Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Mô phỏng và thiết kế bộ biến đổi điện tối ưu cho máy phát điện đa năng lượng sóng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.21 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGÔ THỊ THANH THUỶ

ĐẢNG BỘ HUYỆN BÌNH LỤC (TỈNH HÀ NAM) LÃNH
ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội – 2014

0


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGÔ THỊ THANH THUỶ

ĐẢNG BỘ HUYỆN BÌNH LỤC (TỈNH HÀ NAM) LÃNH
ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2010
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60220315
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Viết Nghĩa

Hà Nội - 2014


1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Trần Viết Nghĩa.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính
khách quan, khoa học, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2014

Tác giả luận văn

Ngô Thị Thanh Thủy

2


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này tôi đã nhận được sự quan tâm hướng dẫn,
giúp đỡ của nhiều cá nhân, tập thể trong và ngoài trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Trần Viết Nghĩa đã tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình viết luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Huyện ủy, Ủy ban nhân dân, Ban tuyên giáo,
Mặt trận Tổ quốc, Phòng Văn hoá huyện Bình Lục (tỉnh Hà Nam)…đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi, cung cấp tài liệu giúp tôi hoàn thành bản luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Phòng văn hóa huyện Bình Lục, Huyện

ủy Bình Lục của tỉnh Hà Nam đã giúp đỡ tôi trong quá trình sưu tầm tài liệu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo khoa Lịch sử và các
thầy cô giáo một số chuyên ngành khác của trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình truyền đạt kiến thức cho tôi
trong suốt 2 năm học vừa qua.
Một lần nữa tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự giúp đỡ quý báu này!

3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................7
Chƣơng 1: MẤY VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VĂN HOÁ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ Ở HUYỆN BÌNH
LỤC TRƢỚC NĂM 2000 ...........................................................................................13
1.1. Mấy vấn đề lý luận văn hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam .............................13
1.1.1. Quan điểm về văn hóa, đời sống văn hoá ........................................................13
1.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng đời sống văn hóa ở
nước ta........................................................................................................................17
1.2. Thực tiễn xây dựng Đời sống văn hóa ở huyện Bình Lục trƣớc năm 2000 ....24
1.2.1. Truyền thống văn hoá của Bình Lục ................................................................ 24
1.2.2. Thực tiễn xây dựng đời sống văn hóa của huyện Bình Lục trước năm 2000 ..27
Chƣơng 2: ĐẢNG BỘ HUYỆN BÌNH LỤC LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CÁC
THIẾT CHẾ VĂN HOÁ VÀ NẾP SỐNG VĂN HOÁ MỚI TỪ NĂM 2000 ĐẾN
NĂM 2010 .....................................................................................................................33
2.1. Đảng bộ huyện Bình Lục lãnh đạo xây dựng các thiết chế văn hoá ................33
2.2. Đảng bộ huyện Bình Lục lãnh đạo xây dựng nếp sống văn hoá mới từ năm
2000 đến năm 2010 ......................................................................................................39
Chƣơng 3: ĐẢNG BỘ HUYỆN BÌNH LỤC LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI
SỐNG VĂN HOÁ VĂN NGHỆ, THỂ DỤC THỂ THAO VÀ PHÁT TRIỂN CON

NGƢỜI MỚI TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2010 ........................................................59
3.1. Về đời sống văn hoá văn nghệ .............................................................................59
3.2. Về thể dục thể thao ...............................................................................................61
3.3. Về phát triển con ngƣời mới ................................................................................63
3.4. Về bảo tồn di sản văn hóa ....................................................................................66
Chƣơng 4: ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ CÁC KINH NGHIỆM CHỦ YẾU ..............74
4.1. Đáng giá chung về công tác lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ở Bình Lục
từ năm 2000 đến năm 2010 .........................................................................................74
4.1.1. Những thành tựu cơ bản...................................................................................74
4.1.2. Một số hạn chế .................................................................................................88
4.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu ................................................................................91
KẾT LUẬN ..................................................................................................................96
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................98
PHỤ LỤC ...................................................................................................................105
4


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CNH - HĐH

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

CN - TTCN

Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp


CLB

Câu lạc bộ

CTQG

Chính trị quốc gia

ĐSVH

Đời sống văn hóa

GDP

Gros Domestic Product (Tổng sản phẩm quốc nội)

HĐND

Hội đồng nhân dân

KHHGĐ

Kế hoạch hóa gia đình

Nxb

Nhà xuất bản

NVH


Nhà văn hoá

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

TW

Trung ương

UBND

Uỷ ban nhân dân

5


BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN BÌNH LỤC - HÀ NAM

Nguồn: Phòng Văn hoá huyện Bình Lục cung cấp.

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết cuả đề tài
Công cuộc Đổi mới do Đảng, Nhà nước ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986
đến nay đã đạt được những thành tựu to lớn, tương đối toàn diện trên nhiều mặt, nhiều
lĩnh vực: kinh tế nước ta có những bước phát triển quan trọng, đời sống nhân dân được

nâng lên; vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày càng được củng cố; đời sống xã hội
có những chuyển biến nhất định.
Tuy nhiên chúng ta cũng gặp không ít những khó khăn, thách thức trong hầu
hết các mặt kinh tế, xã hội với những nguy cơ lớn. Đặc biệt trong lĩnh vực văn hoá, tác
động của mặt trái cơ chế thị trường, cùng với sự buông lỏng quản lý, giáo dục đã góp
phần làm cho những yếu tố văn hoá lạc hậu phục hồi, một vài nét văn hoá, sinh hoạt từ
nước ngoài du nhập vào không phù hợp với truyền thống, đặc điểm dân tộc,…
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định xây dựng và thực hiện các chủ trương,
chính sách đổi mới trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hoá. Ngay từ Đại hội
VI (1986), những nhận thức mới của Đảng về văn hoá đã có những bước chuyển quan
trọng. Nền văn hoá mà Đảng ta xác định phải xây dựng là nền văn hoá với đặc trưng
dân tộc, hiện đại và nhân văn.
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, đặc biệt là trong xu thế quá
trình hội nhập hóa, toàn cầu hóa thì vấn đề văn hóa lại càng được Đảng và Nhà nước
hết sức quan tâm, đặc biệt là vấn đề xây dựng đời sống văn hóa. Mục đích cao cả của
vấn đề này nhằm tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh, huy động mọi tiềm lực vào xây
dựng và bảo vệ đất nước, góp phần hạn chế những tác động tiêu cực của nền kinh tế
thị trường trong tiến trình xây dựng nền văn hóa mới và con người mới. Trong Nghị
quyết hội nghị lần thứ 5 BCHTW khóa VIII đã đề ra như sau: “Xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.
Các bậc tiền bối như Hồ Chủ tịch, Lê Duẩn, Trường Chinh đã nhận định: “Dưới
chế độ của chúng ta, chúng ta xây dựng đời sống mới về vật chất và văn hóa. Muốn
nâng cao đời sống vật chất phải làm công tác kinh tế. Muốn nâng cao đời sống tinh
thần phải phát triển công tác văn hóa” [92, 299]. Như vậy đời sống văn hóa có môt vai
trò ý nghĩa vô cùng to lớn ở bất cứ một thời đại hay giai đoạn lịch sử nào. Trong nền
văn hóa Việt Nam cổ truyền, cuộc cải biến phong hóa dân tộc ở xã hội ta được mở đầu
từ năm 1930 và phát triển mạnh mẽ thành phong trào đời sống văn hóa mới do Chủ
7



