Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Nhận diện những biểu hiện văn hóa quản lý trong các tổ chức khoa học và công nghệ ( nghiên cứu trường hợp trường đại học khoa học xã hội và nhân văn, đại học quốc gia hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 90 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ THỊ CẨM THANH

NHẬN DIỆN NHỮNG BIỂU HIỆN VĂN HÓA QUẢN LÝ
TRONG CÁC TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
(Nghiên cứu trƣờng hợp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và nhân văn,
Đại học quốc gia Hà Nội)

LUẬN VĂN CAO HỌC
Chuyên ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ
Mã số: 60 34 72

Giáo viên hƣớng dẫn: PGS.TS Phạm Ngọc Thanh

Hà Nội, 2011


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ........................................................................................ 3
DANH MỤC CÁC BẢNG ..................................................................................................... 4
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 5
1. Tính cấp thiết của Luận văn: ........................................................................................... 5
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu : ................................................................................... 7
3. Mục tiêu nghiên cứu: .................................................................................................... 10
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: ................................................................................ 11
5. Vấn đề nghiên cứu: ....................................................................................................... 11
6. Giả thuyết nghiên cứu: .................................................................................................. 11
7. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu: ................................................................... 11
8. Ý nghĩa của Luận văn: .................................................................................................. 13


9 . Kết cấu Luận văn ......................................................................................................... 13
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VÀ VĂN HÓA
QUẢN LÝ ........................................................................................................................... 15
1.1.Lý luận về tổ chức KH&CN ....................................................................................... 15
1.1.1. Khái niệm tổ chức KH&CN ................................................................................ 15
1.1.2. Phân loại và đặc trƣng của tổ chức KH&CN ........................................................ 19
1.2. Lý luận chung về văn hoá quản lý .............................................................................. 21
1.2.1. Khái niệm văn hoá quản lý .................................................................................. 21
1.2.2. Các thành tố cấu thành văn hoá quản lý ............................................................... 26
1.2.3. Quá trình hình thành và phát triển văn hoá quản lý trong các tổ chức:.................. 34
CHƢƠNG 2. NHỮNG ĐẶC TRƢNG CƠ BẢN CỦA VĂN HÓA QUẢN LÝ TRONG CÁC
TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM..................................................... 38
2.1. Lịch sử hình thành và đặc điểm của hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ của Việt
Nam ................................................................................................................................. 38
2.2. Từ triết lý quản lý đến các biểu hiện cụ thể ................................................................ 42
2.2.1. Triết lý quản lý: ................................................................................................... 42
2.2.2. Những hệ giá trị cốt lõi: ....................................................................................... 45
2.2.3. Những biểu hiện cụ thể:....................................................................................... 49
CHƢƠNG 3: NHẬN DẠNG VĂN HÓA QUẢN LÝ CỦA TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA
HỌC VÀ NHÂN VĂN HÀ NỘI VỚI TƢ CÁCH LÀ MỘT TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ ...................................................................................................................... 59
3.1. Đặc trƣng văn hóa quản lý của Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn:.......... 59

1


3.1.1. Biểu hiện trực quan và phi trực quan ................................................................... 62
3.1.2. Giá trị cốt lõi và Triết lý quản lý của trƣờng Đại học KHXH&NV: ..................... 71
3.2 Các yếu tố ảnh hƣởng tới quá trình hình thành văn hoá quản lý của trƣờng Đại học khoa
học xã hội và nhân văn Hà Nội. ........................................................................................ 73

3.2.1. Đặc thù nguồn nhân lực KH&CN ........................................................................ 73
3.2.2. Đặc điểm nhân lực khoa học xã hội và nhân văn: ................................................ 74
3.2.3. Đặc điểm đội ngũ cán bộ quản lý: ........................................................................ 76
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của tổ chức KH&CN thông qua phát triển văn hoá
quản lý trong quá trình hội nhập quốc tế. .......................................................................... 79
3.3.1. Những quan điểm cơ bản của việc phát triển văn hoá quản lý ở Việt Nam hiện nay
..................................................................................................................................... 80
3.3.2. Những giải pháp chủ yếu đối với các tổ chức KH&CN Việt Nam: ....................... 82
3.3.3. Những giải pháp đối với Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn: ............. 84
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 88

2


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ĐHKHXH&NV

:

Đại học Khoa học xã hội và nhân văn

ĐHQG

:

Đại học quốc gia

KH&CN


:

Khoa học và Công nghệ

KHXH&NV

:

Khoa học xã hội và nhân văn

HN

:

Hà Nội

NCKH

:

Nghiên cứu khoa học

R&D

:

Nghiên cứu và triển khai

3



DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: số lƣợng các Viện NCPT giai đoạn 1960 – 1990: ................................................ 40
Bảng 2.2: Danh mục các tổ chức khoa học và công nghệ trên địa bàn thành phố Cần Thơ .... 44
Bảng 3.1: số lƣợng nguồn nhân lực của trƣờng ĐHKHXH&NV: ......................................... 73
Bảng 3.2: Số lƣợng, độ tuổi cán bộ quản lý của Trƣờng ĐHKHXH&NV: ............................ 76
Bảng 3.3: Tỷ lệ giới tính của vị trí Phó phòng, và BCN các Khoa: ....................................... 77

4


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của Luận văn:
Trong sự biến đổi của thế giới, lĩnh vực văn hoá ngày càng có vai trò quan
trọng, ngày càng xuất hiện những vấn đề mới cần đƣợc luận giải về mặt lý luận. Khái
niệm văn hoá rất đa dạng và phức tạp, bao gồm nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan
đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần. Trong một vài thập kỷ trở lại đây, văn hoá
đƣợc các nhà nghiên cứu về tổ chức và các nhà quản lý sử dụng để nói về môi trƣờng
hay một thực tế trong đó các cá nhân đƣợc liên kết với nhau. Văn hoá quản lý là một
trong những yếu tố thiết yếu để có đƣợc hiệu quả hoạt động, văn hoá càng mạnh thì tổ
chức hoạt động càng hiệu quả.
Lịch sử tƣ tƣởng quản lý đã trải qua các thời kỳ quản lý chính trị, quản lý xí
nghiệp theo khoa học trong đó con ngƣời đƣợc nhìn nhận ở thế bị động trong quan hệ
giữa chủ thể quản lý và đối tƣợng quản lý. Bƣớc vào thế kỷ XXI, nhân loại đối mặt với
bức tranh mới của thế giới: cách mạng thông tin, toàn cầu hoá, kinh tế tri thức…Tất cả
những điều này đòi hỏi thế giới và con ngƣời phải cải biến một cách toàn diện hơn, sâu
sắc hơn. Có nghĩa là trong quản lý, cần có một cái nhìn mới, nhân bản hơn và chú
trọng đến tính chủ động của con ngƣời – văn hoá quản lý - bởi nói tới văn hoá chính là
nói tới ý thức, cái gốc tạo nên “tính ngƣời” cùng những gì thuộc về bản chất nhất làm

