
quản lý là sự vận hành tiền tệ lấy việc hạ thấp và phòng chống rủi ro cho vay
làm mục tiêu, lấy nâng cao lợi ích kinh tế làm nòng cốt, tăng cường quản lý tín
dụng nhằm bảo đảm sự chính xác và đạt hiệu quả cao, đây không chỉ là yêu cầu
khách quan của quy luật vận động tiền tệ tín dụng, mà còn là yêu cầu nội tại
trong quá trình tồn tại và phát triển của ngân hàng. Có thể nói, thiết thực hạ thấp
rủi ro tín dụng, nâng cao chất lượng tiền tín dụng là một bài toán khó mà
NHTM Trung Quốc gặp phải đầu thế kỉ 21. Theo các tài liệu thống kê có liên
quan, 1/3 lượng tiền cho vay tín dụng của NHTM QD không thu hồi lại được.
Ước tính rằng cần có khoảng 300-400 tỷ NDT (36- 48 tỷ USD) mỗi năm trong

vòng 10 năm để tăng mức dự phòng rủi ro tín dụng lên 50%, trong đó Chính
phủ phải đóng góp khoảng 2/3, phần còn lại được huy động ở thị trường chứng
khoán và mua bán nợ
8
. Chất lượng tiền tín dụng thấp, rủi ro lớn, một mặt gây ra
bởi những nguyên nhân như: quản lý tiền tín dụng của ngân hàng thiếu cơ chế
hạn chế và ràng buộc trách nhiệm có hiệu quả, xem nhẹ quản lý, thu hồ, coi
trọng cho vay; mặt khác, chịu sự quản lý của các doanh nghiệp có quan hệ
huyết thống với ngân hàng. Vì chất lượng tiền và hiệu quả kinh tế của doanh
nghiệp ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng vốn và hiệu quả kinh tế của
ngân hàng, tình hình vận hành của doanh nghiệp quyết định trực tiếp tới hiệu
quả vận hành của tiền tệ. Mô hình sản xuất của doanh nghiệp đầu tư nhiều, hiệu
quả thấp, làm cho tiền tín dụng rất khó lưu thông trở lại và tăng giá trị. Sự
xuống cấp liên tục trong hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp lại ảnh hưởng đến
việc thực hiện hiệu quả kinh tế của ngân hàng. Đặc biệt là trong quá trình doanh
nghiệp nhà nước cải cách xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại, một số doanh
nghiệp nhân cơ hội thay đổi cơ chế kinh doanh, nuốt chửng tiền vay tín dụng
của ngân hàng, tìm đủ mọi cách để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng,
8 Theo Tạp chí Thị trường t i chính tià ền tệ 15/10/2003
làm cho ngân hàng nhà nước đứng trước cuộc khủng hoảng thất thoát tiền tệ.
Làm thế nào để thúc đẩy việc nâng cao chất lượng nguồn vốn và hiệu quả kinh
tế của doanh nghiệp, đồng thời với việc đảm bảo cho doanh nghiệp kinh doanh
bình thường, bảo đảm an ninh tín dụng ngân hàng, tiếp đó nâng cao chất lượng
hoạt động tín dụng của ngân hàng, đã trở thành một vấn đề mang tính then chốt
để thực hiện cải cách thương mại hoá ngành ngân hàng một cách thuận lợi.
1.1.6. Điểm mạng của các NHTM QD khó tinh giản, các NHTM CP chịu
nhiều trói buộc
Kể từ khi NHTM phi quốc hữu từng bước phát triển trở đi,
được sự cố gắng giúp đỡ của Ngân hàng nhân dân, mạng lưới cơ quan chi
nhánh của các ngân hàng đều được mở rộng tương đối lớn. Tuy nhiên, do hệ