tịch Hồ Chí Minh phát động từ năm 1946. Từ đó việc tổ chức cuộc sống lành mạnh,
khoa học trong gia đình, ngoài thôn xóm, phố phường được mọi người quan tâm. Cách
may mặc mới, cách xưng hô mới, cách quan hệ mới, cách lao động mới, cách giao tiếp
mới … trở thành phong trào sâu rộng khắp đô thị và nông thôn. Cả tín ngưỡng, hội hè,
đình đám, ma chay, giỗ chạp cũng được xem xét lại theo tinh thần mới. Từng bước
một, đời sống văn hóa mới được hình thành trong quá trình cải biến kinh tế, xã hội
diễn ra toàn diện, sâu sắc và đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến thần thánh chống xâm
lược Pháp và Mỹ.
Đời sống mới tạo ra nền văn hóa mới và con người mới với lối sống văn hóa
mới. Xây dựng đời sống văn hóa là công việc chung của toàn xã hội, nhưng đòi hỏi
phải bắt đầu từ từng người, từng gia đình thì mới có thể thành công. Chính vì vậy mà
Đảng và Nhà nước ta đã rất chú trọng quan tâm xây dựng đời sống văn hóa: “ đảm bảo
mỗi nhà máy, nông trường, lâm trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân
dân, cơ quan trường học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi xã, hợp tác xã, ấp đều có đời sống
văn hóa” [22, 102], nhằm tạo lập môi trường văn hóa cơ sở lành mạnh, huy động mọi
tiềm lực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần hạn chế những tác động
tiêu cực của nền kinh tế thị trường trong tiến trình xây dựng nền văn hóa mới và con
người mới.
Nhận thức được vai trò quan trọng của đời sống văn hóa, Đảng bộ huyện Bình
Lục tỉnh Hà Nam hết sức quan tâm xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn huyện,
nhất là trong giai đoạn 2000 - 2010, đồng thời khẩn trương triển khai thực hiện, đưa
Nghị quyết vào đời sống văn hóa và cũng đạt được những thành tựu to lớn, tạo điều
kiện thúc đẩy văn hoá, xã hội của huyện ngày càng phát triển. Đồng thời cũng khẳng
định sự đúng đắn của đường lối, chính sách của Đảng, tăng thêm lòng tin của nhân dân
đối với sự lãnh đạo của Đảng, góp phần vào công cuộc xây dựng huyện Bình Lục trở
thành một huyện phát triển, nơi cội nguồn của những giá trị văn hóa cơ bản của tỉnh
Hà Nam. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc xây dựng đời sống văn
hóa của huyện Bình Lục cũng có những hạn chế nhất định, chính vì vậy mà việc
nghiên cứu về quá trình Đảng bộ huyện Bình Lục lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa
trong những năm 2000 - 2010 là hết sức cần thiết, trên cơ sở đó, chúng ta sẽ rút ra

những bài học kinh nghiệm và những giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả hơn nữa
trong việc xây dựng đời sống văn hóa tại Bình Lục hiện nay.
8


Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn nói trên, tác giả quyết định chọn đề tài:
“Đảng bộ huyện Bình Lục (tỉnh Hà Nam) lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa từ năm
2000 đến năm 2010” làm đề tài cho bản luận văn Thạc sỹ sử học, chuyên ngành Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Xây dựng đời sống văn hóa là một đề tài mà từ lâu đã được giới nghiên cứu
quan tâm. Đây cũng là một nội dung quan trọng mà Đảng ta luôn chú trọng trong công
cuộc đổi mới đất nước và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Trên
bình diện rộng, đã có nhiều công trình, bài viết về đề tài này dưới nhiều góc độ khác
nhau. Tuy nhiên gắn với việc thực hiện, sửa đổi, phát huy những giá trị văn hóa, có thể
kể đến một số bài liên quan:
- Về các bài trong tạp chí có: Phong trào xây dựng làng văn hóa ở huyện Đông
Anh (Nguyễn Thu Hạnh - Tạp chí văn hóa thông tin Hà Nội số 6 - 2005); Cuộc vận
động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn quận Hoàn Kiếm
(Phương Lan - Tạp chí văn hóa thông tin Hà Nội số 6 - 2005); Muốn văn hóa dân tộc
phát triển thì văn hóa Đảng phải đi đầu (Nguyễn Khoa Điềm - Tạp chí xây dựng đời
sống văn hóa 2005)…
- Về sách có: Cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ huyện Bình Lục (1930 -2005)”;
Cuốn sách “Xây dựng gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi mới” (1997), Nxb CTQG,
Hà Nội; Cuốn sách “Xây dựng tư tưởng đạo đức lối sống và đời sống văn hóa ở thủ đô
Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước” (Nguyễn Viết
Chức chủ biên, 2001); Cuốn sách “Chủ động sáng tạo xây dựng đời sống văn hóa ở cơ
sở”, (Nxb Văn hóa dân tộc, năm 1995); Cuốn sách “Nhận diện văn hóa Việt Nam và
sự biến đổi của nó trong thế kỷ XX” (Đỗ Huy, 2002); Cuốn sách “Hỏi và đáp về làng
văn hóa, gia đình văn hóa, nếp sống văn hóa, tổ chức lễ hội truyền thống” do Nxb

CTQG, Hà Nội xuất bản năm 1998; Cuốn sách “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa mới ở khu dân cư” (Dương Thanh Tam, Lê Văn Thịnh, Nxb CTQG, Hà Nội,
1999); Cuốn sách “Xây dựng làng văn hóa ở đồng bằng Bắc Bộ thời kỳ công nghiệp
hóa - hiện đại hóa (Đinh Xuân Dũng, 2005); “Văn hóa mục tiêu và động lực của sự
phát triển xã hội (Nguyễn Văn Huyên, 2006)…
- Về luận văn thạc sỹ có: Đảng bộ huyện Gia Lâm (Hà Nội) lãnh đạo xây dựng
đời sống văn hóa thời kỳ 1986 – 2005 (Nguyễn Mạnh Tưởng, 2006); Đảng bộ tỉnh
9