cho con ngƣời trở thành chủ thể sáng tạo, năng động nhất trong cuộc sống, trong lao
động sản xuất.
Khía cạnh hấp dẫn của văn hoá nói chung và văn hoá quản lý nói riêng thể hiện
ở chỗ nó chỉ cho chúng ta thấy rằng đằng sau những biểu hiện bề ngoài là một sức
mạnh vô hình to lớn, nó có thể điều khiển, hƣớng dẫn và chi phối hành vi của các
thành viên trong tổ chức. Khi chúng ta quan sát hành vi quản lý trong các loại hình tổ
chức khác nhau, ta thấy giữa giám đốc một doanh nghiệp và một viện trƣởng có cách
hành xử khác nhau trong cùng tình huống quản lý tƣơng tự nhau. Ta có thể dễ dàng
nhận ra những khác biệt văn hoá giữa các quốc gia và các dân tộc nhƣng lại thấy
chúng thật rắc rối tại cấp độ tổ chức hoặc các nhóm nghề nghiệp. Văn hoá quản lý
trong các loại hình tổ chức khác nhau sẽ mang những tính chất và hình thức biểu hiện
riêng biệt. Nghiên cứu để làm rõ văn hoá quản lý trong loại hình tổ chức khác nhau sẽ
5


có thể giúp cho chính những cơ quan đó nhận ra đƣợc mặt mạnh, mặt yếu của mình,
phát huy những truyền thống tốt đẹp, đem lại những động lực làm việc cho các thành
viên, và tạo dựng đƣợc lợi thế cạnh tranh cho mình.
Các tổ chức khoa học và công nghệ là một loại hình tổ chức đặc biệt, ra đời
nhằm mục tiêu thực hiện công tác nghiên cứu và triển khai, chuyển giao công nghệ và
thực hiện các dịch vụ khoa học và công nghệ. Luật Khoa học và Công nghệ đã nhấn
mạnh ngay từ những dòng đầu tiên rằng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu,
giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là nền tảng và động
lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh và bền vững đất nƣớc. Quá
trình hoạt động và phát triển của hệ thống các tổ chức khoa học và công nghệ ở Việt
Nam gắn liền với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc, và mọi biến động của nó
chịu sự điều tiết của cơ chế quản lý vĩ mô. Tuy nhiên, quan trọng hơn tất cả, tổ chức
khoa học và công nghệ là tổ chức của trí thức gồm các nhà khoa học và các nhà công
nghệ. Con ngƣời làm nên văn hoá. Với tập thể những con ngƣời trí thức, và với đặc
điểm thực tiễn của Việt Nam, văn hoá quản lý trong các tổ chức khoa học và công

nghệ là gì?
Với hai chức năng cơ bản là đào tạo và nghiên cứu khoa học, trƣờng đại học
đƣợc xếp vào nhóm tổ chức nghiên cứu – triển khai trong hệ thống các tổ chức khoa
học và công nghệ, và mang đầy đủ những đặc trƣng cho tổ chức khoa học và công
nghệ của Việt Nam. Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
Hà Nội là một trong những trung tâm đào tạo và nghiên cứu có uy tín nhất trên đất
nƣớc, có nhiệm vụ thực hiện và đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học cơ bản có trình độ đại
học và trên đại học đáp ứng yêu cầu giảng dạy, nghiên cứu khoa học và công tác ở các
trƣờng đại học, các viện, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, phục vụ sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ đất nƣớc. Trƣờng có lịch sử phát triển lâu dài và nền tảng truyền thống vững
chắc, từ đó hình thành nên những đặc trƣng ổn định, một Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn giàu bản sắc truyền thống mà hiện đại, năng động và trí tuệ. Trƣớc yêu cầu
phát triển cả quy mô và chất lƣợng của Nhà trƣờng theo mô hình một đại học nghiên
cứu có thứ hạng trong hệ thống các trƣờng đại học ở Châu Á, hơn bao giờ hết, việc
nhận diện văn hóa quản lý của trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn với tƣ
cách một tổ chức khoa học và công nghệ nhằm hƣớng tới xây dựng và phát triển một
6


nền văn hóa quản lý mạnh là yêu cầu cấp thiết cho sự phát triển bền vững của Nhà
trƣờng.
Do đó, tác giả lựa chọn vấn đề về “Nhận diện văn hoá quản lý trong các tổ
chức khoa học và công nghệ (Nghiên cứu trường hợp: Trường Đại học Khoa học
xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội)" nhằm chỉ ra những biểu hiện của văn
hoá quản lý trong các tổ chức này thông qua trƣờng hợp của trƣờng Đại học Khoa học
xã hội và nhân văn, đồng thời phát hiện ra bản chất cũng nhƣ quá trình hình thành nên
nền văn hoá đặc biệt đó. Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ thông qua việc quan tâm xây dựng
văn hoá quản lý của tổ chức mình.


2. Tổng quan tình hình nghiên cứu :
Trong những năm qua, vấn đề văn hóa và văn hóa quản lý trong các tổ chức đã
thu hút đƣợc sự quan tâm chú ý của các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nƣớc.
Đối với các nghiên cứu nước ngoài, chƣa bao giờ khái niệm văn hoá đƣợc đề
cập nhiều trong học thuật cũng nhƣ trong thực tế đời sống nhƣ hiện nay. Từ những
năm 70 của thế kỷ XX cho đến nay, văn hóa đƣợc đề cập đến dƣới nhiều góc độ tiếp
cận khác nhau, ở nhiều cấp độ khác nhau, trong nhiều lĩnh vực khác nhau và ngày
càng đƣợc quan tâm nghiên cứu. Các cuốn sách kinh doanh, quản lý bán chạy nhất trên
thị trƣờng đều ít nhiều đề cập đến những vấn đề văn hoá nhƣ văn hoá kinh doanh, văn
hoá tổ chức, văn hoá quản lý, văn hoá lãnh đạo… Ta có thể dễ dàng bắt gặp hàng trăm
đầu sách nhƣ vậy mà tiêu biểu là các cuốn Tư duy lại tương lai (R.Gibson biên tập),
Thế giới phẳng (Thomas L.Friedman), Bản sắc văn hoá doanh nghiệp (David
H.Maister), Chinh phục các làn sóng văn hoá, Quản lý bằng giá trị, Những thách thức
của quản lý trong thế kỷ 21 (Peter Drucker),… Ngoài ra còn rất nhiều cuốn sách đƣợc
đúc rút từ thực tiễn quản lý, cho ta cái nhìn cụ thể về văn hoá quản lý ở một lĩnh vực,
một tổ chức hay một cá nhân ngƣời lãnh đạo nhƣ Bí quyết hoá rồng (Lý Diệu Quang),
Made in Japan: Akio Morita and the Sonny (Akia Morita), My life and work (Henry
Ford),… Từ nửa đầu thế kỷ XX, M.Weber đã đặt niềm tin vào một “thể chế lý tƣởng”,
mà trong đó chúng ta có thể nhận ra mô hình văn hóa tổ chức mang những đặc trƣng
7