thống ngân hàng Trung Quốc vẫn thể hiện cục diện bốn NHTM QD lớn lũng
đoạn thị trường, quy mô của mấy NHTM CP rất nhỏ. Trong việc mở rộng thị
trường chịu sự trói buộc của Ngân hàng nhân dân và những hạn chế của chỉ tiêu
giám sát NHTM QD không chỉ khó có thể hình thành được sự cạnh tranh bình
đẳng có hiệu quả, mà trong việc kinh doanh cũng tồn tại những yếu kém về quy
mô, một vài ngân hàng chịu ảnh hưởng mang tính khu vực, trong mạng lưới cơ
cấu cũng như trong việc khai thác thị trường đều chịu sự trói buộc.
Bên cạnh đó, việc ngân hàng tăng thêm điểm mạng khó có thể thống
nhất được với việc nâng cao hiệu quả quy mô. NHTM vận hành theo quy tắc thị
trường phải định vị và thiết lập các cơ quan chi nhánh theo xu hướng của thị
trường và khu vực thị trường. Nhưng hiện nay thể chế và biện pháp quản lý này
rất khó thay đổi trong thời gian ngắn.
(1). Về việc thiết lập điểm mạng. Hiện nay điểm mạng cơ sở của
NHTM 100% vốn nhà nước đều thiết lập theo khu hành chính, mang đậm sắc
thái cơ quan, mặc dù mấy năm gần đây đã áp dụng nhiều biện pháp, việc cải
cách cơ cấu đã đóng cửa và sáp nhập một số chi nhánh, song vẫn gặp phải cản
trở rất lớn, tình hình này càng nghiêm trọng hơn ở đầu thế kỉ 21.
(2). Về vấn đề đơn vị hạch toán kế toán. Lấy ngân hàng chi nhánh cấp
huyện là đơn vị hạch toán độc lập là cách làm của NHTM QD trong mấy chục
năm nay, vấn đề lớn nhất của cách làm này là không xét đến thực lực kinh tế,
không xét đến trình độ phát triển kinh tế các khu vực khác nhau, các ngành
nghề khác nhau và sự khác biệt về môi trường bên ngoài, bất lợi cho việc huy
động tính tích cực của ngân hàng đại diện các cấp, bất lợi cho việc nâng cao
hiệu quả kinh tế của toàn ngành.
1.1.7. Thiếu kinh nghiệm cạnh tranh quốc tế
Cùng với việc mở cửa hơn nữa thị trường tài chính ở Trung Quốc,
NHTM Trung Quốc ngoài việc phải cạnh tranh khốc liệt với các cơ quan tài
chính khác ở trong nước, còn phải đứng trước thách thức của các cơ quan tài
chính nước ngoài trong khi tham gia cạnh tranh quốc tế. Về phương diện này,
rõ ràng ngân hàng thương mại Trung Quốc ở thế yếu, chủ yếu thể hiện ở:

(1) Ngoài ngân hàng Trung Quốc (chiếm 80% khu vực tài chính hải
ngoại của Trung Quốc, 40% thanh toán thương mại quốc tế và 85% thanh toán
bù trừ ngoại hối
9
), thời gian trong ngành ngoại hối của các ngân hàng thương
mại 100% vốn nhà nước khác tương đối ngắn, thiếu kinh nghiệm làm quen với
các ngân hàng nước ngoài, vì vậy mà tương đối xa lạ với thông lệ đặt giá tham
khảo trong nghiệp vụ ngân hàng, công nghệ và quản lý trên quốc tế cũng là một
cản trở đối với các NHTM QD.
(2) Trình độ công nhân viên chức kém, nhân tài quản lý cao cấp thiếu
nghiêm trọng;
9 Theo Tạp chí Thông tin kinh tế- xã hội Số 6/2003
(3) Phương thức thông tin và quyết toán lạc hậu.
1.2. Những cải cách về chiều sâu của các NHTM QD và NHTM CP
Từ những phân tích trên đây có thể thấy, NHTM Trung Quốc đứng
trước khó khăn rất lớn, nếu không giải quyết hoặc giải quyết cơ bản những vấn
đề trên đây trong vòng vài năm. Trong quá trình ngành ngân hàng Trung Quốc
không ngừng mở cửa, NHTM cũ sẽ ngày càng suy thoái, nhưng nếu những
NHTM mới không rút ra bài học thì cũng có thể giẫm lên vết xe đổ. NHTM
muốn thoát khỏi khó khăn thì phải đi sâu cải cách, mạnh dạn khai thác, từng
bước cải thiện kinh doanh, cụ thể bao gồm những phương diện sau đây:
1.2.1. Xử lý cấp bách nợ xấu
Sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, các ngân hàng nước ngoài đang
lập kế hoạch chiếm lĩnh thị trường rộng lớn của Trung Quốc vào năm 2006,
chính quyền Bắc Kinh đang nóng lòng làm sạch lĩnh vực ngân hàng nhằm tăng
cường khả năng cạnh tranh với những ngân hàng trên thế giới. Sau nhiều năm
Chính phủ buộc các ngân hàng cho các doanh nghiệp quốc doanh vay theo kế
hoạch phát triển kinh tế chứ không vì lợi nhuận và sự không nỗ lực tìm cách thu
hồi nợ của các ngân hàng trong quá khứ, phần lớn các NHTM QD đều chịu
gánh nặng lớn của món nợ không hoạt động (non-performing loan: NPL). Nếu

tính theo hệ thống phân loại nợ 5 cấp mới thì số nợ không hoạt động trong dư
nợ vay của Ngân hàng Trung Quốc là 27% và Ngân hàng Công thương Trung
Quốc là 29,8%
10
. Nhằm nỗ lực giải quyết tình hình, cuối những năm 1990, Bộ
tài chính đã thành lập 4 công ty quản lý tài sản là China Orient, China Huarong,
China Cinda và China Great Wall. Từ năm 1999, Nhà nước đã mua lại 1,39 tỷ
NDT nợ xấu, chiếm khoảng 20% của tổng số nợ vào thời điểm đó, các khoản
nợ không hoạt động được chuyển cho 4 công ty quản lý tài sản, mỗi công ty
10 Theo Tạp chí Thị trường t i chính tià ền tệ 15/10/2003
liên đới với một trong bốn ngân hàng lớn và những công ty này có khoảng 10
năm để giải quyết hết các món nợ
11
. Theo các quy định của hệ thống ngân hàng
Trung Quốc hiện nay, các ngân hàng không được phép cơ cấu lại các khoản vốn
cho vay và chuyển quyền của các chủ tín dụng sang các nhà đầu tư khác. Việc
này dẫn đến người vay vốn chỉ có hai lựa chọn: hoặc thanh toán đầy đủ các
khoản nợ của mình, hoặc thanh toán nợ bằng cách phá sản khi đã hoàn toàn
không còn khả năng hoạt động. Trong trường hợp China Huarong, công ty này
đã giải quyết 31 tỷ NDT nợ khó đòi tính đến cuối năm 2001. Trong số tài sản
mà China Huarong phục hồi được có hơn 80% là thông qua việc cơ cấu lại nợ,
trong đó chỉ có dưới 3% là thông qua phá sản
12
. Ngoài ra, theo báo cáo tổng tỷ
lệ thu hồi trong năm 2002 là khoảng 50% và tỷ lệ thu hồi bằng tiền mặt chiếm
khoảng 20%. Tuy nhiên nếu so sánh với tổng các món vay thì số nợ thu hồi
trong năm 2001 chỉ khoảng 5,5% (xem bảng dưới), do đó việc tham gia của các
đối tác nước ngoài là hết sức cần thiết để đẩy nhanh quá trình giải quyết các
món nợ xấu. Công ty quản lý tài sản China Orient đã bán món nợ 217 triệu
USD đầu tiên của họ cho một nhà đầu tư nước ngoài vào tháng 4- 2003, mở ra