Ninh Bình lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở (1998 – 2007), (Tạ Thị Mỹ
Linh, 2009),…
Các tài liệu trên đều ít nhiều đã cho thấy một cái nhìn tổng quan về vấn đề xây
dựng đời sống văn hóa trên cả nước nói chung và thực trạng xây dựng đời sống văn
hoá ở huyện Bình Lục (Hà Nam) nói riêng thời kỳ 2000 - 2010. Tuy nhiên, viết về đời
sống văn hoá của một huyện cụ thể như huyện Bình Lục một cách toàn diện và có hệ
thống thì đến nay chưa có một cuốn sách chuyên khảo nào. Và bài luận văn thạc sỹ
này, tác giả đã đưa ra một cách đầy đủ và toàn diện về hệ thống các Báo cáo tổng kết
và Báo cáo tham luận của các đại biểu ở các địa phương tiêu biểu trên địa bàn huyện
về phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” với những thành tựu và
hạn chế, qua đó tổng kết lại và đưa ra những phương hướng, những bước đi để đẩy
mạnh phong trào đi lên và phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong những năm tiếp theo.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
- Làm rõ vai trò lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa của Đảng bộ huyện Bình
Lục từ năm 2000 đến năm 2010, góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam trong thời
kỳ mới.
- Khẳng định tầm quan trọng và ý nghĩa thực tiễn của việc xây dựng ĐSVH do
Đảng bộ Bình Lục (tỉnh Hà Nam) lãnh đạo trong sự nghiệp xây dựng và phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội của huyện.

- Đánh giá những thành tựu và hạn chế, từ đó rút ra những kinh nghiệm và giải
pháp góp phần vào xây dựng đời sống văn hóa ở huyện Bình Lục hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tập hợp các nguồn tài liệu có liên quan.
- Mô tả trung thực chủ trương, biện pháp, quá trình thực hiện và kết quả đạt được.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng bộ huyện Bình Lục trong việc xây dựng đời
sống văn hoá.
Phạm vi nghiên cứu:
+ Luận văn nghiên cứu các vấn đề liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng bộ
huyện Bình Lục về xây dựng đời sống văn hóa, cụ thể trên các mặt: xây dựng các thiết
10


chế văn hoá, nếp sống văn hoá mới, đời sống văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, phát
triển con người mới và bảo tồn di sản văn hoá.
+ Về thời gian luận văn nghiên cứu các vấn đề trong thời gian từ năm 20002010. Mốc khởi đầu nghiên cứu của luận văn là thời điểm huyện Bình Lục chủ trương
đẩy mạnh phát triển văn hóa trên toàn địa bàn tỉnh Hà Nam. Năm 2010 tỉnh Hà Nam
đạt được những thành tựu to lớn trên lĩnh vực văn hóa nói chung và trên xây dựng đời
sống văn hóa nói riêng.
+ Không gian nghiên cứu: toàn bộ địa bàn huyện Bình Lục.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Nguồn tài liệu:
Để thực hiện mục tiêu mà đề tài đưa ra, nguồn tài liệu chính được sử dụng trong
luận văn là:
+ Các văn kiện của Đảng và Nhà nước: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ V, VI, VIII, IX, X của Đảng; Kết luận Hội nghị Trung ương lần thứ mười khoá IX
(2004); Các văn bản, Báo cáo, Chỉ thị, Chương trình hành động tổ chức, triển khai xây
dựng đời sống văn hoá của Chính phủ, UBMTTQ Việt Nam, Bộ Văn hoá, Thể thao và

Du lịch.
+ Một số văn kiện của Đảng bộ Huyện Bình Lục từ năm 2000 đến 2010; Các
văn bản, Báo cáo, Chỉ thị, Chương trình, Kế hoạch hành động, tổ chức và triển khai
xây dựng đời sống văn hoá của Huyện uỷ, Phòng Văn hoá, Thể thao và Du lịch huyện
Bình Lục.
+ Các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh.
+ Những cuốn sách chuyên khảo, các tạp chí, các công trình nghiên cứu, kỷ
yếu Hội thảo, Báo cáo đề cập đến việc xây dựng đời sống văn hoá, đặc biệt là các tài
liệu thu thập được qua điều tra, khảo sát thực địa và phỏng vấn trực tiếp ở địa phương.
Phương pháp nghiên cứu:
Để giải quyết những yêu cầu của đề tài này, tác giả đã dựa trên cơ sở lý luận là
những quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
sản Việt Nam về văn hóa và đời sống văn hoá.
Để thực hiện luận văn, tôi đã sử dụng các phương pháp như sau: phương pháp
lịch sử, logic, điều tra, thống kê, đối chiếu, so sánh, và điền dã.

11


6. Đóng góp mới của đề tài
- Cung cấp những tư liệu cơ bản về quá trình lãnh đạo xây dựng đời sống văn
hóa của Đảng bộ Huyện Bình Lục từ năm 2000 đến năm 2010.
- Trình bày có chọn lọc một cách hệ thống chủ trương, sự lãnh đạo của Đảng bộ
Huyện Bình Lục về công tác xây dựng đời sống văn hóa từ năm 2000 đến năm 2010
và những phong trào xây dựng đời sống văn hóa của nhân dân Bình Lục trong thời
gian từ năm 2000 đến năm 2010.
- Góp phần nghiên cứu lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Nam.
- Chỉ ra nguyên nhân khách quan, chủ quan của kết quả, hạn chế trong lãnh đạo,
chỉ đạo của Đảng bộ huyện, đồng thời nêu lên những kinh nghiệm lịch sử góp phần
vào công tác xây dựng đời sống văn hóa hiện nay của Huyện Bình Lục.