của nƣớc Đức (The Theory of Social and Economic Organizations, New York, 1947).
Những vấn đề của văn hóa tổ chức cũng đƣợc đề cập khá đậm nét trong lý thuyết tổ
chức của C.I. Barnard (The Functions of the Executive, 1938). Một số công trình đã đi
sâu vào việc nhìn nhận yếu tố văn hoá trong các loại hình tổ chức khác nhau trong đó
có cả lĩnh vực khoa học và công nghệ nhƣ cuốn Culture, leadership, and organizations
(Global study); Science and Technology in multiculture world (David J.Jess),… Việc
làm rõ khái niệm văn hoá, văn hoá quản lý, văn hoá lãnh đạo trong từng lĩnh vực cụ

thể giúp ta có sự so sánh, giải quyết đƣợc các nhiệm vụ riêng biệt đối với mỗi loại.
Đối với các nghiên cứu trong nước, tuy các Hội thảo khoa học về văn hoá quản
lý và văn hoá kinh doanh đƣợc tổ chức đã đƣợc tổ chức khá nhiều, không một website
về quản lý, kinh doanh nào mà không đƣa các bài về “làm thế nào để có văn hoá”, và
hầu hết các tổ chức từ tƣ nhân lẫn nhà nƣớc đều đang quảng bá thƣơng hiệu qua văn
hoá tổ chức mình nói chung và văn hoá quản lý nói riêng, nhƣng các công trình nghiên
cứu về vấn đề này không nhiều.
Các nghiên cứu về về văn hoá tập trung nhiều ở các khía cạnh:
-

Các vấn đề lý luận về văn hoá nhƣ cuốn Văn hoá - một góc nhìn (Hoàng Sơn
Cƣờng), Xã hội học Văn hóa (Đoàn Văn Chúc);

-

Các vấn đề về văn hoá làng xã truyền thống nhƣ cuốn Làng xã Việt Nam. Một
số vấn đề kinh tế-văn hoá-xã hội (Phan Đại Doãn);

-

Quan niệm về văn hoá, văn hoá chính trị, văn hoá quản lý trong tƣ tƣởng của
Hồ Chí Minh nhƣ Về tư tưởng Hồ Chí Minh (Võ Nguyên Giáp);

-

Luận điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hoá, văn hoá lãnh đạo
quản lý nhƣ Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam;

-


Các vấn đề liên quan đến văn hoá trong các tổ chức kinh doanh nhƣ Tinh thần
doanh nghiệp – giá trị định hướng của văn hoá kinh doanh Việt Nam (Trần
Quốc Dân)
Những công trình nghiên cứu trên, nhìn chung đã bàn tới rất nhiều những khía

cạnh, biểu hiện khác nhau của văn hóa nói chung và văn hóa quản lý nói riêng. Các
học giả đã đi sâu nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của các hệ giá trị, các
8


chuẩn mực xã hội, vai trò của chúng trong quá trình quản lý, lãnh đạo, gắn với việc
xây dựng môi trƣờng văn hóa. Triết lý văn hóa, hệ giá trị văn hóa, các chuẩn mực văn
hóa, lối sống văn hóa là những cơ sở quan trọng cho việc xây dựng và phát triển văn
hóa quản lý ở Viêt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Hơn thế nữa, trong các công
trình nghiên cứu có liên quan, đề tài “Văn hóa quản lý - Truyền thống và Hiện đại”
(trong chƣơng trình khoa học công nghệ cấp nhà nƣớc KX.06) do cố giáo sƣ Nguyễn
Hồng Phong thực hiện, là một tổng kết khá quan trọng, có những đóng góp lớn trong
việc tổng kết mô hình văn hóa quản lý trong lịch sử, đề xuất mô hình văn hóa quản lý
thống nhất giữa cái truyền thống, hiện đại hóa và chủ nghĩa xã hội.
Gần đây, đã có một đề tài cấp nhà nƣớc mã số KX03.21/06-20 về Đổi mới văn
hoá quản lý tại Việt Nam do PGS.TS Phạm Ngọc Thanh, trƣờng Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn làm chủ trì, nhƣng đề tài này tƣơng đối rộng và bao quát, nên vẫn cần
có những nghiên cứu sâu về các khía cạnh để góp phần xây dựng một hệ thống lý luận
các vấn đề lý luận của văn hoá quản lý.
Qua tổng quan tình hình nghiên cứu, ta rút ra được những nhận định như sau:
Các học giả nƣớc ngoài đã nghiên cứu khá toàn diện, có các nghiên cứu đã đi
sâu vào lĩnh vực quản lý, lãnh đạo, văn hoá quản lý, có ảnh hƣởng tích cực tới thực
tiễn quản lý ở các nƣớc tƣ bản phát triển. Nhƣng những nghiên cứu đó cũng chƣa thể
đề cập đến vấn đề văn hoá quản lý của Việt Nam; và đối với các nghiên cứu trong
nƣớc, còn thiếu những công trình làm rõ hệ thống khái niệm, phạm trù của văn hoá

quản lý.
Đang thiếu những công trình nghiên cứu chuyên sâu để làm rõ các biểu hiện
của văn hoá quản lý trong các loại hình tổ chức của Việt Nam;
Các tác phẩm, công trình nghiên cứu liên quan thƣờng tập trung vào các tổ chức
kinh doanh hoặc hành chính, công vụ. Nhƣng văn hoá quản lý của các tổ chức khoa
học và công nghệ dƣờng nhƣ chƣa đƣợc quan tâm đúng mức, mặc dù trong thời gian
gần đây, các tổ chức khoa học và công nghệ xuất hiện ngày càng nhiều, với các hình
thức đa dạng , mang lại những tác động không nhỏ cho xã hội.
Do đó, đề tài luận văn có ý nghĩa lý luận, góp phần bổ sung và hoàn thiện khái
niệm văn hoá quản lý, nhất là qua tiếp cận khoa học tổ chức và tiếp cận nghề nghiệp.
9


Đồng thời, luận văn có ý nghĩa thực tiễn cao khi làm rõ các biểu trƣng văn hoá trong
các tổ chức khoa học và công nghệ góp phần giải quyết nhiều vấn đề vƣớng mắc về
nhận thức các ứng xử văn hoá trong các tình huống quản lý tại các tổ chức này.

3. Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở lý luận chung về tổ chức khoa học và công nghệ và lý luận về văn
hóa quản lý, luận văn tập trung nhận diện những biểu hiện văn hóa quản lý trong trong
các tổ chức khoa học và công nghệ; từ đó đánh giá thực trạng văn hoá quản lý của các
tổ chức khoa học và công nghệ qua việc chỉ ra nguyên nhân hình thành và những hạn
chế, nhƣợc điểm của nó. Tác giả đi sâu vào nghiên cứu trƣờng hợp cụ thể (Trƣờng Đại
học Khoa học xã hội và nhân văn) nhằm làm rõ hơn những vấn đề chung của Luận
văn.
Để thực hiện các mục tiêu đã xác định của Luận văn, các nhiệm vụ chính cần
thực hiện là:
 Làm rõ các khái niệm quản lý, văn hoá quản lý và tổ chức khoa học và
công nghệ; luận chứng sâu sắc thêm vai trò của văn hóa trong quản lý,
tác động sâu sắc và toàn diện của văn hóa quản lý đối với sự tồn tại và

phát triển của tổ chức.
 Phân tích các biểu hiện của văn hoá quản lý trong các tổ chức khoa học
và công nghệ bao gồm:
+ Triết lý
+ Phong cách quản lý
+ Hệ giá trị quản lý
+ Các biểu hiện hữu hình và vô hình.
 Nhận diện và đánh giá văn hoá quản lý của Trƣờng Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn;
 Đƣa ra những khuyến nghị cần thiết để xây dựng văn hoá quản lý vững
mạnh đối với các tổ chức khoa học và công nghệ nói chung, và Trƣờng
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn nói riêng.
10


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tƣợng nghiên cứu: Những biểu hiện văn hóa quản lý trong các tổ chức
khoa học và công nghệ.
- Phạm vi nội dung: nghiên cứu những biểu hiện của văn hoá quản lý trong các
tổ chức khoa học và công nghệ Việt Nam .
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu trƣờng hợp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Phạm vi thời gian: tập trung nghiên cứu chủ yếu các quá trình diễn ra từ năm
2006 đến năm 2010.

5. Vấn đề nghiên cứu:
- Văn hoá quản lý của các tổ chức KH&CN ở Việt Nam có những đặc trƣng cơ
bản nào?
- Văn hóa quản lý của Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (ĐHQG
HN) có những biểu hiện chủ yếu nhƣ thế nào?


6. Giả thuyết nghiên cứu:
- Bên cạnh những đặc trƣng của văn hoá nói chung, văn hoá quản lý của các tổ
chức KH&CN nổi bật ở tính công quyền (đối với các tổ chức công lập) hoặc chịu sự
giám sát chặt chẽ của Nhà nƣớc (đối với các tổ chức ngoài công lập), tính hành chính
cao, tính nghề nghiệp, và đang từng bƣớc thiết lập cơ chế để đảm bảo sự tôn trọng đối
với các quy tắc, chuẩn mực chung của thế giới.
- Văn hoá quản lý của trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQG
HN) cũng mang đầy đủ những đặc trƣng trên, nhƣng có những nét riêng về triết lý
quản lý, hệ giá trị, phong cách quản lý và các đặc trƣng trong hoạt động chức năng của
một trƣờng Đại học hàng đầu của đất nƣớc trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân
văn.

7. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu:
7.1. Các cách tiếp cận:

11


- Cách tiếp cận hệ thống: Đâylà cách tiếp cận phức hợp các yếu tố có liên quan
với nhau một cách nhân quả tạo ra chỉnh thể thống nhất, xem xét văn hoá quản lý trong
bối cảnh của một tổ chức khoa học và công nghệ, trong mối quan hệ giữa các hình
thức văn hoá khác, xem xét mối quan hệ giữa biểu hiện bề ngoài với mối liên hệ bên
trong để tìm ra bản chất của sự việc.
- Cách tiếp cận tổ chức học: Từ những đặc trƣng cơ bản của một tổ chức khoa
học và công nghệ, chỉ ra mối liên hệ giữa văn hoá và cấu trúc tổ chức.
- Cách tiếp cận lịch sử: Nghiên cứu phải đƣợc đặt trong điều kiện lịch sử cụ thể
về thời gian và không gian, tình hình phát triển của Việt Nam nói chung và các tổ
chức khoa học và công nghệ nói riêng. Cách tiếp cận này cũng cho chúng ta thấy văn
hoá quản lý trong các tổ chức khoa học và công nghệ luôn có sự kế thừa, và học hỏi.

- Cách tiếp cận văn hoá học: từ góc nhìn văn hoá, các chuẩn mực văn hoá, các
giá trị văn hoá, truyền thống văn hoá và lối ứng xử văn hoá để tham chiếu hoạt động
quản lý trong các tổ chức khoa học và công nghệ.
7.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Phƣơng pháp phân tích tài liệu:
Phân tích các nguồn tƣ liệu, số liệu về Văn hoá quản lý, tổ chức khoa học và
công nghệ và hoạt động của trƣờng Đại học Khoa học xã hội và nhân văn trên cơ sở
các nguồn:
+ Các báo cáo và thống kê của Chính phủ và Bộ Khoa học và Công nghệ,
+ Các báo cáo của Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
+ Các công trình khoa học đã công bố liên quan đến vấn đề,
Đặc biệt, Luận văn có sử dụng số liệu điều tra khảo sát về văn hóa quản lý của
Đề tài cấp nhà nƣớc mã số KX03.21/06-20 về Đổi mới văn hoá quản lý tại Việt Nam
hiện nay.
- Phương pháp quan sát: Phƣơng pháp quan sát đƣợc vận dụng xuyên suốt
trong quá trình nghiên cứu, nhằm bổ trợ cho các phƣơng pháp khác, đặc biệt trong việc
phát hiện vấn đề và phát huy tác dụng cao đối với việc nghiên cứu những vấn đề nhƣ
văn hóa giao tiếp, hội họp, đồng phục, logo, khẩu hiệu ...
12


- Phương pháp chuyên gia: Luận văn trƣng cầu ý kiến chuyên gia về vấn đề lý
luận văn hóa quản lý và đánh giá thực trạng văn hóa quản lý trong Trƣờng Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn, về giải pháp giữ gìn và phát huy những nhân tố tích cực
trong mô hình văn hóa quản lý của một tổ chức khoa học và công nghệ.

8. Ý nghĩa của Luận văn:
Ý nghĩa lý luận:
Luận văn góp phần bổ sung và hoàn thiện hệ thống khái niệm về văn hoá quản
lý, và đƣa ra một nghiên cứu trƣờng hợp để làm sáng tỏ những nhận định về các biểu

hiện văn hoá trong loại hình tổ chức khoa học và công nghệ.
Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn có thể sử dụng tài liệu tham khảo cho nghiên cứu lý luận phục vụ
môn Văn hoá đạo đức quản lý dành cho đào tạo cử nhân ngành Khoa học quản lý và
đào thạc thạc sĩ ngành Quản lý Khoa học và Công nghệ;
Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của
các tổ chức khoa học và công nghệ thông qua việc quan tâm xây dựng văn hoá quản lý
của tổ chức mình, xây dựng và phát triển đội ngũ nhân sự đầy đủ tài và đức.
Luận văn có thể sử dụng đƣợc vào quá trình hoạch định chính sách khoa học và
công nghệ.