khả năng bán đấu giá các khoản nợ của Trung Quốc cho các nhà đầu tư nước
ngoài
13
.
Bảng 2: Tình hình hoạt động của các công ty quản lý tài sản của các
NHTM QD Trung Quốc
Tên công ty China
Orient
China
Huarong
China
Cinda
China
Great Wall
Tổng
Ngân hàng mẹ Ngân hàng
Trung Quốc
Ngân hàng
Công
Thương
Ngân hàng
Xây dựng
Ngân hàng
Nông nghiệp
11 Theo Tạp chí Thị trường t i chính tià ền tệ 15/10/2003
12 Theo Tạp chí Ngoại thương 1-10/4/2003
13 Theo Tạp chí Thị trường t i chính tià ền tệ 15/10/2003
Tổng số nợ quản
lý (tỷ USD)
32,8 50,1 45,9 42,6 171,4

Số nợ đã xử lý
trong năm 2001
(tỷ USD)
2,2 2,8 3,6 0,8 9,4
Tỷ lệ nợ đã xử
lý trên tổng số
nợ
6,7% 5,6% 7,8% 1,8% 5,5%
Lượng tiền mặt
thu hồi trong
năm 2001 (tỷ
USD)
0,5 0,9 1,3 0,5 3,2
Lượng thu hồi
phi tiền mặt
trong năm 2001
(tỷ USD)
0,5 0,6 0,2 N/A
Tổng lượng thu
hồi trong năm
2001 (tỷ USD)
1,0 1,5 1,5 N/A
Tỷ lệ thu hồi
trong năm 2001
46,4% 54% 34,4% N/A
Tỷ lệ thu hồi
tiền mặt trong
năm 2001
24% 32,5% 35,1% 62,5%
Nguồn: PwC, website của các công ty quản lý tài sản trên

1.2.2. Tăng cường quản lý nội bộ, tuân theo cơ chế vận hành hiện đại
Hiện nay, trình độ quản lý và hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng
đều có sự khác biệt khá lớn, chứng tỏ nâng cao trình độ quản lý ngân hàng và
trình độ kinh doanh vẫn có một không gian khá rộng. Vì vậy việc tăng cường
công tác tự quản lý kinh doanh là trọng điểm cải cách, thông qua việc nhập vào
và thúc đẩy các phương thức, phương pháp và biện pháp quản lý kinh doanh
hiện đại tiên tiến mà ngân hàng nước ngoài áp dụng phổ biến, không ngừng đổi
mới chế độ, bố trí hợp lý cơ cấu nội bộ, hạ thấp giá thành, nâng cao hiệu quả
quản lý.
Trong kinh doanh NHTM, một ngân hàng phải có chính sách và mô
hình kinh doanh thống nhất. Xét mô hình của các NHTM QD, ta các ngân hàng
này thành lập chi nhánh ở mọi cấp, cơ quan chi nhánh ở mỗi cấp đều ứng với cơ
quan của chính quyền địa phương sở tại, ngân hàng mỗi cấp đều thu hút tiền gửi
và cho vay. Kết quả: một là, tiền vốn của ngân hàng vận hành phân tán, tiền vay
của vô số ngân hàng cơ sở phân tán ở muôn vàn doanh nghiệp nhỏ, làm cho
việc quản lý tiền cho vay trở nên rất khó khăn, tăng cường đầu tư lượng lớn
nhân lực, vật lực là một trong những nguồn gốc chủ yếu tạo nên hiện tượng
tăng giá thành của ngân hàng và nợ không đòi được; hai là, sự can thiệp của
chính quyền địa phương, yêu cầu ngân hàng cho những công trình không có
hiệu quả hoặc hiệu quả không rõ rệt vay tiền, ngân hàng cơ sở không có năng
lực cũng như các biện pháp để ngăn chặn, cũng là nguyên nhân quan trọng tạo
thành khoản nợ không thể đòi lại.
Vì vậy, đồng thời với việc thu nhỏ và điều chỉnh kết cấu, công chức,
ngân hàng thu hẹp một cách thích đáng quyền cho vay tiền của ngân hàng cơ sở
lên ngân hàng cấp trên cũng có thể coi là biện pháp quan trọng hiện nay nhằm
giảm bớt rủi ro, nâng cao chất lượng tiền vốn trong ngân hàng. Cụ thể, để giảm
tỷ trọng của vốn cho vay không hoạt động và giảm lỗ, các NHTM QD đã tăng
cường công tác quản lý pháp nhân và một trong những biện pháp là rút quyền
của các chi nhánh cấp dưới trong việc mở rộng vốn cho vay. Do vậy, một bộ
phân đáng kể các chi nhánh địa phương đã cho thấy thực tế là tỷ lệ vốn cho vay/