7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, Luận văn gồm 4
chương:
Chương 1: Mấy vấn đề lý luận văn hoá của ĐCSVN và thực tiễn xây dựng đời
sống văn hoá ở huyện Bình Lục trước năm 2000.
Chương 2: Đảng bộ huyện Bình Lục lãnh đạo xây dựng các thiết chế văn hoá và
nếp sống văn hóa mới từ năm 2000 đến năm 2010.
Chương 3: Đảng bộ huyện Bình Lục lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá, văn
nghệ, thể dục thể thao, phát triển con người mới và bảo tồn di sản văn hoá từ năm
2000 đến năm 2010.
Chương 4: Đánh giá chung và các kinh nghiệm chủ yếu

12


Chƣơng 1
MẤY VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VĂN HOÁ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ
THỰC TIỄN XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ Ở HUYỆN BÌNH LỤC TRƯỚC
NĂM 2000
1.1. Mấy vấn đề lý luận văn hoá của ĐCSVN
1.1.1. Quan điểm về văn hóa, đời sống văn hoá
Quan điểm về văn hoá:
Văn hóa vốn là một lĩnh vực rộng lớn, rất phong phú và phức tạp, do đó đã có
rất nhiều tổ chức, nhiều chuyên gia đã nghiên cứu về văn hóa và đưa ra các khái niệm,
quan điểm khác nhau về văn hóa, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm
nào về văn hóa được thống nhất tuyệt đối. Có rất nhiều cách hiểu, khái niệm về văn
hoá khác nhau.
Theo Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên, Nxb Đà
Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng, 2002), văn hoá có các nghĩa như
sau: 1. Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sang tạo ra

trong quá trình lịch sử (kho tàng văn hoá dân tộc, văn hoá phương Đông, nền văn hoá
cổ). 2. Những hoạt động văn hoá của con người nhằm thoả mãn đời sống tinh thần. 3.
Tri thức, kiến thức khoa học. 4. Trình độ cao trong sinh hoạt của xã hội, biểu hiện của
văn minh. 5. Nền văn hoá của một thời kỳ cổ xưa.
Khái niệm văn hóa thường được tiếp cận ở hai cấp độ lý luận và thực tiễn. Ở
cấp độ lý luận, văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người (cá
nhân và cộng đồng) sáng tạo ra để phục vụ sự tồn tại và phát triển của xã hội. Bản chất
của văn hóa là sự sáng tạo, vươn tới cái Chân - Thiện - Mỹ, vươn tới các giá trị nhân
văn đem lại hạnh phúc cho con người. Văn hóa là “thiên nhiên” thứ hai do con người
tạo ra để phục vụ con người. Ở cấp độ thực tiễn, văn hóa thể hiện trong toàn bộ hoạt
động sống của con người, từ hoạt động sản xuất vật chất đến hoạt động tinh thần, phản
ánh kiểu lựa chọn sáng tạo của cá nhân và cộng đồng.
Như vậy, văn hóa vừa là sản phẩm sáng tạo của con người, vừa là môi trường
nhân tạo để nuôi dưỡng đời sống vật chất và tinh thần của con người. Cùng với thiên
nhiên thứ nhất do tạo hóa tạo nên, văn hóa trở thành môi trường sống của con người,
văn hóa được nhìn nhận là động lực của sự tiến bộ xã hội. Cần phải khắc phục nhận
thức phiến diện về văn hóa, đồng nhất văn hóa với một vài hoạt động thuộc lĩnh vực
tinh thần và xem nhẹ vai trò, chức năng xã hội của nó.
13


Chủ nghĩa Mác - Lênin đã quan niệm rằng: người ta sinh ra ăn, mặc, ở trước rồi
mới hát, múa, vẽ rồi mới bàn triết lý sau. Kinh tế là nền tảng của xã hội, là hạ tầng cơ
sở. Chính trị, pháp luật, văn hoá là những cái được xây dựng trên nền tảng đó, là
thượng tầng kiến trúc của xã hội.
Theo học thuyết Mác - Lênin cho rằng: Văn hoá bao gồm mọi sinh hoạt của con
người, nó không chỉ hạn chế trong lĩnh vực tư tưởng, đời sống tinh thần của xã hội.
Văn hoá nhìn chung là tất cả những gì con người xây dựng nên, tất cả những thành tích
của loài người về mặc sản xuất, xã hội và tinh thần. Học thuyết Mác - Lênin về văn
hoá được dựa trên những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử về các hình

thái kinh tế - xã hội như những giai đoạn phát triển tuần tự của xã hội loài người, về
mối quan hệ tương hỗ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Theo đó văn hoá là
tính đặc thù của xã hội, thể hiện mức độ phát triển lịch sử mà con người đạt được. Văn
hoá là biểu hiện sự thống nhất của tự nhiên và xã hội, là đặc tính về khả năng và sức
sáng tạo của con người, nó bao hàm trong mình không chỉ những giá trị cụ thể như
máy móc, công cụ kỹ thuật, kết quả nhận thức, các tác phẩm nghệ thuật, các chuẩn
mực pháp quyền, đạo đức.v.v…mà còn cả sức mạnh chủ quan của con người và những
khả năng trong hoạt động như tri thức, sự khéo léo, thói quen nghề nghiệp, mức độ
phát triển của khả năng cảm thụ thẩm mỹ, thế giới quan, phương thức và hình thức
giao tiếp của con người trong xã hội.
Theo đó, văn hoá mới là văn hoá cộng sản chủ nghĩa, do đó xây dựng nền văn
hoá mới gắn liền với chế độ mới do giai cấp công nhân lãnh đạo. Lê-nin đã đưa ra
quan điểm được coi là định nghĩa về văn hoá và xây dựng nền văn hoá mới: “ Nền văn
hoá vô sản không phải từ trên trời rơi xuống, nó không phải do những người tự cho
mình là chuyên gia về văn hoá vô sản bịa ra. Tất cả cái đó là hoàn toàn nhảm nhí. Nền
văn hoá vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của cái vốn kiến thức mà loài người
đã tạo ra dưới ách áp bức của xã hội tư bản, của xã hội địa chủ, của xã hội quan liêu
[98, 8].
Như vậy nền văn hoá mới theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin là một
nền văn hoá có quá trình lịch sử phát triển lâu dài, là sự kết tinh những thành tựu văn
hoá từ trước đến nay của loài người.
Hồ Chí Minh đã đưa ra một hướng tiếp cận về văn hoá hết sức cô đọng: vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
14


ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương tiện sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức
sinh hoạt cùng với những biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích

ứng với những nhu cầu của cuộc sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [43, 431]. Trong thời
kỳ kháng chiến chống Pháp, Người đã khẳng định: “Trong công cuộc kiến thiết nước
nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến và phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hóa”.
Như vậy, Người đã khái quát được nội dung rộng nhất của phạm trù văn hoá.
Nó không chỉ bao hàm hoạt động tinh thần của con người mà còn cả những hoạt động
vật chất mà trong đó chứa đựng, phản ánh tác động của tư duy đến kết quả của hoạt
động. Đồng thời chỉ ra nguồn gốc động lực sâu xa của văn hoá đó là nhu cầu sinh tồn
của con người với tư cách là chủ thể hoạt động của đời sống xã hội, một hoạt động
khác hẳn với hoạt động sinh tồn bầy đàn của các loài động vật. Theo ý nghĩa này, chất
văn hoá được hàm chứa trong mọi lĩnh vực hoạt động kể cả hoạt động tinh thần và
hoạt động vật chất cùng với các giá trị vật chất và tinh thần mà con người tạo ra trong
hoạt động của mình.
Năm 1943, Đảng Cộng sản Đông Dương đã đưa ra bản Đề cương văn hoá Việt
Nam. Đề cương đã vạch rõ văn hoá là một trong ba mặt trận chính của Đảng (kinh tế,
chính trị và văn hoá). Như vậy văn hoá bao gồm cả tư tưởng, học thuật và nghệ thuật.
Có thể nói rằng văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra. Nó biểu hiện trình độ phát triển của mỗi dân tộc trong quá trình lịch sử.
Quan niệm về đời sống văn hóa:
Đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống con người, đời sống xã hội, mà đời
sống xã hội là tổng hợp những hoạt động sống của con người, nhằm đáp ứng các nhu cầu
về đời sống vật chất và tinh thần. Hai nhu cầu này xuất hiện từ buổi bình minh của xã hội
loài người, chúng có quan hệ mật thiết và luôn song song tồn tại trong một con người và
không tách rời. Nhu cầu vật chất được đáp ứng nhằm làm cho con người tồn taị như một
thực thể sinh học, còn nhu cầu tinh thần giúp con người tồn tại giống như một thực thể xã
hội, tức là nhân cách văn hóa. Khi xã hội phát triển đến mức độ cao, đạt đến trình độ khác
nhau của nền văn minh thì những nhu cầu cũng đạt đến trình độ tương ứng. Từ hai nhu
cầu cơ bản trên của con người đã hình thành nhu cầu về văn hóa.
15



Như vậy đời sống văn hóa bắt nguồn từ nhu cầu văn hóa của con người, từ nhu
cầu về tinh thần, nhưng nó không đồng nhất với nhu cầu tinh thần. Các hoạt động
nhằm vào sự đáp ứng nhu cầu văn hóa của con người được gọi là hoạt động văn hóa.
Con người là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa. Các sản phẩm ấy kết
hợp với mạng lưới hoạt động văn hóa của con người hình thành trên môi trường văn
hóa, thể hiện đời sống văn hóa. Tóm lại có thể nói ĐSVH là tổng hợp những yếu tố
hoạt động văn hóa của con người, sự tác động lẫn nhau trong đời sống xã hội để tạo ra
những quan hệ có văn hóa trong cộng đồng người, trực tiếp làm hình thành lối sống
của con người trong xã hội ấy như nếp sống mới, đời sống mới,…
ĐSVH có một ý nghĩa vô cùng to lớn trong công cuộc xây dựng đất nước ta,
đặc biệt trong thời đại hiện nay, khi mà đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập để
phát triển đất nước. Việc xây dựng đời sống văn hóa một mặt đưa những giá trị văn
hóa cao đến quần chúng nhân dân, làm cho quần chúng nhân dân tiếp cận được với
những giá trị đó. Mặt khác cần phải động viên, tổ chức phát động quần chúng tiếp cận
đông đảo tham gia hoạt động sáng tạo, trao đổi văn hóa. Chính vì thế mà xây dựng đời
sống văn hóa phải thực hiện ngay trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân, từng cá
nhân thành viên của các cấp các ngành. Nó đáp ứng nhu cầu văn hóa ngày càng cao
của nhân dân. Xây dựng đời sống văn hóa nhằm thực hiện nhiệm vụ đưa văn hóa thâm
nhập vào cuộc sống, làm cho văn hóa ngày càng trở thành yếu tố khăng khít của đời
sống xã hội và mọi hoạt động của quần chúng nhân dân, thành một lực lượng sản xuất
quan trọng.Vì vậy việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở sẽ thực hiện một phần nhiệm
vụ của cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa.
Ngày nay, việc xây dựng ĐSVH được xác định là một trong những nhiệm vụ
chính trị của toàn Đảng và toàn dân. Đây là một nhiệm vụ được chỉ đạo xuyên suốt
hầu hết qua các kỳ Đại hội. Đảng ta luôn quan tâm, lãnh đạo xây dựng đời sống văn
hóa trong nhân dân, từ đó nâng cao ý thức sống có văn hóa trong cộng đồng, làm cho
đời sống tinh thần của nhân dân được nâng cao một cách rỗ rệt, từ đó nhân dân hứng
khởi hơn với việc làm ăn phát triển kinh tế. Như vậy có thể nói việc xây dựng ĐSVH
là vô cùng cần thiết ở mỗi người, mỗi gia đình, mỗi làng, ấp, mỗi ngành,… Việc xây

dựng ĐSVH sẽ tác động trực tiếp và ngay lập tức tới mọi tầng lớp nhân dân lao động,
tới đời sống của mỗi người dân, mang lại cho họ một cuộc sống vui vẻ hạnh phúc.
Đồng thời nó tạo ra tính tích cực chủ động của nhân dân để thúc đẩy, hình thành và
16


phát triển ý thức làm chủ tập thể về văn hóa của nhân dân. Quan trọng hơn, xây dựng
ĐSVH sẽ góp phần làm cho văn hóa hòa nhập vào cuộc sống người dân, thúc đẩy sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội (nhất là ở cơ sở ) theo hướng Công nghiệp hóa, Hiện
đại hóa (CNH - HĐH ), hình thành một đời sống chính trị tinh thần bền vững, làm cho
xã hội ngày càng văn minh, trật tự, ổn định, môi trường văn hóa tinh thần ngày càng
lành mạnh, phong phú và đa dạng, nâng cao chất lượng cuộc sống ở mỗi cơ sở. Và đặc
biệt nó còn nâng cao sức mạnh, khả năng đóng góp của mỗi người dân, thúc đẩy hình
thành phẩm chất, năng lực mới của người lao động trong sự nghiệp CNH – HĐH đất
nước.
Đây chính là một bộ phận có ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội, góp
phần thể hiện chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng.
1.1.2. Quan điểm của ĐCSVN về xây dựng đời sống văn hóa ở nƣớc ta
Văn hoá Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh
kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả
giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn
thiện mình. Văn hoá Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam,
làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Dân tộc Việt Nam ta có một nền văn hoá lâu đời và không ngừng phát huy giá
trị trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Theo thời gian năm tháng trôi qua, song
song cùng với quá trình thực hiện đường lối về cách mạng thì đường lối về văn hoá
của Đảng ta luôn luôn được coi trọng, từng bước được bổ sung, điều chỉnh cho phù
hợp với đường lối cách mạng, với xu thế thời đại và đặc biệt là phải phù hợp với nhu
cầu hưởng thụ văn hoá của quần chúng nhân dân Việt Nam. Cùng với những thành tựu
quan trọng về kinh tế, an ninh - quốc phòng, đối ngoại, vấn đề phát triển văn hoá - xã