9 . Kết cấu Luận văn
Chương 1: Lý luận về tổ chức KH&CN và văn hoá quản lý
1.1.Lý luận về tổ chức KH&CN
1.1.1. Khái niệm tổ chức KH&CN
1.1.2. Phân loại và đặc trƣng của tổ chức KH&CN
1.2. Lý luận chung về văn hoá quản lý
1.2.1. Khái niệm văn hoá và văn hoá quản lý
1.2.2. Các thành tố cấu thành văn hoá quản lý
1.2.3. Các yếu tố ảnh hƣởng tới quá trình hình thành văn hoá quản lý
13


Chương 2. . Những đặc trưng cơ bản của văn hoá quản lý trong các tổ chức
khoa học và công nghệ
2.1.Lịch sử hình thành và đặc điểm của hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ
của Việt Nam.
2.2. Từ triết lý quản lý đến các biểu hiện cụ thể
Chương 3: Nhận dạng văn hoá quản lý của Trường Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn Hà Nội với tư cách là một tổ chức KH&CN

3.1. Những đặc trƣng của Văn hoá quản lý
3.2. Các yếu tố ảnh hƣởng tới quá trình hình thành văn hoá quản lý của trƣờng
Đại học khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội.
3.3 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của tổ chức KH&CN thông qua phát
triển văn hoá quản lý trong quá trình hội nhập quốc tế.

14


CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VÀ VĂN HÓA QUẢN LÝ

1.1.Lý luận về tổ chức KH&CN
1.1.1. Khái niệm tổ chức KH&CN
Khái niệm Tổ chức:
Có nhiều định nghĩa khác nhau về danh từ “Tổ chức”. Trƣớc hết, ta phải kể đến
một định nghĩa mang tính triết học sâu sắc: “Tổ chức nói rộng là cơ cấu tồn tại của sự
vật. Sự vật không thể tồn tại mà không có một hình thức liên kết nhất định các yếu tố
thuộc nội dung. Tổ chức vì vậy là thuộc tính của bản thân các sự vật” [2, tr.24]. Định
nghĩa này bao quát cả phần tự nhiên và xã hội loài ngƣời.
Theo ngôn ngữ thông thƣờng, tổ chức thƣờng đƣợc định nghĩa nhƣ là tập hợp
của nhiều ngƣời, nhiều nhóm ngƣời cùng hoạt động trong những hình thái cơ cấu nhất
định nhằm thực hiện những mục tiêu chung mà nếu chỉ một ngƣời hay một nhóm
ngƣời thì không thể thực hiện đƣợc. Với cách định nghĩa đơn giản nhƣ vậy, thì các tổ
chức rõ ràng rất đa dạng và khác nhau về mục đích tồn tại và phƣơng thức hoạt động.
Tuy nhiên, mọi tổ chức là một thực thể xã hội do các cá nhân hoặc các nhóm kết hợp
để thực hiện mục tiêu chung đều có những đặc trƣng cơ bản sau:
+ Tổ chức đƣợc tạo ra nhằm thực hiện các mục tiêu chung của cộng đồng.
Nghĩa là các tổ chức phải phục vụ cho các mục tiêu xác định chứ không thể tùy ý hành
động. Ngay cả các công ty tƣ nhân, các tập đoàn đa quốc gia, mục tiêu của nó là tổ hợp

nhiều mục tiêu hợp thành nhƣng vẫn phải chịu sự chi phối của các quy luật xã hội,
thống nhất với mục đích chung của toàn thể cộng đồng, chịu trách nhiệm xã hội với
hoạt động của mình.
+ Có cơ cấu tổ chức, phân công lao động. Nghĩa là mọi ngƣời tham gia vào tổ
chức đƣợc phân công vào những vị trí, bộ phận khác nhau đảm nhận các chức năng
khác nhau phù hợp với yêu cầu của tổ chức, trình độ và năng lực cá nhân. Tổ chức
càng phát triển thì phân công lao động càng triệt để.

15


+ Có một ban quản lý. Ban quản lý có bổn phận đại diện cho công đồng với
công việc trong và ngoài tổ chức. Ban quản lý chịu trách nhiệm đảm bảo sự điều phối
và thực hiện mục tiêu của tổ chức.
+ Môi trƣờng của tổ chức: Tổ chức gắn chặt các hệ thống kinh tế xã hội nơi nó
đang tồn tại, mục tiêu của tổ chức có thực hiện đƣợc hay không còn tùy thuộc vào hệ
thống kinh tế xã hội mà ta gọi là môi trƣờng của tổ chức.
Trong xã hội hiện đại, các tổ chức đang tồn tại thật vô cùng đa dạng và phong
phú. Chúng có thể khác nhau khi trả lời các câu hỏi: Ai nắm quyền sở hữu tổ chức? Tổ
chức đƣợc tạo nên vì mục đích của tổ chức là gì? Các mối quan hệ trong tổ chức có thể
hiện rõ ràng hay không? Dẫn đến việc phân loại các tổ chức có nhiều quan điểm khác,
và dẫn tới sự thành của nhiều tổ chức mới. Gabriel (1976) trong tác phẩm Tổ chức và
chuyển đổi xã hội đã viết "Tổ chức là một sản phẩm của quá trình chuyển đổi xã hội –
nếu xét về sự mở rộng về số lƣợng và cơ cấu chất lƣợng – và có thể đƣợc coi là một
đại lƣợng quan trọng của sự chuyển đổi xã hội". Sự tiến hóa và phát triển của tổ chức
luôn gắn liền với những biến đổi của trật tự kinh tế xã hội và tác động vào quá trình
hình thành của chính trật tự đó. Nhìn vào lịch sử, sự tiến triển của tổ chức gắn với quá
trình công nghiệp hóa tạo ra những biến đổi sâu sắc của xã hội trên phạm vi toàn cầu.
Hình thành các tổ chức mới nhƣ nhà máy công nghiệp, tập đoàn đa quốc gia, các tổ
chức phi chính phủ,.. Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học và công nghệ, khiến các

tổ chức khoa học và công nghệ ngày càng hiện rõ hơn, thành một loại hình tổ chức
đƣợc gọi tên chính thức trong hệ thống các tổ chức, thậm chí ở các nƣớc đang phát
triển. Nghiên cứu và nhận thức về tổ chức khoa học và công nghệ sẽ giúp ta nắm bắt
và phát huy đƣợc những điểm mạnh của tổ chức trong lĩnh vực này. Vậy tổ chức khoa
học và công nghệ là gi? Trƣớc hết, ta cần hiểu về hoạt động Khoa học và công nghệ.
Hoạt động Khoa học và công nghệ.
Francis Bacon, triết gia lớn ngƣời Anh đã từng tiên đoán: "Khoa học là sức
mạnh". Lời tiên đoán đó đã đƣợc thể nghiệm trong đời sống của khoa học trong xã hội
đƣơng đại, nhất là từ khi cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu bùng nổ với những
thành tựu của nền cơ học cổ điển. Tiếp đó những cuộc cách mạng công nghệ liên tục
xuất hiện trong lịch sử. Khoa học và công nghệ ngày càng chứng tỏ sức mạnh vƣợt
16