tiền gửi đã giảm mạnh. Tuy nhiên, nếu tính chung trên phạm vi toàn quốc thì
chênh lệch giữa vốn cho vay và tiền gửi chưa phải là vấn đề đáng lo ngại. Trên
thực tế nhờ vào sự phát triển của thị trường trái khoán, thị trường hối phiếu, các
thị trường giao ngay và mua lại liên ngân hàng, các tài sản của NHTM đã được
đa dạng hoá và việc mở rộng chênh lệch giữa vốn cho vay và tiền gửi là một xu
hướng khó tránh khỏi.
Quản lý NHTM theo cơ chế vận hành của chế độ doanh nghiệp hiện
đại, có nghĩa là xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại ở các NHTM, thực hiện
quyền tài sản minh bạch, quyền lợi và trách nhiệm chính xác, rõ ràng, phân tách
giữa chính quyền với doanh nghiệp, quản lý khoa học, hệ thống quyết sách,
chấp hành và quản lý giám sát kiện toàn, làm cho NHTM thực sự trở thành thực
thể pháp nhân và chủ thể thị trường kinh doanh tự chủ, tự chịu lỗ lãi. Vì vậy,
phải kết hợp giữa cải cách NHTM với cải tổ, cải tạo và tăng cường quản lý, xây
dựng chế độ quyền tài sản ngân hàng minh bạch, riêng đối với các NHTM QD,
sự lựa chọn lý tưởng nhất là cải tạo chế độ cổ phần, hình thành cơ chế vận hành
NHTM QD mới, đó là:
(1). Phân tán quyền tài sản. Đánh giá, thanh toán tài sản và hạch toán
tiền vốn của các NHTM QD, trên cơ sở này phân tách quyền tài sản giữa các
chủ thể khác nhau, từ đó làm cho chủ thể tiền vốn minh bạch hoá, tư nhân hoá.
Lấy đó làm rõ ràng trách nhiệm và quyền lợi về tiền của chủ thể quyền tài sản,
làm cho họ thực sự có động lực nội tại và sức sống bên ngoài trong hoạt động
kinh doanh.
(2). Tập trung hoá quyền lực. Thành lập đại hội cổ đông, Hội đồng
quản trị, Hội đồng giám sát theo thông lệ của ngân hàng thương mại cổ phần
hoá, hình thành hệ thống kết cấu tổ chức ràng buộc lẫn nhau “tam quyền phân
li” (tách rời ba quyền). Bảo đảm tư cách pháp nhân độc lập của ngân hàng, thực
hiện ràng buộc và điều tiết cân đối của quyền sở hữu đối với quyền kinh doanh.
1.2.3. Dung hoà mối quan hệ giữa chính quyền và ngân hàng, ngân hàng và
các doanh nghiệp
Lâu nay, quan hệ giữa chính quyền với ngân hàng, giữa ngân hàng với