hội và xây dựng con người luôn luôn được Đảng ta coi trọng.
Ngay từ năm 1943, trong Đề cương văn hoá Việt Nam, Đảng ta đã nêu rõ ba
đặc trưng của nền văn hoá Việt Nam là “tính dân tộc, tính khoa học và tính đại chúng”.
Trên cơ sở phương pháp luận mác xít gắn chặt với phân tích sâu sắc thực tiễn, nhất là
những xu hướng khác nhau trong lĩnh vực văn hoá Việt Nam, Đề cương đã xác định
văn hoá là một trong ba mặt trận chính (chính trị, kinh tế, văn hoá) mà ở đó, người
Cộng sản phải hoạt động, phải lãnh đạo cách mạng chính trị và cách mạng văn hoá.
Như vậy từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời thì một nền văn hoá mới
17


đã từng bước được hình thành, phát triển và đã đạt được những thành tựu đáng tự hào.
Đó là một nền văn hoá có hai tính chất dân tộc và dân chủ mới, đặc biệt trong giai
đoạn đó thì đây là cách mạng và tiến bộ nhất ở Đông Dương. Nền văn hoá mới đã “cổ
vũ quần chúng đấu tranh và sản xuất vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội và góp phần
xây dựng cuộc sống mới, con người mới” [23, 31]. Và qua bao nhiêu năm qua thì Đề
cương văn hoá Việt Nam vẫn luôn được coi là Cương lĩnh văn hoá đầu tiên của Đảng,
là một Tuyên ngôn mác xít về cách mạng văn hoá của cách mạng ta trong một thời kỳ
lịch sử lâu dài.
Đại hội Đảng toàn quốc IV (12/1976) đã đưa ra nghị quyết mới về một nền văn
hoá mới, đó là nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc. Đó là
nền văn hoá có tính Đảng và tính nhân dân sâu sắc. Nền văn hoá ấy được xây dựng
trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, vừa
kết tinh truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa hấp thụ có chọn lọc những thành quả của
văn minh loài người. Nền văn hoá ấy là sự kết hợp hài hoà những tinh hoa và phong
cách riêng của các dân tộc anh em trong đại gia đình dân tộc Việt Nam. Xây dựng nền
văn hoá mới là quá trình bồi đắp tư tưởng của giai cấp công nhân, những tình cảm lành
mạnh, những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc, đồng thời đấu tranh quét sạch
ảnh hưởng của văn hoá thực dân, phong kiến, tư sản và những nhân tố lạc hậu trong xã
hội. Đại hội đã chỉ rõ cần phải có những biện pháp và chính sách nhằm tạo điều kiện

cho mọi người tham gia vào hoạt động văn hoá văn nghệ, đáp ứng ngày càng đầy đủ
nhu cầu thưởng thức và hoạt động văn hoá văn nghệ của quần chúng nhân dân từ nông
thôn đến thành thị, từ những nơi đông người cho đến những nơi xa xôi hẻo lánh… Tất
cả đều thể hiện một nét rất phong phú của nền văn hoá chung của dân tộc ta.
Trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (3/1982), về những nhiệm vụ văn hoá,
xã hội, Báo cáo chính trị nhấn mạnh việc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới đã
thu được nhiều thành tích. Nhưng cuộc đấu tranh giữa hai con đường trên lĩnh vực văn
hoá, tư tưởng, lối sống diễn ra hết sức phức tạp. Xây dựng nền văn hoá mới, con người
mới là sự nghiệp mang nội dung toàn diện. Trong công cuộc xây dựng nền văn hoá
mới, con người mới, văn hoá nghệ thuật giữ một vai trò cực kỳ quan trọng, Đảng và
Nhà nước cần tăng cường quản lý, đồng thời ra sức phát triển và nâng cao chất lượng
các hoạt động văn hoá, văn nghệ đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng. Chế độ
làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa đòi hỏi có những con người mới phù hợp với nó. Chủ
18


tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những
con người xã hội chủ nghĩa". Đại hội nhấn mạnh: “Đặc biệt chú trọng xây dựng đời
sống văn hoá ở cơ sở, bảo đảm mỗi nhà máy, nông trường, lâm trường, mỗi đơn vị lực
lượng vũ trang, công an nhân dân, cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi xã,
hợp tác xã, phường, ấp đều có đời sống văn hoá” [22, 102].
Những năm sau đó, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội với
những rào cản của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã tác động đến công cuộc xây
dựng đời sống văn hoá khiến cho việc xây dựng văn hoá gặp nhiều khó khăn nhất
định.
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đi qua chặng đường
gần 25 năm và thu được những kết quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Từ năm 1986, trên
tinh thần đổi mới toàn diện và sâu sắc đất nước, Đại hội toàn quốc lần thứ VI
(12/1986) đã có những nhận thức mới về vai trò, vị trí của văn hoá, khắc phục được
những hậu quả của những năm tháng khủng hoảng trước đó.

Ngay từ đầu thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển văn hoá trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hàng loạt các văn kiện của Đảng trên lĩnh vực
văn hoá đã ra đời đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của công cuộc đổi mới và yêu cầu xây dựng
phát triển văn hoá trong thời kỳ đổi mới. Từ năm 1986 đến nay, trong cơ chế thị
trường và quá trình mở cửa trong những năm đổi mới đã làm sống động và khởi sắc
môi trường văn hoá. Đặc biệt và quan trọng là tại Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ
VII, Đảng đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội” (1991). Trong cương lĩnh này, Đảng đã xác định nền văn hoá tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc là một trong sáu đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta
xây dựng [68, 16].
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (7/1996), Đảng ta đã xác định phải xây
dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và nhấn mạnh đến
vai trò của văn hoá cơ sở. Văn kiện Đại hội chỉ rõ phải “củng cố và tăng cường mạng
lưới văn hoá cơ sở”[25, 111].
Hội nghị lần thứ Năm Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII (16/7/1998) đã ban
hành Nghị quyết về vấn đề “Xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc”. Trên cơ sở tổng kết những thành tựu cũng như những hạn chế trong quá
19