qua những câu chuyện trong các tiểu thuyết viễn tƣởng và ngay cả sức tƣởng tƣợng
của những nhà khoa học tài ba nhất. Hoạt động nghiên cứu khoa học làm phát triển
kho tàng tri thức của nhân loại, đặt nền tảng cho sự phát triển của những nguyên lý
công nghệ. Đến lƣợt công nghệ lại đóng vai trò thúc đẩy sản xuất phát triển, đem lại
những tác động sâu xa đến những biến đổi trong cơ cấu xã hội, trong truyền thống văn
hóa.
Trong gần 3 thập niên qua, nhiều cải cách trong lĩnh vực KH&CN bắt nguồn từ
thực tế của nền kinh tế và xã hội nƣớc ta, đã đƣợc thực hiện. Hoạt động KH&CN đã
trở thành một sự nghiệp mà mọi công dân và tổ chức, mọi thành phần kinh tế đều có
quyền tham gia. Về bản chất, hoạt động này bao gồm "hoạt động khoa học" và "hoạt
động công nghệ". Nhƣ vậy, xác định đƣợc đúng nội dung của "hoạt động khoa học" và
"hoạt động công nghệ" có một ý nghĩa thiết thực rất lớn.
Luật Khoa học và công nghệ năm 2000 đã xác định (Điều 2):
Khoa học là hệ thống tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên,
xã hội và tư duy. Nhƣ vậy khoa học là sản phẩm của con ngƣời trong hoạt động sản
xuất tri thức.

Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ,
phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm. Định nghĩa này nhấn
mạnh vào dạng thức cụ thể của công nghệ và/hoặc vật mang kiến thức công nghệ đó.
Nhƣ vậy, hoạt động KH&CN bao gồm nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và
phát triển công nghệ, dịch vụ KH&CN, hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ
thuật, hợp lý hoá sản xuất và các hoạt động khác nhằm phát triển KH&CN.
Hoạt động KH&CN đề cập trong Luận văn này bao gồm các hoạt động
KH&CN nêu trong Điều 2, điểm 3 của Luật KH&CN năm 2000, cụ thể:
-

Nghiên cứu khoa học là hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện tƣợng, sự
vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tƣ duy; sáng tạo các giải pháp
nhằm ứng dụng vào thực tiễn. Nghiên cứu khoa học bao gồm nghiên
cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng;

17


-

Phát triển công nghệ là hoạt động nhằm tạo ra và hoàn thiện công nghệ
mới, sản phẩm mới. Phát triển công nghệ bao gồm triển khai thực
nghiệm và sản xuất thử nghiệm;

-

Triển khai thực nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa
học để làm thực nghiệm nhằm tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới;

Mục tiêu của hoạt động khoa học và công nghệ là xây dựng nền khoa học và

công nghệ tiên tiến, hiện đại để phát triển lực lƣợng sản xuất, nâng cao trình độ quản
lý; sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trƣờng; đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng
con ngƣời mới Việt Nam; góp phần phát triển nhanh, bền vững kinh tế - xã hội, nâng
cao chất lƣợng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Do đó, Hoạt động khoa học và công nghệ có các nhiệm vụ sau đây:
 Vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh; xây dựng lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đƣờng đi lên chủ
nghĩa xã hội của Việt Nam; xây dựng luận cứ khoa học cho việc định ra đƣờng
lối, chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh; góp phần xây dựng nền giáo dục tiên tiến, xây dựng con ngƣời mới Việt
Nam; kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống của văn hoá dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hoá nhân loại và đóng góp vào kho tàng văn hoá, khoa học của thế
giới;
 Nâng cao năng lực khoa học và công nghệ để làm chủ các công nghệ tiên tiến,
công nghệ cao, các phƣơng pháp quản lý tiên tiến; sử dụng hợp lý tài nguyên
thiên nhiên, bảo vệ môi trƣờng, bảo vệ sức khoẻ của nhân dân; dự báo kịp thời,
phòng, chống, hạn chế và khắc phục hậu quả thiên tai;
 Tiếp thu các thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới để tạo ra, ứng dụng
có hiệu quả các công nghệ mới; tạo ra sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao; phát
triển nền khoa học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực,
tiếp cận với trình độ thế giới, làm cơ sở vững chắc cho việc phát triển các ngành
công nghiệp hiện đại; đẩy mạnh việc phổ biến và ứng dụng các thành tựu khoa
học và công nghệ vào sản xuất và đời sống.
18


Tổ chức Khoa học và công nghệ:
Tổ chức khoa học và công nghệ có thể đƣợc định nghĩa nhƣ sau:
“Tổ chức khoa học và công nghệ là tổ chức được thành lập theo quy định của

Luật Khoa học và công nghệ và pháp luật có liên quan để tiến hành hoạt động khoa
học và công nghệ” [22, tr .29]
Tổ chức KH&CN là những hình thức tập hợp các nhà khoa học, các nhà công
nghệ để tiến hành hoạt động KH&CN. Do đó có bao nhiêu loại hoạt động KH&CN thì
có bấy nhiêu loại tổ chức KH&CN.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, tầm quan trọng của các tổ chức KH&CN đã
đƣợc thừa nhận rộng rãi. Số lƣợng các tổ chức khoa học và công nghệ lúc ban đầu còn
ít, nhƣng giờ đây nó đã tăng mạnh về số lƣợng và loại hình.Tổ chức khoa học và công
nghệ cao, quy mô lớn lần đầu tiên xuất hiện năm 1951.Đó là các công ty hoạt động
trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu, đặt tại thung lũng Silicone, bang California, Mỹ, từ
đó hình thành nên một khu nghiên cứu (research park). Sau đó, mô hình này đƣợc học
hỏi và phát triển ở nhiều nơi nhƣ Thành phố Khoa học Akademgodorok tại Siberia,
Liên Xô (1975), Sophia Antipolis tại Nice, Pháp (1970) và công viên khoa học
Cambrigde tại Herriot Watt, Anh. Ƣớc tính số lƣợng các khu nghiên cứu và công nghệ
nhƣ vậy trên thế giới đạt gần 1,000 vào năm 1996. [35, tr.5]
Căn cứ vào nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh
và kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ của từng thời kỳ, ở Việt Nam, Chính
phủ quy hoạch hệ thống các tổ chức khoa học và công nghệ trong cả nƣớc để bảo đảm
phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa học và công nghệ, thực hiện có hiệu quả các hoạt
động khoa học và công nghệ
1.1.2. Phân loại và đặc trưng của tổ chức KH&CN
Có nhiều cách phân loại Tổ chức khoa học và công nghệ khác nhau, tuỳ theo
mục tiêu đã định. Thông thƣờng có một số phân loại sau:
Phân loại theo lĩnh vực khoa học và công nghệ có thể chia các loại hình sau:
Khoa học tự nhiên; Khoa học kỹ thuật (công nghệ); Khoa học xã hội và nhân văn;
Khoa học nông nghiệp; Khoa học y dƣợc.
19


