Bể tự họai - bể phốt - hầm phân tự hoại ...Là nơi xữ lý nước thải sinh hoạt trước khi đổ
ra cống chung. Về nguyên tắc hầm tự hoại kiểu vi sinh như thế này sẽ thải ra nước sạch
đến mức...có thể dùng lại trong sinh hoạt! Bình thường chúng ta rất khó tin chuyện này
nhưng những ai hiểu sâu về qui trình phân hủy của hai loại vi khuẫn nhu khí và yếm khí
thì sẽ tin đó là sự thật.
Hiện nay các bể tự hoại được xây dựng đa số là sai nguyên tắt dẫn đến việc chất lượng
nước thải ra môi trường vô cùng tôi tệ làm ảnh hưởng rất lớn đến bầu không khi trong
khu dân cư.
Trong giới hạn hiểu biết của một Kiến trúc sư tơi xin trình bày ngun lý họat động và
cấu tạo của bể tự hoại truyền thống mà các bậc tiền bối đã dày công nghiên cứu ứng
dụng:
1. Nguyên tắc họat động:
Có thể chia sự phân hủy chất thải trong hầm tự hoại chia ra làm ba giai đoạn:
a. Giai đọan 1: Nước thải từ bồn cầu, bồn tiểu được dẫn vào hầm tự hoại một cách "nhẹ
nhàng" trong ngăn thứ nhất gọi là ngăn chứa mà không làm khuấy động bề mặt của ngăn
chứa. Phân sẽ nỗi lên và tiếp xúc với khơng khí tạo điều kiện tối đa cho vi khuẫn viếm
khí họat động phân giải các chất hữu cơ (phân) biến thành bùn lắng xuống dưới và
chuyển qua ngăn thứ hai.
+ Điều quan trọng trong giai đọan này là cấu tạo ngăn chứa như thế nào để nước thải
chảy vào không làm khuấyđộng bề mặt nước để quá trình phân hủy khơng bị gián đoạn.
Kế đến là vị trí lỗ thốt nước qua ngăn thứ hai phải thấp dưới dáy bể để chỉ có những
phân tử bùn đa bị phân hủy lăng xuống thì mới qua được ngăn thứ hai , nhưng phải đảm
bảo cach đấy một khoảng để khỏi bị bùn đất làm kẹt, thông thường là cách đáy 20cm .
Cuối cùng là phải có lỗ thơng hơi lên cao khỏi nóc nhà (khơng được thơng với các ngăn
còn lại hay đường ống chảy chất thải vào, có thể thơng với ngăn thứ hai để dùng chung
một ống thơng hơi), đường kính ống khơng cần lớn mà chủ yếu là đủ rộng để không bị
kẹt bụi bẩn trong q trình sử dụng.
+ Dung tích bể chứa được tính tốn sao cho có thể chứa được nước thải từ 10 đến 15
ngày. Nghĩa là chất thải phải tồn tại trong ngăn này từ 10 đến 15 ngày để phân hủy giai
đoạn 1. Vì thế chúng ta khơng nên để nước sinh hoạt khác như nước rữa chén, tắm giặt
vào chung trong bể, ngịai việclàm tăng dung tích bể mà các chất tẩy rữa còn làm cho vi
khuẫn vi sinh khơng hoạt động được.
b. Giai đọan 2: Q trình phân hủy tiếp tục bởi vi khuẫn yếm khí (trong môi trường
thiếu oxy) trong ngăn thứ hai gọi là ngăn lắng. Tiếp theo chất thải được chuyển sang ngăn
thứ ba .
+ Đây là ngăn cũng cần kín khí, q trình phân hủy vẫn tiếp tục nhưng đã tách ra khỏi
ngăn thứ nhất sau 10 ngày. Tuyệt đối không để không khí vào ngăn này. Nhưng phải
thơng hơi để thốt khí chống nổ.
c. Giai đoạn 3: Kết thúc quá trình phân hủy băng vi khuẫn yếm khí, chất thải được
chuyển qua ngăn thứ 3 một cách chậm rãi và tạo điều kiện cho nước thải có diện tích tiếp
xúc với khơng khi tối đa để qúa trình phân hủy bằng vi khuẫn viếm khí (Mơi trường giàu
oxy) tiếp tục phân giải hết các phân tử có mùi hơi thối thải ra và được đưa ra hố ga dẫn ra
cống chung.
+ Cấu tạo ngăn thứ ba rất phức tạp, phải giúp cho tất cả các phân tử nước thải có cơ hội
tiếp xúc với khơng khí vì vậy theo truyền thống người ta ứng dụng nguyên lý ngược dòng
cho nước chảy từ trên xuống qua các lớp đá rỗng, than hoạt tính xuống đáy rồi mới thoát
ra hố ga. Để thực hiện được nguyên lý này thì cao độ của đáy hầm phân phải cao hơn
miệng hố ga (Nghĩa là với hệ thống thoát nước chúng hiện nay đa số người ta phải làm
hầm phân nổi thì mới nguyên lý trên mới hoạt động được.)
CƠNG NGHỆ BÊ TƠNG ĐẦM LĂN
1. Khái niệm
Cơng nghệ bê tông đầm lăn (BTÐL) là loại công nghệ sử dụng bê tơng khơng có độ
sụt, được làm chặt bằng thiết bị rung lèn từ mặt ngoài (lu rung). cơng nghệ này
thích hợp sử dụng cho các cơng trình bê tơng khối lớn, khơng cốt thép và hình dáng
khơng phức tạp như lõi đập, mặt đường. Việc sử dụng hỗn hợp bê tơng khơ hơn
(khơng có độ sụt) và đầm lèn bê tông bằng lu rung giúp cho thi công nhanh hơn, rẻ
hơn so với dùng công nghệ thi công bê tông truyền thống.