trình xây dựng và phát triển văn hoá ở thời kỳ phát triển kinh tế thị trường, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trên tầm cao của sự nghiệp đổi mới, Đảng ta
đã xác định phương hướng chung để xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam:
“Phương hướng chung của sự nghiệp phát triển văn hoá nước ta là phát huy chủ nghĩa
yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ tự cường xây
dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc,…”[27, 15].
Nghị quyết TW 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là chiến lược văn hóa của Đảng ta trong thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Trong nghị quyết này, Đảng ta đã khái quát hoá 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản để
xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc:
Một là, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Hai là, nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
Ba là, nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam.
Bốn là, xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh
đạo trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Năm là, văn hoá là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hoá là một sự
nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Những quan điểm này thể hiện sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về văn hoá
ở bình diện khá cao, bao quát toàn bộ những vấn đề cốt lõi của việc xây dựng và phát
triển văn hoá trong thời kỳ mới. Sự sáng tạo của Đảng không chỉ dừng lại ở việc nhận
thức sâu sắc và toàn diện hơn vai trò của văn hoá trong sự nghiệp đổi mới mà còn thể
hiện ở việc xác định rõ phương hướng, đặc trưng, tính chất, động lực và đặc thù của
hoạt động xây dựng và phát triển văn hoá.
Đảng đã chủ trương “đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, ấp, xã, phường văn hoá,
nâng cao tính tự quản của cộng đồng dân cư trong công cuộc xây dựng nếp sống văn
minh”, “phát triển không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hoá
20


cơ sở, đầu tư xây dựng một số công trình văn hoá trọng điểm tầm quốc gia. Tăng cường
hoạt động của các tổ chức văn hoá nghệ thuật, phát triển phong trào quần chúng hoạt động
văn hoá nghệ thuật” [26, 60]. Hội nghị đặc biệt nhấn mạnh đến việc “Xây dựng nếp sống
văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội, đẩy lùi các hủ tục, các tệ nạn cờ bạc, ma tuý,

mại dâm, bạo lực và gây rối trật tự công cộng” [26, 69] và “Cải thiện đời sống văn hoá ở
những vùng đời sống văn hoá còn thấp kém, nhất là những vùng sâu, vùng xa, vùng núi,
biên giới hải đảo, vùng đồng bằng các dân tộc thiểu số, đáp ứng nhu cầu bức thiết về đời
sống văn hoá tinh thần của nhân dân” [26, 70].
Như vậy Nghị quyết Hội nghị TW 5 khoá VIII đã bao quát được tổng thể những
nội dung cơ bản và chủ yếu để xây dựng và phát triển văn hoá trong thời đổi mới, là
Nghị quyết có ý nghĩa chiến lược về văn hoá của cách mạng nước ta trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Từ khi thực hiện Nghị quyết TW 5 đã tạo ra trên đất nước ta một phong trào
cách mạng sâu rộng, huy động toàn bộ các tổ chức trong hệ thống chính trị, huy động
mọi tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, huy động mọi người dân tham gia cuộc vận động xây
dựng con người mới, nếp sống mới, phong tục tập quán, gia đình văn hóa, làng ấp bản,
cơ quan, đơn vị văn hóa trong cuộc vận động lớn: Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa. Nó tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống xã hội, hình thành
nhiều phong trào văn hoá ở các vùng miền, thu hút đông đảo quần chúng tham gia, góp
phần vào việc giữ vững ổn định chính trị, trật tự xã hội, giữ gìn bản sắc văn hoá dân
tộc, thúc đẩy kinh tế phát triển. Ngoài ra còn góp phần thiết thực truyền bá sâu rộng
những cơ sở lý luận, những kinh nghiệm thực tiễn, những nhân tố mới trong sự nghiệp
xây dựng đời sống văn hóa ở nước ta trong thời kỳ đổi mới và hiện nay, góp phần hiện
thực hóa thắng lợi một trong những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội mà nhân
dân ta xây dựng: Có một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Chính vì vậy mà Đảng ta ngay trong Nghị quyết TW 5 khóa VIII đã xác định:
Xây dựng văn hóa là mục tiêu, là động lực của sự phát triển và khẳng định quyết tâm
tạo ra bước phát triển tốt hơn trong xây dựng đời sống văn hóa, nhất là văn hóa cơ sở.
Để thực hiện Nghị quyết của Đảng, ngày 23/12/1999, Thủ tướng quyết định
thành lập Ban chỉ đạo cuộc vận động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá” nhằm đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục thực hiện nhiệm vụ văn hoá
trong thời kỳ đổi mới, giáo dục chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội gắn liền với
21



phong trào thi đua yêu nước và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước [43,
39]. Phong trào này bao gồm các phong trào như: Người tốt việc tốt; Uống nước nhớ
nguồn; Đền ơn đáp nghĩa; Xoá đói giảm nghèo; Xây dựng gia đình văn hoá làng, xã,
phường văn hoá; Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư… Toàn
bộ các phong trào này đều vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Trong giai đoạn 2000 - 2010, các Đại hội Đảng vẫn tiếp tục đề cao tầm quan
trọng của công tác xây dựng đời sống văn hoá, đặc biệt chú trọng đến công tác này.
Ngày 12/4/2000, Ban chỉ đạo đã ban hành kế hoạch triển khai phong trào “
Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” trên phạm vi cả nước. Trong đó nội
dung chủ yếu của kế hoạch được thể hiện ở 5 điểm: Phát triển kinh tế, giúp nhau làm
giàu chính đáng, xoá đói giảm nghèo; Xây dựng tư tưởng chính trị lành mạnh; Xây
dựng nếp sống văn minh, kỷ cương xã hội, sống và làm việc theo pháp luật; Xây dựng
môi trường văn hoá sạch, đẹp, an toàn; Xây dựng các thiết chế văn hoá - thể thao và
nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá, thể thao cơ sở.
Để thực hiện các nội dung chủ yêu trên, kế hoạch đề ra các phong trào cụ thể:
Xây dựng người tốt, việc tốt, các điển hình tiên tiến; Xây dựng gia đình văn hoá; Toàn
dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư; Xây dựng làng, bản, ấp, khu phố
văn hoá; Xây dựng công sở, doanh nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang…có nếp sống
văn hoá; Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại; Đẩy mạnh phong trào
học tập, lao động sáng tạo [29, 44-56].
Tháng 4/2001, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã tiếp tục khẳng định tầm
quan trọng của việc xây dựng đời sống văn hoá. Văn kiện Đại hội đã chỉ rõ cần “mở
rộng và nâng cao hiệu quả cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá, làm cho văn hoá thấm sâu vào
từng khu dân cư, từng gia đình, hoàn thiện giá trị mới của con người Việt Nam, kế
thừa các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc và tinh hoa văn hoá của loài người,
tăng sức đề kháng chống lại văn hoá đồi truỵ, độc hại. Nâng cao tính văn hoá trong
mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân” [32, 209]. Với mục

tiêu văn hoá được đặt ra trong công cuộc đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hoá”, Đảng chủ trương: “Phấn đấu 80% gia đình đạt chuẩn gia