Phân loại theo các khâu của chu trình "Nghiên cứu - sản xuất": Tổ chức khoa

học và công nghệ nghiên cứu cơ bản; Tổ chức khoa học và công nghệ nghiên cứu ứng
dụng (công nghệ); Tổ chức thử nghiệm (lô nhỏ và lô công nghiệp), trạm, trại; Tổ chức
dịch vụ KH&CN.
Phân loại theo cấp quản lý: Tổ chức khoa học và công nghệ cấp quốc gia: Các
Trung tâm KH-CN quốc gia; Tổ chức khoa học và công nghệ cấp bộ và ngang bộ; Tổ
chức khoa học và công nghệ cấp cơ sở.
Phân loại theo chủ thể sở hữu: Tổ chức khoa học và công nghệ thuộc khu vực
Nhà nƣớc; Tổ chức khoa học và công nghệ thuộc khu vực tƣ nhân; Tổ chức khoa học
và công nghệ thuộc khu vực tập thể; Tổ chức khoa học và công nghệ đa quốc gia.
Phân loại theo Luật khoa học công nghệ của Việt Nam: Tổ chức nghiên cứu
khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển; Trƣờng đại học, học viện, trƣờng
cao đẳng; Các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ.
Về đặc trƣng, trƣớc hết các tổ chức khoa học và công nghệ hƣớng hoạt động
việc tìm tòi, khám phá quy luật vận động của các sự vật và hiện tƣợng xung quanh
chúng ta, từ quy luật vận động của tự nhiên cho đến quy luật vận động của xã hội, và
sau hết là quy luật vận động của bản thân con ngƣời, từ con ngƣời sinh học, cho đến
con ngƣời xã hội; đổi mới, tổ chức, mở rộng và thay thế các phƣơng pháp, quy trình,
kỹ năng, bí quyết, công cụ, phƣơng tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản
phẩm.
Xét về đặc điểm nhân lực, thì tất cả những ngƣời tham gia vào hoạt động khoa
học và công nghệ đều thuộc nhóm nhân lực có trình độ cao, thuộc nhóm tinh hoa của
xã hội mà ta gọi là cộng đồng khoa học và các nhà công nghệ. Họ nằm rải rác trong
các nhóm xã hội, khu vực địa lý và các ngành hoạt động khác nhau trong xã hội
Xét bản chất kinh tế, các quốc gia trên thế giới đều thống nhất quan điểm: các
tổ chức KH&CN, giáo dục, y tế nói chung là các "tổ chức phi vị lợi". Các tổ chức
KH&CN hoạt động có mục đích kinh tế thì chúng không chia lãi cho các thành viên,
mà lợi nhuận thu đƣợc nhằm để mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động của mình. Các
thành viên chỉ nhận lƣơng. Các nhà nƣớc thƣờng không đánh thuế hoặc đánh thuế rất
nhẹ hoạt động dịch vụ của các tổ chức này. Tuy nhiên, không phải tất cả các tổ chức
20



KH&CN đều đƣợc xếp vào loại "phi vị lợi". Nếu là các doanh nghiệp kinh doanh trong
lĩnh vực KH&CN thì đó là nó cũng đƣợc xếp vào loại hình tổ chức kinh tế và hoạt
động theo luật Doanh nghiệp.
Tại Việt Nam, các tổ chức KH&CN cần phải đảm bảo các nguyên tắc đặc thù
trong các hoạt động của mình, bao gồm:
-

Hoạt động khoa học và công nghệ phải phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh;

-

Xây dựng và phát huy năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ kết
hợp với việc tiếp thu có chọn lọc các thành tựu khoa học và công nghệ
của thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam;

-

Kết hợp chặt chẽ khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ với
khoa học xã hội và nhân văn; gắn nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ với giáo dục và đào tạo, với hoạt động sản xuất, kinh doanh
và phát triển thị trƣờng công nghệ;

-

Phát huy khả năng lao động sáng tạo của mọi tổ chức, cá nhân;

-


Trung thực, khách quan, đề cao đạo đức nghề nghiệp, tự do sáng tạo, dân
chủ, tự chủ, tự chịu trách nhiệm.

1.2. Lý luận chung về văn hoá quản lý
1.2.1. Khái niệm văn hoá quản lý
“Văn hoá” là thuật ngữ đƣợc mọi ngƣời sử dụng khá phổ biến trong đời sống
hằng ngày. Trƣớc thái độ hay cách ứng xử của ai đó con ngƣời thƣờng đánh giá nó là
văn hoá hay không văn hoá. Nhƣng có lẽ để hiểu đƣợc rõ ràng thế nào là văn hoá thì
không ít ngƣời lúng túng trƣớc điều này.
Ở phƣơng Đông, thuật ngữ “văn hoá” xuất hiện khá sớm. Từ trƣớc Công
nguyên, Lƣu Hƣớng (76- 6 TCN) đƣợc coi là ngƣời đầu tiên dùng thuật ngữ này. Ông
đã lấy từ „văn” và từ “hoá” trong quẻ bí sách Chu dịch: “quan hồ nhân văn dĩ hoá
thành thiên hạ” có nghĩa là xem dáng vẻ bên ngoài mà giáo hoá thiên hạ. Ở đây, “văn
hoá = văn trị + giáo hoá” có nghĩa là trong đời sống, tổ chức cần quản lý con ngƣời
bằng cái đẹp về nhân văn, đối lập với tƣ tƣởng quản lý con ngƣời bằng bạo lực. Ngày
21


nay, rất nhiều các tổ chức đang cố gắng xây dựng một nền văn hoá cho mình và không
ít trong số đó đã đạt đƣợc những thành công lớn nhờ điều này.
Ở phƣơng Tây, văn hoá trong tiếng Anh và tiếng Pháp có nghĩa là “culture”,
trong tiếng Đức là “kultur”, tiếng Nga là “kultura”. Những từ này có nguồn gốc Latin
là “cultus animi” có nghĩa là trồng trọt tinh thần. Nhƣ vậy chữ này có hai khía cạnh:
một là trồng trọt, thích ứng với tự nhiên, khai thác tự nhiên; hai là giáo dục và đào tạo
cá thể hay cộng đồng để họ không còn là con vật tự nhiên và có những phẩm chất tốt
đẹp.
Trái hẳn với sự xuất hiện lâu đời ở phƣơng Đông, thuật ngữ “văn hoá” ở
phƣơng Tây mới đƣợc sử dụng phổ biến từ những năm 20 thế kỷ XIX. Ngƣời ta mới
chấp nhận từ này trong Từ điển tiếng Anh và tiếng Pháp cũng trong cùng thời gian

