Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Giải quyết tranh chấp trong thương mại bằng trọng tài vụ việc theo pháp luật Việt Nam : Luận văn ThS. Luật : 60 38 50

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (675.4 KB, 13 trang )

đại học quốc gia hà nội
khoa luật

trần thị ngọc liên

Công trình đ-ợc hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Dũng

giải quyết tranh chấp
Phản biện 1:

trong th-ơng mại bằng trọng tài vụ việc
theo pháp luật việt nam
Phản biện 2:
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 50
Luận văn sẽ đ-ợc bảo vệ tr-ớc Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ,
họp tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 20

tóm tắt luận văn thạc sĩ luật học

hà nội - 2011

Có thể tìm hiểu luận văn tại
Trung tâm t- liệu - Th- viện Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung tâm t- liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội




2.1.2.

MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT

1
6

1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.
1.2.
1.2.1.
1.2.2.
1.2.3.
1.2.4.
1.3.
1.3.1.
1.3.2.
1.3.3.
1.3.4.


Tranh chấp trong thương mại và các hình thức giải quyết
tranh chấp
Khái niệm tranh chấp trong thương mại
Các hình thức giải quyết tranh chấp
Hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc
Trọng tài vụ việc (Trọng tài ad-hoc) là gì?
Đặc điểm của trọng tài vụ việc
Trọng tài vụ việc - ưu điểm và nhược điểm
Khi nào nên giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc
Kinh nghiệm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài của một
số nước
Trọng tài là một loại cơ quan tài phán tư
Thẩm quyền của trọng tài trong việc giải quyết các tranh
chấp phát sinh từ hoạt động thương mại
Về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
Về sự giám sát của tòa án đối với trọng tài trong quá trình
giải quyết vụ việc
Chƣơng 2: PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT

6
6
8
10
17
17
19
20
22

23
23
24
25
25
30

TRANH CHẤP TRONG THƢƠNG MẠI BẰNG TRỌNG
TÀI VỤ VIỆC TẠI VIỆT NAM

2.1.
2.1.1.

Pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp trong thương
mại bằng trọng tài
Lịch sử phát triển và hình thành pháp luật về trọng tài
thương mại

1

2.1.5.
2.1.6.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.

TRANH CHẤP TRONG THƢƠNG MẠI BẰNG TRỌNG
TÀI VÀ TRỌNG TÀI VỤ VIỆC

1.1.


2.1.3.
2.1.4.

30
30

Pháp luật hiện hành về Trọng tài thương mại và trọng
tài vụ việc
Những điểm mới của Luật Trọng tài thương mại năm 2010
Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại và trọng tài vụ việc
Thẩm quyền của trọng tài thương mại
Thủ tục tố tụng trọng tài vụ việc
Thực trạng giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
vụ việc
Hoạt động của trọng tài vụ việc
Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động trọng
tài vụ việc
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO

36
44
46
54
61
64
64
65
70


HIỆU QUẢ SỬ DỤNG HÌNH THỨC TRỌNG TÀI VỤ VIỆC
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG THƢƠNG MẠI TẠI
VIỆT NAM

3.1.

3.1.1.
3.1.2.
3.2.

3.3.

3.3.1.
3.3.2.
3.3.3.
3.3.4.
3.3.5.

Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng hình thức
trọng tài vụ việc nhằm giải quyết tranh chấp trong thương
mại tại Việt Nam
Xuất phát từ thực tiễn sử dụng trọng tài vụ việc trong giải
quyết các tranh chấp thương mại tại Việt Nam
Xuất phát từ vị trí, vai trò của trọng tài vụ việc
Những yêu cầu đặt ra đối với việc nâng cao hiệu quả sử
dụng hình thức trọng tài vụ việc giải quyết tranh chấp
thương mại tại Việt Nam
Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng hình thức
trọng tài vụ việc giải quyết tranh chấp trong thương mại tại

Việt Nam
Giải pháp về mặt cơ chế, chính sách và pháp luật
Giải pháp về phía các trọng tài viên
Các giải pháp về phía tòa án và cơ quan thi hành án
Giải pháp về phía các doanh nghiệp
Tăng cường hợp tác quốc tế
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