Công nghệ BTÐL nếu áp dụng cho xây dựng mặt đường so với công nghệ thi cơng
thơng thường có các ưu điểm sau:
- Lượng dùng xi măng thấp, có thể sử dụng một số phế thải hoặc sản phẩm phụ của
các ngành công nghiệp khác giúp hạ giá thành vật liệu;
- Ðạt cường độ cao ở thời gian đầu, sớm cho phép lưu thông đường;
- Phương pháp thi công không phức tạp, tương tự như thi công bê tông asphalt;
- Tốc độ thi công nhanh giúp rút ngắn thời gian thi công và giảm tổng chi phí.
Trong XD đường thì CPĐD gia cố xi măng cũng có thể được gọi là BT đầm lăn
(mặt đường nửa cứng)
2. Vật liệu chế tạo BTÐL
2.1. Xi măng
Ðối với BTÐL dùng cho đập khối lớn nên sử dụng xi măng có nhiệt thuỷ hố thấp
hơn so với nhiệt thuỷ hoá của xi măng poc lăng thường (TCVN 2682 -1992) như các
loại poóc lăng - pu giơ lan (TCVN4033-95) và xi măng hỗn hợp xỉ lò cao (TCVN 6260
-1999) hay xi măng ít toả nhiệt (TCVN 6069-95).
Ðối với BTÐL cho mặt đường có thể dùng các loại xi măng thông thường như các
dạng xi măng dùng cho kết cấu thông thường khác.
2.2. Cốt liệu
Ðối với BTÐL cho đập, có thể sử dụng cốt liệu có Dmax tới 75mm hoặc cao hơn.
Tuy nhiên việc lựa chọn Dmax cần cân nhắc kỹ về kinh tế và kỹ thuật. Việc sử
dụng cốt liệu có Dmax lớn 100mm-150mm tuy có giảm giá thành vật liệu chế tạo
bê tông nhưng lại đẩy cao chi phí trộn và vận chuyển hỗn hợp bê tơng.
Ðối với BTÐL cho mặt đường, chỉ nên sử dụng cốt liệu có Dmax 20mm.
2.3. Phụ gia khống
Phụ gia khống (PGK) pu-giơ-lan là vật liệu silicat hoặc alumo-silicat mà bản thân nó
có ít hoặc khơng có khả năng đóng rắn nhưng với sự có mặt của nước hoặc độ ẩm
nó có thể phản ứng với can-xi hy- dro-xit để có thể đóng rắn. Pu-giơ-lan cho BTÐL
cần phù hợp tiêu chuẩn ASTM C618-97 hoặc 14TCN 105-97, TCVN 3735-82.
2.4. Phụ gia hoá học
Các cơng trình BTÐL thường sử dụng các loại phụ gia: Phụ gia dẻo hoá-giảm
nước, giảm nước và kéo dài thời gian đông kết và một số loại phụ gia cuốn khí. Trên
thực tế, việc sử dụng phụ gia dẻo hố và dẻo hố chậm đơng kết làm tăng tính dễ thi
công lu lèn và kéo dài thời gian thi công làm cho khả năng bám dính và độ chống
thấm vùng tiếp giáp giữa các lớp bê tông được tăng cường.
Việc lựa chọn loại và tỷ lệ dùng phụ gia hoá học thường căn cứ vào kết quả thí
nghiệm với các vật liệu XM, PGK, cốt liệu cụ thể.
3. Thiết kế thành phần bê tông đầm lăn
3.1. Quan điểm địa kỹ thuật
Quan điểm ÐKT coi hỗn hợp BTÐL là hỗn hợp đất được gia cố xi măng, thành phần
được lựa chọn dựa trên quan hệ độ ẩm và khối lượng thể tích. Ðối với mỗi loại cốt
liệu và hàm lượng chất kết dính,mục đích thiết kế là xác định độ ẩm tối ưu để hỗn
hợp có độ đặc chắc cao nhất bằng thí nghiệm lèn tương xứng với lèn thực thế tại
hiện trường. Với phương pháp thiết kế dựa trên quan điểm này, các lỗ rỗng giữa các
hạt cốt liệu nói chung không được lấp đầy bởi hồ XM sau khi lèn.
Có hai phương pháp thiết kế TPBT theo quan điểm ÐKT là phương pháp BTÐL
nghèo và phương pháp đơn giản hố đất.
3.2. Quan điểm bê tơng
Với quan điểm bê tơng, thành phần BTÐL được lựa chọn dựa trên quan hệ giữa
cường độ nén và một số tính chất khác với tỷ lệ N/CKD được Abrams thiết lập
vào năm 1918. Quan điểm bê tông được dựa trên khái niệm lượng hồ xi măng vừa
đủ để lấp đầy khoảng trống giữa các hạt cốt liệu để hỗn hợp bê tơng có thể được lèn
chặt tốt hơn, độ rỗng giữa các hạt nhỏ hơn.