này. Khi lần đầu tiên đƣa ra khái niệm văn hoá ở phƣơng Tây, E. B Taylor cho rằng
văn hoá hay nền văn minh là cái toàn thể phức tạp gồm tri thức, tín ngƣỡng, nghệ
thuật, pháp luật, đạo đức, phong tục, tất cả bí quyết và thói quen của con ngƣời với tƣ
cách là một thành viên của xã hội. Taylor và nhiều học giả khác cho rằng văn hoá hay
văn minh thế giới có thể phân loại từ trình độ cao đến thấp và văn hoá của họ chiếm vị
trí cao nhất. Họ cho rằng bản chất của văn hoá hƣớng về trí lực và sự vƣơn lên, sự phát
triển tạo thành văn minh. Quan niệm này đã phủ nhận toàn bộ những giá trị tinh thần
của con ngƣời trong quá trình sinh sống.
Có lẽ không có thuật ngữ nào có nhiều định nghĩa nhƣ thuật ngữ “văn hoá”.
Ngay từ năm 1952, hai nhà nhân loại Mỹ Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã từng
thống kê có tới hơn ý đồ 300 định nghĩa khác nhau về văn hoá và phân tích 164 định
nghĩa trong cuốn sách Culture: A Critical Review of Concepts and Definition và đã trở
thành tác phẩm nổi tiếng nghiên cứu về văn hoá. Văn hoá đƣợc đề cập đến trong nhiều
lĩnh vực nghiên cứu nhƣ dân tộc học, nhân loại học, dân gian học, địa văn hoá học, văn
hoá học, xã hội học… Đến thời điểm hiện nay chắc chắn rằng số lƣợng không chỉ
dừng lại ở con số trên. Mỗi ngƣời có một cách nhìn nhận, đánh giá văn hoá dƣới một
góc độ, khía cạnh riêng.
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích
sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về
22


ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức
là văn hoá” [15, tr.431]. Cái nhìn về văn hoá của Ngƣời thể hiện khá toàn diện. Ngôn
ngữ song song với chữ viết, đạo đức nhƣng lại có pháp luật đi kèm, không phải vì
khoa học mà phủ nhận tôn giáo, văn học phải có nghệ thuật. Ngƣời đã xác định các
tiêu chí để xác định văn hoá, văn hoá là những gì mà con ngƣời sáng tạo ra nhƣng
không phải tất cả những gì con ngƣời sáng tạo ra đều là văn hoá, chỉ những gì đƣợc
sáng tạo ra vì sự tồn tại, phát triển của con ngƣời mới đƣợc coi là văn hoá. Hơn nữa

trong cách nhìn của Hồ Chí Minh ta còn thấy thể hiện tinh thần khoan dung văn hoá.
Văn hoá đƣợc hình thành trên cơ sở phƣơng thức sống của cộng đồng ngƣời và các
cộng đồng khác nhau thì các giá trị cũng khác nhau, không để áp đặt phƣơng thức sống
cũng nhƣ các giá trị của cộng đồng này lên một cộng đồng khác. Thừa nhận sự khác
biệt trong văn hoá là một cách nhìn rất tiến bộ. Khái niệm về văn hoá đƣợc Ngƣời đƣa
ra từ rất lâu nhƣng đến hiện nay nó vẫn đƣợc nhiều nhà nghiên cứu đánh giá rất cao.
Tích hợp quan điểm Đông – Tây, UNESCO đã đƣa ra định nghĩa: “văn hoá
hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc
cảm quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hoá
bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con
người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hoá đem
lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hoá làm cho chúng ta trở
thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, có óc phê phán và dấn thân một
cách đạo lí. Chính nhờ văn hoá mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự
biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của
bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công
trình vượt trội lên bản thân”.[30]
Nhƣ vậy, văn hoá không phải là một lĩnh vực riêng biệt. Nó bao gồm những giá
trị vật chất và tinh thần: Giá trị vật chất là những di sản vật thể nhƣ đình, chùa, đền,
miếu, lăng, mộ… Những di sản văn hoá tinh thần là những di sản vô hình đƣợc lƣu
truyền từ đời này qua đời khác, phổ biến trong cộng đồng ngƣời. Nó bao gồm âm
nhạc, những điệu hát, điệu múa, phong tục tập quán lễ hội, các nghề truyền thống…
Hai phần này không tách riêng biệt mà gắn bó với nhau, lồng vào nhau, tồn tại cùng
nhau.
23


Văn hoá là sản phẩm do con ngƣời sáng tạo có từ thuở bình minh của xã hội
loài ngƣời. Mọi thứ có thể theo thời gian mà mất đi nhƣng những gì còn lại chính là
văn hoá. Qua hàng ngàn năm sinh tồn và phát triển, loài ngƣời đã hình thành vô vàn

những giá trị văn hoá. Khi nhắc tới văn hoá chúng ta thƣờng ám chỉ tới mô hình phát
triển mà hệ thống nhận thức, ý thức hệ, các giá trị, các quy luật về nghi lễ hàng ngày
của một xã hội phản ánh trong mô hình đó, các tổ chức đó làm nổi lên sự tinh tế và giá
trị của các hệ giá trị, các tập quán, các quan hệ xã hội trong tổ chức này. Nhƣ vậy,
những xã hội khác nhau với trình độ phát triển khác nhau thì văn hoá cũng khác nhau.
Thậm chí những tổ chức tồn tại trong một xã hội, những con ngƣời cùng trong một tổ
chức cũng sẽ có những giá trị, chuẩn mực, niềm tin khác nhau. Văn hoá in dấu ấn lên
tổ chức và góp phần tạo nên tính đa dạng của tổ chức và sự đa dạng đó cũng được
thể hiện ở cả các thành viên trong tổ chức.
Quản lý là một hoạt động thực tiễn đặc biệt của con người, trong đó các chủ
thể tác động lên các đối tượng bằng các công cụ và phương pháp khác nhau, thông
qua quy trình quản lý nhất định, nhằm thực hiện một cách hiệu quả nhất các mục tiêu
của tổ chức trong điều kiện biến động của môi trường.
Quản lý và văn hoá là hai lĩnh vực hoạt động rất đặc biệt của nhân loại. Cả hai
đều xuất hiện ngay từ khi con ngƣời có nhu cầu liên kết và phối hợp để cùng tồn tại và
phát triển. Ra đời vì nhu cầu sinh tồn, và các nhu cầu khác của cuộc sống, quản lý và
văn hoá đều phát triển “vị con ngƣời”; thích nghi, biến đổi và phát triển cũng theo
cùng sự vận động phát triển của loài ngƣời. Nấc thang phát triển của nhận thức con
ngƣời đã khám phá ra vai trò của hai yếu tố này trong nhau, hình thành dần dần những
khía cạnh về một chỉnh thể: Văn hoá quản lý.
Không phải ngay từ đầu vấn đề văn hoá đã trở thành mối quan tâm của quản lý,
và cũng không phải ngay từ đầu vấn đề văn hoá quản lý đã trở thành một bộ phận quan
trọng trong hệ thống văn hoá. Sự kết hợp diễn ra nhƣ là một quá trình phát triển tất yếu
của xã hội loài ngƣời nói chung, cũng nhƣ của từng lĩnh vực nói riêng. Lúc đầu, văn
hoá đƣợc các nhà quản lý sử dụng nhƣ một động lực nâng cao hiệu quả hoạt động. Dần
dần, trong hoạt động thực tiễn của các tổ chức, đã từng bƣớc hình thành những đặc
trƣng văn hoá trong quản lý. Bên cạnh đó, quản lý là hoạt động lao động chủ yếu của
loài ngƣời, đặc biệt là ngày càng phát triển trong cuộc sống hiện đại, do đó, văn hoá
24



×