2

70

70
71
72

77

77
79
80
82
82
84
86


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Có thể nói đặc trưng quan trọng, cơ bản, nổi bật nhất của kinh tế thế
giới hiện nay là xu hướng toàn cầu hóa, trong đó quan hệ hợp tác kinh tế
quốc tế luôn được củng cố và phát triển. Trong điều kiện hội nhập quốc
tế diễn ra mạnh mẽ đó thì cũng phát sinh ngày càng nhiều những tranh
chấp thương mại không chỉ dừng lại ở sự gia tăng về số lượng mà độ
phức tạp của các tranh chấp cũng ngày một nâng cao. Trong quan hệ
kinh tế quốc tế, trong kinh doanh thương mại… tranh chấp phát sinh luôn
là hiện tượng đương nhiên, giải quyết tranh chấp là việc làm tất yếu và
đang là một vấn đề được bàn đến nhiều của nền kinh tế thế giới hiện nay.
Điều đó cũng giúp định hướng tư duy của các chủ thể khi tham gia vào
các quan hệ kinh tế có phát sinh tranh chấp các phương thức giải quyết
tranh chấp tối ưu trong đó có trọng tài. Theo đánh giá của Tổng thư ký
Tòa án trọng tài quốc tế thì trọng tài được coi là lựa chọn có nhiều ưu thế
nổi bật là tính liên tục, mềm dẻo, bí mật và phán quyết trọng tài có giá trị
chung thẩm…Với tính năng ưu việt của mình mà phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài được coi là lựa chọn được ưa chuộng của các
doanh nghiệp trên thế giới. Tuy nhiên, thực trạng Việt Nam lại cho thấy
các doanh nghiệp chưa thực sự "mặn mà" với việc đem tranh chấp của
mình ra giải quyết tại trọng tài, theo thống kê có hơn 95% tranh chấp
thương mại trong nước được đưa ra Tòa án có thẩm quyền giải quyết
theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS). Sở dĩ có tình trạng
trên thì bên cạnh nguyên nhân chủ quan từ phía các doanh nghiệp còn có
nguyên nhân xuất phát từ hệ thống pháp luật về trọng tài của Việt Nam,
đó là hệ thống chưa thực sự tạo ra một hành lang pháp lý an toàn, hiệu
quả để doanh nghiệp trong và ngoài nước tự tin khi lựa chọn trọng tài.

giải quyết tranh chấp của cộng đồng doanh nghiệp. Thực tiễn áp dụng
Pháp lệnh trong hơn 6 năm qua, tuy được đánh giá có nhiều điểm tiến bộ
cùng với sự xuất hiện của nhiều nhân tố mới như việc Việt Nam gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), việc ban hành Luật Thương mại

năm 2005, Luật Đầu tư năm 2005… nhưng một số quy định của Pháp
lệnh đã bộc lộ sự bất cập như thẩm quyền của trọng tài còn nhiều hạn
chế, đội ngũ trọng tài viên trong nước chưa phát triển, cơ chế hỗ trợ của
Tòa án đối với trọng tài chưa hiệu quả…
Xuất phát từ thực tế trên đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang thực
thi các cam kết khi gia nhập WTO thì việc ban hành Luật TTTM là một
tất yếu khách quan. Sự ra đời của Luật TTTM với nhiều quy định mới về
cơ bản phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế góp phần tạo niềm tin
cho các cá nhân, tổ chức khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài. Một trong những điểm mới đáng ghi nhận là Luật TTTM
chính thức quy định hai hình thức hoạt động trọng tài là trọng tài quy chế
và trọng tài vụ việc và có các quy định nhằm hỗ trợ cho cả hai hình thức
trọng tài có cơ hội phát triển ngang bằng nhau và khuyến khích các bên
tranh chấp sử dụng cả hai hình thức này. Tuy nhiên để các quy định này
không chỉ có hiệu lực trên giấy thì cần có sự đánh giá khách quan, chính
xác những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ban hành các quy định về
hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc để thực tiễn hóa
các quy định này vào đời sống kinh tế của các cá nhân, tổ chức. Với
mong muốn được luận bàn chuyên sâu, góp phần hoàn thiện pháp luật
trọng tài ở Việt Nam, tác giả chọn đề tài: "Giải quyết tranh chấp trong
thương mại bằng trọng tài vụ việc theo pháp luật Việt Nam".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Sự ra đời của Pháp lệnh Trọng tài thương mại (TTTM) năm 2003 đã
đánh dấu một bước tiến mới trong việc hình thành và hoàn thiện pháp
luật về trọng tài tại Việt Nam, đáp ứng nhu cầu lựa chọn phương thức