doanh nghiệp luôn là vấn đề nhức nhối trong vận hành NHTM ở Trung Quốc.
Do chuyển đổi chức năng chính phủ trì trệ, đặc biệt là các NHTM QD khó mà
xây dựng được hệ thống quản lý, giám sát và vận hành tiền vốn nhà nước minh
bạch giữa quyền và nghĩa vụ, hành vi của NHTM QD vừa chịu sự quản lý quá
sâu của chính quyền, vừa phải quan tâm đến doanh nghiệp, làm cho NHTM QD
thường vì một yêu cầu đặc biệt nào đó mà phải từ bỏ lợi ích thương mại để cho
vay hoặc chi trả đệm mọi khoản, trở thành người gánh vác “chức năng mang
tính chính sách”, dẫn đến chất lượng tiền vốn trong ngân hàng ngày càng kém,
tỉ lệ tiền không trong sạch tăng, hiệu quả kinh tế giảm sút. Vì vậy, sự can thiệp
của chính quyền đối với ngân hàng nên thể hiện ở xu hướng chính sách ngành
và điều chỉnh kết cấu.
Trước hết, phải làm thuận lợi quan hệ giữa chính quyền với ngân
hàng. Đặc biệt đối với các NHTM QD, chỉ khi ngân hàng thực sự thoát khỏi
nghĩa vụ mang tính xã hội mà đáng lẽ do chính quyền đảm nhận, xoá bỏ sự can
thiệp của chính quyền các cấp đối với công việc nội bộ và hoạt động kinh doanh
của ngân hàng, thực sự xây dựng mục tiêu kinh doanh tối đa hoá lợi nhuận ngân
hàng, thì ngân hàng mới có sự chuyển biến thực chất. Vì vậy, phải tập trung giải
quyết tốt những vấn đề sau:
Thứ nhất, từng bước xoá bỏ chức năng mang tính chính sách và nghĩa
vụ mà ngân hàng phải gánh vác, làm rõ tính chất thương mại của ngân hàng.
Điều này đòi hỏi chính quyền phải nhanh chóng chuyển đổi chức năng, giảm
thiểu sự quản lý trực tiếp đối với việc kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó giảm
thiểu sự can thiệp mang tính chính sách không cần thiết đối với ngân hàng.
Thứ hai, làm rõ mục tiêu kinh doanh tối đa hoá lợi nhuận và trách
nhiệm bảo đảm giữ và tăng giá trị tiền vốn nhà nước của người kinh doanh ngân
hàng đối với các NHTM QD. Chuyển mục tiêu công tác của giám đốc các ngân
hàng từ chỗ chính quyền chịu trách nhiệm lãnh đạo thành ngân hàng tự chịu
trách nhiệm kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, từ đó
làm cho việc theo đuổi tối đa hoá lợi nhuận không còn là một sự thúc giục của
lực lượng bên ngoài mà là động lực nội tại của ngân hàng các cấp. Nhằm giảm