22


đình văn hoá, 50% làng, xóm, khu phố đạt chuẩn văn hoá cấp Quốc gia, 78% xã,
phường có nhà văn hoá” [32, 297].
Tháng 7/2004, Trung ương họp Hội nghị lần thứ mười đã tiến hành kiểm điểm
5 năm thực hiện NQTƯ 5 (khoá VIII) đã xác định những nhiệm vụ trọng tâm và những
giải pháp, bước đi mới để tạo những bước chuyển căn bản trong việc xây dựng và phát
triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Hội nghị nhấn mạnh “Tiếp tục đặt
lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hoá lành
mạnh trong xã hội, trước hết là trong những tổ chức Đảng và Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân và trong từng cá nhân, gia đình, thôn xóm, đơn vị, tổ chức
cơ sở… Hội nghị chỉ rõ đây là “nhiệm vụ thường xuyên, vừa cấp bách, vừa cơ bản,
vừa lâu dài” [31, 65].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (4/2006) đã nhận định: Văn hoá phát triển
chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Quản lý văn hoá, văn nghệ, báo chí, xuất bản
còn thiếu chặt chẽ. Môi trường văn hoá bị xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với
thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã hội, tội phạm và sự xâm nhập của các sản phẩm và
dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức, nhất là trong thanh, thiếu niên, rất đáng lo ngại.
Như vậy trong giai đoạn 10 năm (2000 - 2001), Đảng ta đã quyết tâm đẩy mạnh
việc thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hoá “đẩy mạnh việc xây dựng đời sống văn hoá
đại chúng và môi trường văn hoá lành mạnh”, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và
con người trong thời đại mới, thời đại CNH - HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ hơn 10 năm trước đây, Bộ Văn hóa - Thông tin đã kịp thời bám sát yêu cầu
của đường lối đổi mới do Đảng đề xướng và lãnh đạo, chủ động đổi mới phương thức
tổ chức xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, phù hợp với điều kiện kinh tế đất nước
chuyển từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ

nghĩa. Kết quả đã đi đến khẳng định làng (thôn, ấp, bản,…) văn hóa là mô hình thích
hợp, thực sự đem lại hiệu quả xã hội tích cực. Xây dựng làng (thôn, ấp, bản,…) văn
hóa có quan hệ mật thiết với đời sống con người.
Một trong những thành tựu quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng ta về văn
hóa là nhận thức sâu sắc tầm quan trọng, nội hàm cũng như mô hình của môi trường
văn hóa, như gia đình văn hóa, ấp, bản làng, khu phố văn hóa, cơ quan, xi nghiệp,
trường học…văn hóa. Do đó chiến lược văn hóa trong thời kỳ mới, Đảng ta đã xác
định xây dựng đời sống văn hóa là một trong những nhiệm vụ cơ bản. Bộ Văn hóa,
23


Thể thao và du lịch coi xây dựng đời sống văn hóa là một trong những trọng tâm công
tác của ngành. Đây không chỉ là chủ trương chiến lược lâu dài mà còn mang tính thời
sự cấp bách.
Như vậy, văn hoá dù ở mọi thời đại thì vẫn luôn là yếu tố căn bản và bền vững
trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển con người Việt Nam nói riêng.
Ở bất cứ giai đoạn nào, trong đường lối lãnh đạo cách mạng của mình, Đảng luôn luôn
tập trung quan tâm và chú trọng xây dựng đời sống văn hoá lành mạnh ở khắp mọi
miền của Tổ quốc.
1.2. Thực tiễn xây dựng ĐSVH ở huyện Bình Lục trƣớc năm 2000
1.2.1. Truyền thống văn hoá của Bình Lục
Bình Lục (Hà Nam) là địa bàn cư trú lâu đời của người Việt cổ. Các tài liệu khảo
cổ học đã khẳng định điều đó. Từ năm 1975 đến nay, ngành khảo cổ học đã tiến hành
khai quật nhiều ngôi mộ cổ, tìm thấy hàng trăm hiện vật quý, đặc biệt là trống đồng
Ngọc Lũ (Bình Lục) đã trở thành biểu tượng của văn hóa Bình Lục nói riêng và văn
hóa Việt Nam nói chung. Ngoài ra, đóng góp vào sự độc đáo cùng với hơn 40 làng
nghề tại Hà Nam, làng Vọc ở huyện Bình Lục là một làng nghề nổi tiếng với rượu
Vọc. Về thăm làng Vọc ta sẽ được thấy cuộc sống no ấm cùng với nghị lực vươn lên
của người dân vùng đất chiêm khê mùa thối Bình Lục. Như vậy mảnh đất con người
Bình Lục từ xưa đã là vùng quan trọng của văn minh Đông Sơn, nền tảng văn hóa Việt

Nam.
Từ thế kỷ III Trước Công nguyên, vùng đất Hà Nam thuộc trấn Sơn Nam. Sau khi
thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược và thống trị nước ta, đến ngày
20/10/1890 Toàn quyền Đông Dương đã quyết định đem toàn bộ phủ Liêm Bình, 17
xã của huyện Vụ Bản và huyện Thượng Nguyên (thuộc tỉnh Nam Định) nhập với phủ
Lý Nhân (Duy Tiên và Kim Bảng) cùng với 2 tổng Mộc Hoàn, Chuyên Nghiệp (Hà
Nội) lập thành tỉnh Hà Nam. Từ đó đến nay có nhiều lần chia tách và sát nhập tỉnh,
nhiều lần thay đổi về địa giới hành chính đã diễn ra: Năm 1965, sát nhập hai tỉnh Hà
Nam và Nam Định thành tỉnh Nam Hà. Năm 1976, sáp nhập hai tỉnh Nam Hà và Ninh
Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Năm 1992 tách tỉnh Hà Nam Ninh thành 2 tỉnh Nam
Hà và Ninh Bình. Năm 1997, tách Nam Hà thành 2 tỉnh Hà Nam và Nam Định. Ngày
1/1/1997 tỉnh Hà Nam được tái lập gồm các huyện: Bình Lục, Thanh Liêm, Kim Bảng,
Lý Nhân, Duy Tiên và thành phố Phủ Lý [4, 8].
24


×