Trong thực tiễn và trong khoa học pháp lý đã có một số bài viết và một
số công trình nghiên cứu ở cấp độ khác nhau về phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài, có thể nêu một số công trình như: "Hoàn thiện

pháp luật về trọng tài thương mại của Việt Nam trong điều kiện hội nhập
quốc tế", Luận án tiến sĩ Luật học của Nguyễn Đình Thơ, Trường Đại

3

4


học Luật Hà Nội, 2007; "Pháp luật giải quyết tranh chấp bằng hình thức
trọng tài", Luận văn thạc sĩ luật học của Phạm Thị Phương Thủy, Trường
Đại học Luật Hà Nội, 2004; "Những vấn đề pháp lý về thỏa thuận trọng
tài và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ luật học của Trần Thị
Kim Liên, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006; "Trọng tài thương mại Việt
Nam trong tiến trình đổi mới", của Dương Văn Hậu, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, 1999; và một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành… Tuy
nhiên các công trình trên chỉ đề cập một cách khái quát về phương thức
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nói chung mà chưa có công trình nào
đề cập một cách chuyên sâu về phương thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài vụ việc. Từ đó có thể khẳng định đây là công trình đầu tiên ở
cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu chuyên biệt về vấn đề này.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích
Luận văn tập trung nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng hình
thức trọng tài vụ việc vào giải quyết tranh chấp thương mại tại Việt Nam,
đề xuất hướng hoàn thiện những quy định pháp luật về phương thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài nói chung và trọng tài vụ việc nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn đặt ra các nghiên cứu:
- Luận giải cơ sở lý luận của các quy định về phương thức giải quyết

tranh chấp thương mại bằng trọng tài vụ việc.
- Phân tích các quy định hiện hành của pháp luật về trọng tài vụ việc;
đánh giá thực trạng sử dụng phương thức trọng tài vụ việc trong thực tiễn
giải quyết các tranh chấp thương mại tại Việt Nam từ đó chỉ ra các khó
khăn, vướng mắc đang và sẽ gặp phải và các nguyên nhân liên quan đến
việc sử dụng trọng tài vụ việc giải quyết tranh chấp.

trọng tài nói chung và trọng tài vụ việc nói riêng nhằm lựa chọn những
kinh nghiệp hay, phù hợp cho việc áp dụng vào Việt Nam.
- Đưa ra những giải pháp nhằm thực tiễn hóa một cách hiệu quả các
quy định của pháp luật nhằm khuyến khích các bên tranh chấp sử dụng
phương thức trọng tài nói chung và trọng tài vụ việc nói riêng khi cần
giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực thương mại.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm những quy định pháp luật về
các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài, kinh
nghiệm quốc tế và đi sâu nghiên cứu phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại bằng trọng tài vụ việc theo pháp luật Việt Nam.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Để đạt được các mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá
trình nghiên cứu luận văn sử dụng phương pháp luận nghiên cứu khoa
học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác
như phương pháp bình luận, diễn giải, so sánh, tổng hợp, phân tích…
6. Những kết quả nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật về phương thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc, luận văn có những đóng góp mới
sau đây:
Thứ nhất: Luận văn giải quyết những vấn đề lý luận về tranh chấp
trong hoạt động thương mại và các hình thức giải quyết tranh chấp,

nghiên cứu một cách khái quát về phương thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài vụ việc với những phân tích về đặc điểm của trọng tài vụ
việc, ưu và nhược điểm của trọng tài vụ việc và khi nào thì nên dùng
trọng tài vụ việc để giải quyết tranh chấp.

- Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về việc áp
dụng và điều chỉnh pháp luật phương thức giải quyết tranh chấp bằng

Thứ hai: Luận văn đã phân tích một cách sâu sắc những quy định
pháp luật hiện hành về trọng tài vụ việc, bắt đầu từ việc đánh giá khái
quát hiệu quả của pháp luật đối với hoạt động trọng tài và trọng tài vụ
việc, các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc, thẩm

5

6


quyền của trọng tài vụ việc và thủ tục của trọng tài vụ việc. Bên cạnh đó,
luận văn còn phân tích chi tiết thực trạng sử dụng trọng tài vụ việc trong
giải quyết tranh chấp tại Việt Nam, các bất cập và các nguyên nhân cụ
thể của các bất cập đó.

Thứ nhất, là những bất đồng, xung đột về lợi ích kinh tế giữa các chủ
thể có liên quan đến lĩnh vực hợp đồng thương mại;

Thứ ba: Luận văn bước đầu đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng phương thức trọng tài vụ việc nhằm giải quyết các
tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực thương mại bao gồm những giải pháp
về mặt cơ chế, chính sách, pháp luật; các giải pháp từ phía các trọng tài

viên, từ phía doanh nghiệp, từ phía tòa án và cơ quan thi hành án…

Thứ ba, theo quy định pháp luật những tranh chấp này thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan tài phán kinh tế (Tòa án hoặc trọng tài).

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp trong thương
mại bằng trọng tài vụ việc.
Chương 2: Pháp luật và thực trạng giải quyết tranh chấp trong
thương mại bằng trọng tài vụ việc tại Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng trọng
tài vụ việc giải quyết tranh chấp trong thương mại tại Việt Nam.
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRONG THƢƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI VÀ TRỌNG TÀI VỤ VIỆC
1.1. Tranh chấp trong thƣơng mại và các hình thức giải quyết
tranh chấp
1.1.1. Khái niệm tranh chấp trong thương mại

Nội dung khái niệm tranh chấp trong thương mại bao hàm những nội dung:

Thứ hai, là tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực hợp đồng thương mại
hoặc các hoạt động kinh tế khác

1.1.2. Các hình thức giải quyết tranh chấp
- Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp, trong đó, hai
bên tranh chấp tự mình đàm phán, thỏa thuận về các giải pháp nhằm dàn
xếp, giải quyết ổn thỏa tranh chấp phát sinh giữa họ mà không có sự can

thiệp, giúp đỡ của bên thứ ba dưới bất kỳ hình thức và mức độ nào. Thương
lượng là phương thức giải quyết tranh chấp xuất hiện sớm nhất, thông
dụng và phổ biến nhất được các bên áp dụng rộng rãi để giải quyết mọi
tranh chấp phát sinh trong đời sống đặc biệt là trong hoạt động thương mại.
- Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp, trong đó, hai bên
tranh chấp nhờ bên thứ ba giúp đỡ để họ gặp gỡ, thảo luận và thỏa thuận
về các giải pháp nhằm dàn xếp, giải quyết ổn thỏa tranh chấp phát sinh.
- Xét xử của tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp, trong đó,
một bên tranh chấp có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp mà
không cần có sự đồng ý, thỏa thuận của bên kia. Tòa án, cụ thể là thẩm
phán/hội đồng xét xử, thụ lý và giải quyết tranh chấp theo đúng quy định
của pháp luật, bản án do tòa án tuyên có hiệu lực bắt buộc thi hành đối
với các bên tranh chấp và với mọi cá nhân, tổ chức có liên quan.

Tranh chấp trong thương mại là những bất đồng, xung đột về lợi ích
kinh tế giữa các chủ thể có liên quan đến lĩnh vực hợp đồng thương mại
hoặc các hoạt động kinh tế khác mà theo quy định pháp luật là tranh
chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan tài phán kinh tế.

- Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp, trong đó, bên trung
gian thứ ba (trọng tài viên) do các bên lựa chọn sẽ đưa ra một quyết định
sau khi hai bên tranh chấp đã có cơ hội bình đẳng để trình bày các vấn đề
liên quan đến tranh chấp. Nếu quá trình trọng tài bảo đảm nguyên tắc tự
nguyện, công bằng thì quyết định của trọng tài viên có hiệu lực bắt buộc thi
hành đối với các bên. Khoản 1, Điều 3, Luật TTTM năm 2010 quy định:

7

8


Tranh chấp trong thương mại, có thể được hiểu như sau:


"Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên
thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này".
1.1.3. Hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
i) Đặc điểm của trọng tài thương mại
Thứ nhất, tính chung thẩm và hiệu lực của quyết định trọng tài đối
với việc giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp bí mật.
Thứ ba, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp liên tục.
Thứ tư, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo,
nhanh chóng, linh hoạt cho các bên.
Thứ năm, tiết kiệm thời gian
Thứ sáu, duy trì được quan hệ đối tác
Thứ bảy, trọng tài cho phép các bên sử dụng được kinh nghiệm của
các chuyên gia
Thứ tám, tuy là giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài - một tổ
chức phi chính phủ, nhưng được hỗ trợ, bảo đảm về pháp lý của Tòa án.
(ii) Các hình thức tổ chức trọng tài thương mại
Trọng tài vụ việc
Trong trọng tài vụ việc, các bên tự chịu trách nhiệm thành lập hội
đồng trọng tài để giải quyết tranh chấp và phải quy định các quy tắc sẽ
điều chỉnh cách thức tiến hành tố tụng trọng tài. Khi gặp khó khăn, đôi
khi các bên có thể nhờ một tòa án quốc gia có thẩm quyền can thiệp. Bởi
các bên tự tiến hành trọng tài vụ việc nên họ phải thỏa thuận trực tiếp vấn
đề thù lao và chi phí với trọng tài viên.
Trọng tài quy chế
Trong trọng tài quy chế, các bên nhờ một trung tâm trọng tài hoặc
một tổ chức trọng tài quy chế giám sát tố tụng theo quy tắc tố tụng trọng

tài của tổ chức đó.
iii) Tố tụng trọng tài thương mại

tắc tố tụng riêng mà họ cho là có thể phù hợp với diễn biến và sự việc
của vụ tranh chấp, trong khi đó các bên trong trọng tài quy chế phải
tiến hành trọng tài theo các trình tự của tổ chức trọng tài mà các bên
lựa chọn.
1.2. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc
1.2.1. Trọng tài vụ việc (Trọng tài ad-hoc) là gì?
"Trọng tài vụ việc có nghĩa là trọng tài không được tiến hành theo
quy tắc của một tổ chức trọng tài thường trực. Do các bên không bắt
buộc phải tiến hành trọng tài theo quy tắc của một tổ chức trọng tài
thường trực, họ có thể tự do quy định quy tắc tố tụng riêng. Nói cách
khác, trọng tài vụ việc là trọng tài tự tiến hành (do it yourself
arbitration)". Theo Khoản 7, Điều 3, Luật TTTM năm 2010 thì ‘Trọng tài
vụ việc là hình thức giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật này và
trình tự, thủ tục do các bên thỏa thuận".
1.2.2. Đặc điểm của trọng tài vụ việc
- Trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự
chấm dứt hoạt động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp.
- Trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy
điều hành (vì chỉ được thành lập để giải quyết vụ tranh chấp theo sự thỏa
thuận của các bên) và không có danh sách trọng tài viên riêng.
- Trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình.
1.2.3. Trọng tài vụ việc - ưu điểm và nhược điểm
i) Ưu điểm:
Một là, ưu điểm cơ bản của hình thức Trọng tài vụ việc đó là quyền
tự định đoạt của các bên là rất lớn.
Hai là, việc tiến hành Trọng tài vụ việc có chi phí thấp và thời gian
giải quyết nhanh.


Trọng tài quy chế và trọng tài vụ việc là những phương pháp khác
biệt của quá trình tố tụng. Các bên trong trọng tài vụ việc thiết lập quy

Ngoài ra, đối với trọng tài vụ việc, các bên có thể thỏa thuận bỏ qua
một số thủ tục tố tụng không cần thiết để rút ngắn thời gian giải quyết vụ
tranh chấp.