Các phương pháp thiết kế thành phần BTÐL theo quan điểm bê tông
+ Phương pháp dư hồ (Cục Khai hoang Mỹ);
+ Phương pháp thiết kế BTÐL theo USACE ;
+ Phương pháp CRD Nhật Bản ;
+ Phương pháp thiết kế BTÐL theo Viện Bê tông Mỹ ACI 207.5R ;
+ Phương pháp RCCD Trung Quốc.
4. Các phương pháp thí nghiệm BTÐL
4.1. Phương pháp đo độ cứng hỗn hợp BTÐL
Hiện nay để thí nghiệm xác định tính cơng tác (độ cứng) của hỗn hợp BTÐL, Anh,
Mỹ, Nhật và Trung Quốc đều dùng máy rung VeBe cải tiến (ở Nhật máy rung này còn
được gọi là đầm VC). Vì tiêu chuẩn thử độ cứng cho BTÐL không giống nhau giữa
các quốc gia nên ở mỗi cơng trình, mỗi nước các thơng số của đầm VeBe cũng
khác nhau (Bảng 1).
Bảng 1 Thông số đầm VeBe cải tiến với thùng tiêu chuẩn
Tần số
rung
Hz
Gia tốc biểu kiến Biên độ dao động
g
mm
Tải trọng
ép mặt
kg
Kích thước
Thùng
Thơng số máy rung lèn VeBe
cải tiến
mm
ASTM C - 1170
ACI 211.3-75
CIRIA – Anh
Nhật
USACE
60±1,67
5
0,4-0,75
22,7± 0,5
240x200
50
5
0.5
22,7± 0,5
240x200
50
5
0.5
12,5± 0,1
240x200
5
0.5
20 ± 0,1
240x200
5
0,4 -0,75
12,5± 0,1
240x200
50-60
60±1,67
4.2. Phương pháp đúc mẫu xác định cường độ chịu nén, chịu kéo khi uốn BTÐL
Có hai ngun lí đúc mẫu xác định cường độ nén và uốn mẫu
- Ðúc mẫu bằng bàn rung và chất tải lên mặt mẫu, CRD C-160, ASTM C 1176, SL-48-94
-
Ðúc mẫu bằng búa rung mặt ASTM C 1435, hoặc đầm rung mặt RCD
Đầm bê tơng
Bách khoa tồn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Đầm bê tơng là một cơng đoạn trong cơng tác (hay công việc) đúc bê tông và bê tông cốt
thép. Cơng đoạn này, chính là việc làm chặt kết cấu bê tơng, ngay khi cịn ở dạng vữa,
vừa được đổ vào khuôn đúc, trước khi bê tông bắt đầu đơng kết, bằng các tác động chấn
động từ bên ngồi bề mặt hay từ trong lòng của kết cấu bê tơng.
Mục lục
[ẩn]
1 Mục đích
2 Các phương thức đầm bê tơng
o 2.1 phương thức đầm trong lịng kết cấu bê tơng
o 2.2 Phương thức đầm bên ngồi kết cấu bê tơng
2.2.1 Phương thức đầm mặt thoáng của kết cấu bê tông
2.2.2 Phương thức đầm cạnh khuôn đúc bê tông
[sửa] Mục đích
Vữa bê tơng là một loại vật liệu hỗn hợp của các loại vật liệu hạt rời, cỡ hạt từ mịn đến
thơ. Trong lịng vữa bê tơng, kể cả tới khi đã được đổ (hay còn gọi là rải) vào khn đúc
bê tơng, vẫn cịn độ rỗng rất lớn. Nếu cứ để tồn tại độ rỗng như vậy, sau khi bê tơng đã
ninh kết và đóng rắn, thì kết cấu bê tông trở nên xốp, không đặc chắc, không đồng nhất
và chịu lực kém. Đối với kết cấu bê tông cốt thép, trước khi đổ bê tông bắt buộc đã phải
có cốt thép trong khn đúc, mà khoảng cách giữa các cốt thép thường nhỏ hẹp, để vữa
bê tông luồn qua được các khoảng cách này thường cần phải có lực dồn đẩy từ bên ngồi.
Do đó, khi đúc các kết cấu bê tông và kết cấu bê tông cốt thép, cần phải tiến hành công
đoạn đầm bê tông, sau khi đã đổ (hay rải) vữa bê tông vào khuôn, nhằm làm giảm tới
mức tối đa độ rỗng của kết cấu bê tông, đảm bảo vữa bê tông chảy qua mọi khoảng hở
giữa các cốt thép và tới được mọi điểm của kết cấu, bao bọc được hoàn toàn cốt thép, loại
bỏ các hiện tượng rỗ và rỗng của kết cấu bê tông.
[sửa] Các phương thức đầm bê tơng
Có hai phương thức đầm bê tơng, đó là: đầm ngồi và đầm trong. Phương thức đầm ngoài
lại được chia thành: phương thức đầm mặt và phương thức đầm cạnh. Trong mỗi phương
thức: đầm trong, đầm mặt và đầm cạnh, thì đều có thể thi công theo hai phương thức đầm
thủ công (tức là bằng tay) và đầm bằng máy.
[sửa] phương thức đầm trong lịng kết cấu bê tơng
Trong phương thức đầm trong, người ta tìm cách đưa nguồn gây chấn động vào sâu trong
lịng khối vữa bê tơng vừa đổ để làm đặc chắc nó. Phương thức đầm trong (cịn gọi là
đầm sâu) thường áp dụng để đầm các kết cấu có chiều sâu lớn, như: cột, tường, đài móng,
móng máy, kết cấu bê tông khối lớn, đê, đập, ... Ở phương thức đầm này, khi thi công
bằng máy, người ta thường sử dụng một loại thiết bị đầm gọi là máy đầm dùi.