thiểu sự can thiệp hành chính vào ngân hàng, cải cách cơ chế hình thành giám
đốc ngân hàng, thay đổi tình trạng của ngân hàng nhà nước, các ban ngành tổ
chức, ban ngành nhân sự cùng quản lý nhân sự ngân hàng, xoá bỏ sự phân cấp
hành chính trong ngân hàng, chặt đứt quan hệ huyết thống giữa ngân hàng với
cơ quan chính quyền.
Tiếp đó, tạo thuận lợi cho mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh
nghiệp. Tín dụng là nền tảng của quan hệ giữa ngân hàng với doanh nghiệp.
Hiện nay quan niệm về tín dụng của rất nhiều doanh nghiệp trong nước yếu,
năng lực trả nợ kém, dẫn đến chất lượng vốn tín dụng của ngân hàng giảm sút
nghiêm trọng, tạo nên một lượng lớn các khoản nợ khó đòi, không đòi được,
ảnh hưởng tới chuỗi tín dụng của toàn xã hội. Muốn thay đổi cục diện bất lợi
này, một mặt phải thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, tăng cường sức cạnh tranh
thị trường của doanh nghiệp thông qua đi sâu cải cách, đồng thời phải tăng
cường cơ chế tự ràng buộc của doanh nghiệp. Chế định pháp luật, pháp quy
ràng buộc và phạt đối với những hành vi nợ dai của doanh nghiệp, tăng cường ý
thức tín dụng của doanh nghiệp; mặt khác, phải tạo lập được quan hệ bình đẳng
giữa ngân hàng và doanh nghiệp, lấy quan hệ kinh tế hàng hoá làm điểm nâng
đỡ, đồng thời phát triển quan hệ tín dụng nhiều tầng bao gồm cả tín dụng
thương nghiệp, tín dụng tiêu dùng, quỹ tín dụng...., thiết thực cải thiện tình
trạng doanh nghiệp.
1.2.4. Nâng cao trình độ quản lý và dịch vụ tín dụng
Trình độ quản lý và phục vụ tín dụng phản ánh địa vị và vai trò của
một ngân hàng trong phát triển kinh tế địa phương. Trong tình hình hiện nay
hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp giảm sút, ý thức tín dụng kém, chất lượng
tiền vốn xấu đi, trình độ quản lý và phục vụ tín dụng càng trở thành khâu then
chốt quyết định ngân hàng có thể phát triển ổn định hay không. Do vậy, NHTM
phải nỗ lực hoàn thiện cơ chế giữ và tăng giá trị tiền vốn tín dụng, nâng cao đến
mức tối đa hiệu quả kinh tế. Vì vậy các ngân hàng tiếp tục tăng cường công tác
trên các phương diện sau:
- Kiên trì áp dụng các kỹ thuật xếp hạng tín dụng nhất quán với các

nguyên tắc của NHTM, lấy quản lý rủi ro làm cơ sở. Với việc chấm dứt các
khoản vay theo yêu cầu của chính phủ, các ngân hàng đang yêu cầu tài sản thế
chấp cho các món vay mới và dần dần đưa các hệ thống xếp hạng tín dụng của
họ vào hoạt động.
- Kiên trì “nguyên tắc ba tính”: tính an toàn của tiền vay, tính lưu
động và tính lợi nhuận, để chú ý lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau, đạt được cân đối.
Thay đổi phương pháp quản lý cho vay cũ lấy quản lý tính lưu động làm cơ sở,
thích ứng với yêu cầu về quản lý tỉ lệ tiền vốn và tiền vay, lựa chọn hướng đầu
tư một cách thận trọng và tích cực, lựa chọn những khách hàng cơ bản một cách
ổn thoả và sáng suốt, nắm vững ba khâu lớn: cho vay, thu hồi và quản lý một
cách khoa học, khiến cho mỗi khoản tiền tín dụng đều đạt được hiệu quả tương
đối.
Đồng thời với việc phân loại trao quyền, nên nâng cao đẳng cấp quyết
sách trong kinh doanh tín dụng, tập trung quyết sách, chọn những quyết sách tốt
nhất trong những quyết sách tốt, phát huy đầy đủ hiệu quả quy mô tiền tệ, tập
trung tiền tệ ưu tiên hỗ trợ những khách hàng chủ yếu, thiên về những khách
hàng có sức cạnh tranh mạnh, hiệu quả cao, làm cho lượng tiền vốn có hạn đem
lại hiệu quả cao nhất.
- Nâng cao chất lượng phục vụ, tăng cường năng lực cạnh tranh. Chất
lượng phục vụ của ngân hàng không chỉ là chất lượng phục vụ ở quầy. Đương
nhiên, chất lượng phục vụ ở quầy rất quan trọng, nó là một phương diện quan
trọng nữa của nghiệp vụ bán lẻ trong ngân hàng, hơn nữa là một kênh tuyên
truyền miệng quan trọng trong toàn xã hội, nếu phục vụ không tốt, khách hàng
sẽ đến những ngân hàng khác. Nhưng, một nghiệp vụ rất quan trọng nữa của
ngân hàng còn là nghiệp vụ bán buôn, hơn nữa, những nghiệp vụ này đòi hỏi
chất lượng phục vụ tổng hợp của ngân hàng. Ví dụ, cho khách hàng gửi lượng
tiền lớn được hưởng lãi suất ưu đãi, hoặc điều kiện vay và lãi suất vay khá ưu
đãi, cố vấn cho họ về quản lý tiền thu phí thấp và cố vấn về tài chính, hoặc dựa
trên yêu cầu của khách hàng tập hợp tiền vốn giúp họ, tạo điều kiện thuận lợi
cho họ đầu tư, thường xuyên đến nhà thăm hỏi khách hàng v.v...Vì vậy, cải