[sửa] Phương thức đầm bên ngồi kết cấu bê tơng
[sửa] Phương thức đầm mặt thống của kết cấu bê tơng
Phương thức này, thường được thực hiện cho những kết cấu có diện mặt thống lớn.
trong xây dựng nhà dân dụng và cơng nghiệp, thì các kết cấu bê tơng dùng phương thức
đầm này thường có chiều dầy (hay chiều sâu) nhỏ, như: kết bản sàn, nền đường bê tông,
nền nhà, nền sân bay,... Khi dùng phương thức thi công bằng máy, đối với kết cấu mỏng,
thì máy đầm mặt được dùng để đầm là loại máy đầm bàn.
Nhưng đối với các cơng trình thủy như: đê, đập thủy điện,... thì các kết cấu bê tông dùng
phương thức đầm mặt này có thể có chiều sâu lớn, khi đó thường phải thi công bằng máy
với loại máy đầm đặc biệt (xe lu, ...), dùng loại bê tông đặc biệt (bê tông đầm lăn, thường
có độ sụt bằng 0) và phương thức đầm mặt đặc biệt (gọi là phương thức đầm lăn).
[sửa] Phương thức đầm cạnh khuôn đúc bê tông
Đây là phương thức tạo các chấn động trong hệ thống khuôn đúc bê tơng, qua đó chuyền
các tác động này sang vữa bê tông nằm trong khuôn, làm cho bê tông được đặc chắc.
Phương thức này thường sử dụng cho các kết cấu bê tơng dạng thành đứng, có bề dày
(tức là khoảng cách giữa hai ván khuôn thành hai bên) nhỏ, như kết cấu tường, kết cấu
cột, hay các cấu kiện bê tơng đúc sẵn. Trong phương thức này có thể gây chấn động ở lần
lượt từng phần hay có thể tồn bộ hệ khn đúc bê tơng. Nếu đầm chấn động từng phần
thì có thể dùng cho các kết cấu đổ tại chỗ như cột hay tường bê tông. Lúc này đối với
đầm máy thì có thể treo thiết bị rung vào từng điểm của ván khuôn thành, tạo rung cục bộ
để làm chặt kết cấu bê tông tại vùng xung quanh điểm treo máy rung. Nếu kết cấu nhỏ có
thể dùng phương pháp thi cơng thủ cơng bằng cách lấy búa gõ ở từng vùng của ván
khuôn thành.
Các cấu kiện bê tông đúc sẵn, dùng để làm kết cấu cho các cơng trình thi cơng theo cơng
nghệ thi cơng lắp ghép, được chế tạo tại nhà máy, nên thường phải khống chế kích thước.
Do đó đối với các cấu kiện này thì thường sử dụng phương thức đầm cạnh tồn phần, có
nghĩa là rung tồn bộ hệ thống khn đúc. Ví dụ: để đúc các đoạn ống cống bê tơng,
thường có kích thước như sau: dài 1 ÷ 2 m, đường kính 0,6 ÷ 1,8 m, người ta đặt tồn bộ
hệ khn đúc trên một bàn rung kích thước khoảng (3,0 x 3,0) m, và rung toàn bộ hệ
thống bằng một thiết bị rung chạy điện 3 pha.
Trường hợp đặc biệt đối với cấu kiện bê tơng đúc sẵn có dạng ống trịn như: ống cống,
cột điện ly tâm, người ta sử dụng một phương thức đầm cạnh đặc biệt là áp dụng nguyên
lý ly tâm của chuyển động quay để đầm bê tơng. Khi đó hệ khn đúc chỉ có một lớp trịn
bên ngồi, đổ vữa bê tơng vào trong, cho hệ khn đúc quay trịn quanh trục của nó, nhờ
có lực ly tâm mà vữa được đẩy ra giáp thành khuôn đúc và phân bố dầy đặc quanh thành,
đảm bảo độ đặc chắc của kết cấu bê tơng.
CƠNG NGHỆ BÊ TƠNG ĐẦM LĂN
Được đăng bởi thanhtaigmd vào lúc 5/29/2009 08:38:00 AM . Friday, May 29, 2009
Nhãn: KỸ THUẬT CƠNG TRÌNH
1.
Khái
niệm
Cơng nghệ bê tông đầm lăn (BTÐL) là loại công nghệ sử dụng bê tơng khơng có độ sụt,
được làm chặt bằng thiết bị rung lèn từ mặt ngồi (lu rung). cơng nghệ này thích hợp sử
dụng cho các cơng trình bê tơng khối lớn, khơng cốt thép và hình dáng khơng phức tạp
như lõi đập, mặt đường. Việc sử dụng hỗn hợp bê tơng khơ hơn (khơng có độ sụt) và đầm
lèn bê tông bằng lu rung giúp cho thi công nhanh hơn, rẻ hơn so với dùng công nghệ thi
công
bê
tông
truyền
thống.
Công nghệ BTÐL nếu áp dụng cho xây dựng mặt đường so với cơng nghệ thi cơng thơng
thường
có
các
ưu
điểm
sau:
- Lượng dùng xi măng thấp, có thể sử dụng một số phế thải hoặc sản phẩm phụ của các
ngành
-
công
Ðạt cường
nghiệp
khác
độ cao ở thời
gian
giúp
đầu,
hạ
giá
sớm cho phép
thành
vật
liệu;
lưu
thông
đường;
- Phương pháp thi công không phức tạp, tương tự như thi công bê tông asphalt;
- Tốc độ thi công nhanh giúp rút ngắn thời gian thi công và giảm tổng chi phí.
2.
2.1.
Vật
liệu
chế
tạo
Xi
BTÐL
măng
Ðối với BTÐL dùng cho đập khối lớn nên sử dụng xi măng có nhiệt thuỷ hố thấp hơn so
với nhiệt thuỷ hoá của xi măng poc lăng thường (TCVN
268... ) như các loại
poóc lăng - pu giơ lan (TCVN 4033-95) và xi măng hỗn hợp xỉ lò cao (TCVN
626... )
hay
xi
măng
ít
toả
nhiệt
(TCVN
6069-95).
Ðối với BTÐL cho mặt đường có thể dùng các loại xi măng thông thường như các dạng xi
măng
dùng
cho
kết
2.2.
cấu
thông
thường
khác.
Cốt
liệu
Ðối với BTÐL cho đập, có thể sử dụng cốt liệu có Dmax tới 75mm hoặc cao hơn. Tuy
nhiên việc lựa chọn Dmax cần cân nhắc kỹ về kinh tế và kỹ thuật. Việc sử dụng cốt liệu có
Dmax lớn 100mm- 150mm tuy có giảm giá thành vật liệu chế tạo bê tơng nhưng lại đẩy cao
chi
phí
trộn
và
vận
chuyển
hỗn
hợp
bê
tơng.
Ðối với BTÐL cho mặt đường, chỉ nên sử dụng cốt liệu có Dmax 20mm.
2.3.
Phụ
gia
khống
Phụ gia khoáng (PGK) pu-giơ-lan là vật liệu silicat hoặc alumo-silicat mà bản thân nó có ít
hoặc khơng có khả năng đóng rắn nhưng với sự có mặt của nước hoặc độ ẩm nó có thể
phản ứng với can-xi hy-dro-xit để có thể đóng rắn. Pu-giơ-lan cho BTÐL cần phù hợp tiêu
chuẩn
ASTM
C618-97
2.4.
hoặc
14
Phụ
TCN
105-97,
gia
TCVN
3735-82.
hố
học
Các cơng trình BTÐL thường sử dụng các loại phụ gia: Phụ gia dẻo hoá-giảm nước, giảm
nước và kéo dài thời gian đông kết và một số loại phụ gia cuốn khí. Trên thực tế, việc sử
dụng phụ gia dẻo hố và dẻo hố chậm đơng kết làm tăng tính dễ thi công lu lèn và kéo
dài thời gian thi cơng làm cho khả năng bám dính và độ chống thấm vùng tiếp giáp giữa
các
lớp
bê
tông
được
tăng
cường.
Việc lựa chọn loại và tỷ lệ dùng phụ gia hoá học thường căn cứ vào kết quả thí nghiệm
với
các
3.
Thiết
3.1.
vật
liệu
kế
XM,
thành
Quan
PGK,
phần
điểm
cốt
bê
liệu
cụ
tơng
địa
thể.
đầm
lăn
kỹ
thuật
Quan điểm ÐKT coi hỗn hợp BTÐL là hỗn hợp đất được gia cố xi măng, thành phần được
lựa chọn dựa trên quan hệ độ ẩm và khối lượng thể tích. Ðối với mỗi loại cốt liệu và hàm
lượng
chất
kết
dính,
mục đích thiết kế là xác định độ ẩm tối ưu để hỗn hợp có độ đặc chắc cao nhất bằng thí
nghiệm lèn tương xứng với lèn thực thế tại hiện trường. Với phương pháp thiết kế dựa
trên quan điểm này, các lỗ rỗng giữa các hạt cốt liệu nói chung khơng được lấp đầy bởi
hồ
XM
sau
khi
lèn.
Có hai phương pháp thiết kế TPBT theo quan điểm ÐKT là phương pháp BTÐL nghèo và
phương
pháp
3.2.
Quan
đơn
giản
hố
điểm
đất.
bê
tơng
Với quan điểm bê tơng, thành phần BTÐL được lựa chọn dựa trên quan hệ giữa cường độ
nén và một số tính chất khác với tỷ lệ N/CKD được Abrams thiết lập vào năm 1918. Quan
điểm bê tông được dựa trên khái niệm lượng hồ xi măng vừa đủ để lấp đầy khoảng trống
giữa các hạt cốt liệu để hỗn hợp bê tơng có thể được lèn chặt tốt hơn, độ rỗng giữa các
hạt
Các
nhỏ
phương
pháp
thiết
kế
thành
phần
hơn.
BTÐL
theo
quan
điểm
bê
tông
+
Phương
pháp
dư
+
Phương
pháp
thiết
+
+
Phương
Phương
+
pháp
thiết
kế
BTÐL
phương
Phương
pháp
Khai
BTÐL
CRD
theo
pháp
Các
4.1.
(Cục
kế
pháp
Phương
4.
hồ
theo
Nhật
Viện
Bê
tơng
RCCD
Mỹ
Mỹ);
USACE
;
Bản
;
ACI
207.5R
Trung
pháp
thí
độ
cứng
đo
hoang
nghiệm
hỗn
;
Quốc.