thiện phục vụ có thể nâng cao sức cạnh tranh của ngân hàng, đồng thời do sự
gia tăng trong cạnh tranh, ép các ngân hàng buộc phải cải thiện dịch vụ.
- Đối với các NHTM QD cần tăng cường phục vụ doanh nghiệp nhà
nước (DNNN). Ở Trung Quốc, DNNN luôn là xương sống của nền kinh tế quốc
dân, dù trong tình hình sau cải cách kết cấu kinh tế quốc dân phát sinh những
biến động lớn, trên các mặt: tăng giá trị, lợi nhuận, thu thuế, mức độ ảnh hưởng
và mức độ điều tiết DNNN vẫn là cây trụ đá giữa dòng trong nền kinh tế Trung
Quốc. Nhưng, hiện nay sau khi DNNN bước vào giai đoạn đánh trận quyết định
chuyển đổi thể chế và điều chỉnh kết cấu, khá nhiều doanh nghiệp gặp phải rất
nhiều vấn đề từ tầng sâu mang tính tổng hợp, như cơ chế kinh doanh không linh
hoạt, cải tạo kĩ thuật lạc hậu, về tổng thể thể hiện ở chỗ DNNN còn chưa thích
ứng được với những thay đổi và yêu cầu của nền kinh tế thị trường. NHTM QD,
với tư cách là một kênh chính cung ứng tiền tệ cho các DNNN, phát huy vai trò
quan trọng trong việc nâng đỡ các DNNN tồn tại và phát triển.
- Điều chỉnh các chính sách cho vay liên quan đến việc cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ vay vốn. Đó là, các ngân hàng đã nhấn mạnh đến tầm quan
trọng trong việc thành lập các bộ phận phụ trách công tác cấp vốn vay cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những biện pháp khác được đưa ra là việc xác lập
một hệ thống đánh giá độ tin cậy phù hợp với các doanh nghiệp này và quy định
quyền hạn cấp vốn lưu động, tăng giới hạn của lãi suất thả nổi đối với vốn cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay, tạo ra cơ chế hạn chế và kích thích để tăng
cường hoạt động marketing vốn vay, tăng hiệu quả của vốn cho vay và tăng
cường công tác đổi mới hoạt động cho vay vốn.
- Tăng cường các khoản cho vay tiêu dùng đối với khách hàng. Cùng
với sự phát triển của nền kinh tế Trung Quốc, các hộ gia đình ngày càng có xu
hướng vay mượn để chi tiêu xây nhà và mua sắm ô tô. Các khoản vay cho chi
tiêu từ ngân hàng Thương mại và Công nghiệp Trung Quốc- một NHTM lớn
nhất nước hiện nay- đã tăng 32 lần trong vòng 4 năm qua. Theo sổ nợ của các
ngân hàng, người tiêu dùng được vay từ 4 NHTM QD lớn đã tăng từ 1% lên
10% kể từ năm 1999 (Xem bảng 3). Điều này cho thấy một tín hiệu khả quan

đối với bảng cân đối tài sản của các NHTM QD. Có lẽ cho đến nay, người tiêu
dùng là những khách hàng đáng tin cậy hơn các DNNN, người tiêu dùng có
trách nhiệm trả các khoản nợ cho ngân hàng cao hơn các DNNN.
Bảng 3: Tỷ lệ vay tiêu dùng trong sổ nợ của 4 NHTM

Tổng cộng(tỷ USD):
9%
6%
2%
1%
840 768
781735

×