BTÐL
hợp
BTÐL
Hiện nay để thí nghiệm xác định tính cơng tác (độ cứng) của hỗn hợp BTÐL, Anh, Mỹ, Nhật
và Trung Quốc đều dùng máy rung VeBe cải tiến (ở Nhật máy rung này cịn được gọi là
đầm VC). Vì tiêu chuẩn thử độ cứng cho BTÐL không giống nhau giữa các quốc gia nên ở
mỗi cơng trình, mỗi nước các thông số của đầm VeBe cũng khác nhau (Bảng 1).
4.2. Phương pháp đúc mẫu xác định cường độ chịu nén, chịu kéo khi uốn BTÐL
Có
hai
ngun
lí
đúc
mẫu
xác
định
cường
độ
nén
và
uốn
mẫu
- Ðúc mẫu bằng bàn rung và chất tải lên mặt mẫu, CRD C-160, ASTM C 1176, SL-48-94
- Ðúc mẫu bằng búa rung mặt ASTM C 1435, hoặc đầm rung mặt RCD
4.3.
Phương
pháp
xác
định
hệ
số
thấm
BTÐL
Khả năng chống thấm của BTÐL được đánh giá bằng hệ số thấm K hoặc k. Hệ số thấm
của BTÐL có thể xác định bằng các phương pháp quy định trong CRD C-48-92, CRD-C
163-92
5.
(Hiệp
Công
hội
nghệ
5.1.
kỹ
thi
sư
công
Thiết
Quân
bê
bị
sự
tông
đầm
thi
Mỹ).
lăn
công
Thiết bị thi công bê tông đầm lăn khơng phức tạp, các thiết bị chính để thi cơng bê tơng
theo cơng nghệ này hiện đều có ở Việt Nam. Thiết bị thi cơng BTÐL nói chung cũng giống
nhau khi thi công BTÐL cho đập, đường và các dạng cơng trình bê tơng khối lớn khơng
cốt thép khác. Tuy nhiên ở mỗi loại hình cơng nghệ đó địi hỏi thêm những thiết bị thi
công
đặc
chủng
riêng.
Các thiết bị cần thiết cho thi công đập bằng công nghệ BTÐL gồm: Máy trộn cưỡng bức
có khả năng trộn hỗn hợp bê tơng khơ sử dụng cốt liệu có đường kính lớn; băng tải hoặc
các thiết bị tương đương để vận chuyển bê tông; xe tải tự đổ; máy san ủi; máy lu rung;
máy nhồi tấm tạo khe co. Hệ thống phun nước cao áp làm sạch bề mặt bê tông mạch
ngừng,
Hệ
thống
phun
nước
bảo
dưỡng.
Thiết bị cho thi công đường, sân bãi: Máy trộn cưỡng bức; xe tải tự đổ; máy rải (asphalt);
xe
lu
rung;
xe
lu
lốp;
mắy
cắt
bê
tông;
Có thể thấy rằng các thiết bị chính cho thi cơng bê tơng bằng cơng nghệ BTÐL đã có sẵn
ở Việt Nam hoặc đều có thể chế tạo tại Việt Nam. Nếu phổ biến cơng nghệ BTÐL ở Việt
Nam thì có thể tận dụng được các thiết bị có sẵn ở trong nước, khơng cần tốn thêm nhiều
chi phí đầu tư mua thiết bị thi công mới.
Công
nghệ
thi
công
BTÐL
cho
đập:
Công nghệ và tổ chức thi công BTÐL khác với bê tông khối lớn thông thường là được tiến
hành
cùng
lúc
trên
một
diện
rộng.
Sau khi ngăn dịng và thi cơng xong phần nền móng đập thì tiến hành thi cơng lớp thềm
chống xói bằng bê tông chịu lực. Bê tông tường thượng lưu được đổ bằng bê tông
thường theo công nghệ cốp pha trượt (hoặc leo) có đặt các băng cách nước vào khe co
dãn (thơng thường 15 m/khe). Tường hạ lưu có thể là bê tông đổ tại chỗ giống như tường
thượng lưu, cũng có thể được lắp ráp bằng các tấm hoặc khối bê tơng đúc sẵn. Các lớp
kết cầu tường này đóng vai trị cốp pha cho các lớp bê tơng đầm lăn phía trong. Hỗn hợp
bê tơng sau khi được trộn từ các trạm trộn được vận chuyển đến nơi đổ bằng các
phương tiện như xe chạy trên ray, băng tải, xe ô-tô tự đổ chuyên dụng. Hỗn hợp BTÐL
được san gạt bằng xe ủi. Sau đó chúng được đầm lèn bằng lu rung (7-12 tấn). Chiều dầy
từng lớp đổ được quyết định bởi năng lực đổ, năng lực đầm của các thiết bị. Thông
thường mỗi lớp bê tông được san dày khoảng 30-40cm. Ðể tăng tốc độ di chuyển, tại một
số cơng trình, các máy ủi san bê tơng được cẩu tháp cẩu chuyển đến các vị trí cần thiết
(tránh làm hỏng bề mặt bê tông đã đầm). Thời gian từ khi bê tông bắt đầu được trộn cho
tới khi đầm lèn xong không vượt quá thời gian bắt đầu đóng rắn của bê tơng.
Cơng
nghệ
thi
cơng
BTÐL
cho
đường:
Hỗn hợp BTÐL sau khi được trộn đạt được tính cơng tác cần thiết với độ cứng thử trên
thiết bị Vebe cải tiến từ 20-50s được chuyển đến hiện trường bằng xe tự đổ. Sau đó HHBT
được rải bằng máy rải với chiều rộng và chiều dày theo thiết kế. Sau khi rải, thay vì được
đầm chặt bằng thiết bị đầm dùi như bê tông thường, BTÐL được làm chặt từ mặt ngoài
bằng xe lu với tải trọng lèn và thời gian lèn thích hợp. Sau khi kết thúc q trình làm chặt,
bề mặt bê tơng được hoàn thiện lại bằng xe lu lốp. Sau 1 ngày tiến hành cắt khe co theo
thiết
kế
để
chống
Sơ đồ thi công mặt đường bằng công nghệ BTÐL
nứt
cho
bê
tông.
6. Hiệu quả áp dụng bê tông đầm lăn làm đập và mặt đường ở Việt Nam
Về kinh tế, hiệu quả lớn nhất mà công nghệ thi công bê tông đầm lăn đem lại là rút ngắn
thời gian thi công, sớm đưa cơng trình vào khai thác sử dụng, ngồi ra đối với xây dựng
cơng trình thuỷ lợi và thuỷ điện, công nghệ này cho phép giảm giá thành vật liệu đáng kể
tức
giảm
tổng
vốn
đầu
tư.
Về kỹ thuật, khi áp dụng công nghệ BTÐL cho xây dựng các cơng trình khối lớn cho phép
giảm nhiệt thuỷ hoá nhờ giảm được lượng dùng xi măng vì vậy giảm được nguy cơ nứt
khối do ứng suất nhiệt. Ðối với xây dựng mặt đường, sân bãi, việc sử dụng BTÐL có thể
rút ngắn thời gian đưa cơng trình vào sử dụng nhanh gấp hai lần so với bê tông thường.
Về môi trường, nhờ việc giảm lượng dùng xi măng trong BTÐL và có thể thay thế một
phần xi măng bằng phụ gia khoáng giúp giảm mức tiêu hao năng lượng, giảm ô nhiễm
môi trường do ngành công nghiệp sản xuất xi măng gây nên. Hơn nữa việc có thể tận
dụng phế thải tro than, cho phép giải quyết xử lý phế thải công nghiệp đang gây ô nhiễm
môi
trường.
Công nghệ thi công bê tông lạnh ( hình ảnh )
Thuật ngữ “bê tông đầm lăn” (RCC) là để mơ tả loại bê tơng sử dụng trong q trình thi
cơng kết hợp được tính kinh tế và cơng nghệ thi công nhanh của các đập đắp với cường
độ và độ bền của bê tông. Bê tông đầm lăn RCC là bê tơng có độ ổn định, khơng sụt trong
trạng thái chưa đông cứng sẽ được vận chuyển, đổ và đầm bằng các thiết bị thi cơng đập
đắp. Các tính chất của RCC đơng cứng tương tự như những tính chất của bê tông thi
công
theo
các
phương
pháp
thi
công
truyền
thống.
Lựa chọn kết cấu bê tông đầm lăn (RCC) cho hạng mục đập dâng bê tông trọng lực là kết
cấu sử dụng công nghệ thi công tiên tiến, phổ biến rộng rãi trên thế giới. Lịch sử ứng
dụng RCC trong thi cơng có thể tính từ việc sử dụng bê tông đầm lăn trong thi công
đường giao thông hay sử dụng như một vật liệu trám, cho đến lần sử dụng đầu tiên ở các
đập và sau đó là các bước phát triển tiếp theo của cơng nghệ này. Bê tông đầm lăn đã là
một ứng dụng thông thường kể từ cuối những năm 1920, nhưng hầu hết chỉ được sử
dụng để làm nền đường cao tốc và đường băng sân bay. Trong lĩnh vực ứng dụng này,
người ta thường biết đến bê tông nghèo hoặc bê tông nghèo khô và các thuật ngữ tương
tự. Những đề xuất ban đầu cho rằng RCC có thể sử dụng trong thi công đập được đưa ra
từ năm 1941, nhưng mãi đến năm 1960-1961, RCC mới được sử dụng trong thi cơng đập.
Hiện nay, trên thế giới có khoảng trên 300 đập được xây dựng theo công nghệ bê tông
đầm lăn, các đập bê tông đầm lăn đã thay thế các đập bê tông trọng lực thi công theo
công nghệ truyền thống (bê tông đầm rung CVC). Gần 2/3 các đập RCC đã được xây dựng
là ở các nước tiên tiến như: Colombia (đập Miel I), Mỹ (đập Olivenhain), Nhật Bản (đập
urayama),
Chile
(đập
Ralco),
Nga
(Bureiskaya),
Trung
Quốc
(đập
Shabai)...
Công nghệ bê tông đầm lăn đã được Công ty Tư vấn xây dựng điện 1 áp dụng cho các
cơng trình như: Thủy điện Pleikrong, Thủy điện Bản Vẽ, Thủy điện SeSan 4 và đã được
chứng minh thực tiễn là giảm chi phí đầu tư xây dựng, rút ngắn thời gian thi công khoảng
1 năm. Dự án Thuỷ điện Sơn La là cơng trình thuỷ điện lớn nhất của nước ta và cũng là
của khu vực, có cơng suất lắp máy 2.400 MW. Bộ Công nghiệp đã quyết định việc thiết kế
kỹ thuật cơng trình Thuỷ điện Sơn La do Liên danh Công ty Tư vấn Xây dựng điện 1
(PECC 1) và Viện Thiết kế Thuỷ công Matxcơva (HPI) có sự trợ giúp của Tư vấn phụ
Colenco Thụy Sỹ thực hiện. Đây là một vinh dự lớn đối với tập thể cán bộ công nhân viên
Công ty. Từ năm 1987, Cơng ty đã được tín nhiệm giao trọng trách là tư vấn, thiết kế chính
cho cơng trình. Cơng ty đã huy động toàn bộ lực lượng khảo sát, thăm dị, đo đạc địa
hình, đào hầm ngang, thí nghiệm hiện trường, đo địa vật lý... Trong suốt 13 năm (19892001), với nỗ lực và tinh thần lao động vượt bậc, sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên bang
Nga, sự phối hợp của các đơn vị khoa học trong nước, Công ty đã kết thúc thành công
giai đoạn lập báo cáo khả thi của cơng trình. Qua nghiên cứu và khảo sát cho thấy, xây
dựng đập bê tông truyền thống với qui mô như đập Sơn La sẽ gặp phải nhiều khó khăn
phức tạp, địi hỏi cơng nghệ làm lạnh vữa bê tông và trong khối đổ để tránh gây nứt đập
khơng kiểm sốt được. Khối lượng thiết bị làm lạnh rất lớn sẽ gây khó khăn cho bố trí mặt
bằng thi cơng, cụ thể là phải có trạm để sản xuất nước đá làm lạnh cốt liệu qui mô lớn, hệ
thống ống dẫn qua các khối đổ rất phức tạp. Ngồi ra, khối lượng thiết bị thi cơng bê tông
trên đập và khối lượng cốp pha cho bê tông rất lớn cũng gây khó khăn cho bố trí mặt
bằng thi công và đường vận chuyển. Và kết quả nghiên cứu thiết kế kỹ thuật giai đoạn I
cho thấy, công nghệ RCC đảm bảo độ tin cậy cao nhất cho cơng trình. Trong thiết kế đập
RCC sử dụng hai phương pháp thiết kế chính. Phương pháp “chung” dựa vào tính kín
nước của đập thơng qua chất lượng và cách xử lý đúng đắn đối với mỗi khe nâng.
Phương pháp “độc lập” dựa vào một thanh chắn chống thấm độc lập, thường là bố trí trên
mặt thượng lưu của đập tương tự như ở đập đá đổ bản mặt bê tông. Bước phát triển cao
nhất của phương pháp này là “đắp cứng” hoặc đập cát sỏi trát xi măng, do mặt cắt ngang
lớn hơn thường ít phụ thuộc hơn vào cường độ kháng kéo và cường độ kết dính. Với hai
phương pháp thiết kế trên, công nghệ bê tông đầm lăn cho thấy tính vượt trội so với bê
tơng truyền thống. Công nghệ thi công nhanh hơn với cường độ và độ bền của bê tơng
(có thể lên tới 2,5-3m chiều đứng mỗi tuần ở các đập lớn), do đó cho phép có thể chạy tổ
máy số 1 vào cuối năm 2009 (Nghị quyết của Quốc hội là năm 2012). Sử dụng hiệu quả
thiết bị truyền thống (xe tải, xe ủi, xe lu rung,v.v...). Sử dụng công nghệ RCC sẽ giảm giá
thành thi công (1m3 bê tông đập RCC: 652.802 đồng, 1m3 bê tông đập CVC: 959.357 đồng.
Như vậy, tổng chi phí gia tăng cho xây dựng đập bê tơng CVC so với xây dựng đập RCC là
1.129 tỷ đồng). Các lớp mỏng hơn dẫn đến độ an toàn gia tăng trong thi công nhờ giảm
bớt các khác biệt trong các lớp giữa các lần đổ. Do đó, độ an toàn càng được gia tăng do
giảm độ phụ thuộc vào cốp pha. Ngồi ra, cịn giảm ảnh hưởng đối với mơi trường do
khơng
cần
đào
các
đường
cáp...
Có thể nói rằng, việc áp dụng cơng nghệ bê tơng đầm lăn cho cơng trình Thuỷ điện Sơn La
là một thành tựu đáng kể trong quá trình trưởng thành và phát triển của ngành thi cơng
cơng trình thủy Việt Nam .
Bảng 2 Các thông số cơ bản của thiết bị đúc mẫu BTÐL
theo các phương pháp thí nghiệm khác nhau
Số lớp
(Trụ/
Phương pháp
Kiểu
Kích thước
Tần số,
Tải trọng
Thời
gian
Dầm)
ASTMC1176-92
CRD C-160
Bàn rung
mẫu, mm
D150xH300
Hz
60
lèn, kg
9,1± 0,25
3/-
ASTM C1435-99
Rung mặt
D150xH300
50
10 ± 0,20
3/--
RCD Japaness
Rung mặt
D150xH300
50
7,0 ± 0,10
3/2
80
SL 49-94 (TQ)
Bàn rung
150x150x150
50
2
2VC
rung, s
VC
VC
11
Ghi chú: VC là thời gian hồ XM xuất hiện trên mặt mẫu và bằng giá trị độ cứng
của HHBT tính bằng giây(s)
4.3. Phương pháp xác định hệ số thấm BTÐL
Khả năng chống thấm của BTÐL được đánh giá bằng hệ số thấm K hoặc k. Hệ số
thấm của BTÐL có thể xác định bằng các phương pháp quy định trong CRD C48-92, CRD-C 163-92 (Hiệp hội kỹ sư Quân sự Mỹ)
VC
80