9

10


ii) Nhược điểm:
Nhược điểm lớn nhất của trọng tài vụ việc (có thể là yếu tố bất lợi
nghiêm trọng) đó là phải phụ thuộc hoàn toàn vào thiện chí của các bên.
Tiếp theo trong trọng tài vụ việc, không có tổ chức nào giám sát việc
tiến hành trọng tài và giám sát các Trọng tài viên.
1.2.4. Khi nào nên giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc
- Doanh nghiệp đó hoặc tranh chấp đó không cần đến một tổ chức
đứng ra giải quyết;
- Doanh nghiệp có chuyên gia tư vấn pháp lý thông thái;
- Các tranh chấp nhỏ, ít phức tạp;
- Doanh nghiệp muốn tiết kiệm chi phí.
1.3. Kinh nghiệm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài của một
số nƣớc
1.3.1. Trọng tài là một loại cơ quan tài phán tư
Tố tụng trọng tài thể hiện rõ nhất tính chất tài phán tư của hình thức
giải quyết tranh chấp này
1.3.2. Thẩm quyền của trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp

phát sinh từ hoạt động thương mại
Theo xu hướng phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới thì trọng
tài được thành lập chủ yếu để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt
động thương mại. Tùy theo quan điểm của mỗi nước, mà thẩm quyền của
trọng tài có thể được quy định khác nhau, nhưng có một điểm chung nhất
là pháp luật trọng tài các nước đều thừa nhận trọng tài là một phương
thức phổ biến và hữu hiệu trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh
trong hoạt động thương mại.

1.3.4. Về sự giám sát của tòa án đối với trọng tài trong quá trình
giải quyết vụ việc
Do bản chất phi chính phủ của mình, nên trọng tài không thể có tính
quyền lực nhà nước để thực hiện một số công việc phát sinh trong quá
trình giải quyết tranh chấp và vì vậy, rất cần sự giúp đỡ của Nhà nước,
nhất là của cơ quan tòa án.
Kết luận chương 1
Kết quả nghiên cứu của Chương 1 cho phép đưa ra một số nhận xét sau:
Một là, tranh chấp là hiện tượng bình thường trong thương mại, với sự
phát triển của quan hệ thương mại, tranh chấp ngày càng đa dạng, phong phú
và phức tạp. Nhận thức rõ điều này cho nên từ xa xưa, các nhà kinh doanh
đã tìm cách hóa giải những tranh chấp phát sinh bằng nhiều phương thức khác
nhau nhằm giữ vững, củng cố và phát triển quan hệ đã thiết lập giữa các bên.
Hai là, giải quyết các tranh chấp phát sinh trong thương mại là yêu
cầu tất yếu, khách quan với các phương thức từ đơn giản đến phức tạp, từ
tự giải quyết với nhau đến nhờ bên thứ ba giải quyết đó là: thương lượng,
hòa giải, trọng tài và tòa án.
Ba là, giải quyết tranh trong thương mại bằng trọng tài là phương
thức được các doanh nhân trên thế giới chấp nhận và ưu tiên lựa chọn,
các hình thức ngày càng phong phú và được hoàn thiện hơn. Trong xu
thế hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nhân Việt Nam không thể đứng

ngoài và không thể mãi ưu tiên chọn tòa án, khi hệ thống này cũng đang
bị quá tải bởi các vụ án hình sự, dân sự, hành chính.

Thỏa thuận trọng tài thể hiện sự nhất trí của các bên cùng đưa tranh
chấp ra trọng tài giải quyết theo một quy tắc của tổ chức trọng tài nhất
định đưa ra. Đây là cơ sở cho các bên tiến hành giải quyết bằng trọng tài
cũng như giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình trọng tài.

Bốn là, ở Việt Nam, phương thức giải quyết tranh chấp trong thương
mại cũng luôn được hoàn thiện và không ngừng phát triển. Nhà nước cũng
luôn chú trọng hoàn thiện điều chỉnh pháp luật giải quyết tranh chấp
trong thương mại với các phương thức: Trọng tài kinh tế (nhà nước),
Trọng tài kinh tế (phi chính phủ), TTTM với các hình thức điều chỉnh
pháp luật ngày càng cao hơn, hoàn chỉnh hơn (từ Quyết định của Thủ
tướng, Nghị định của chính phủ, Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội đến Luật TTTM năm 2010.)

11

12

1.3.3. Về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài


Năm là, trọng tài vụ việc đã được pháp luật nước ta thừa nhận nhưng
chưa được các bên tranh chấp lựa chọn. Trước thực trạng đó đặt cho các
nhà luật học nhiệm vụ tìm ra nguyên nhân và có giải pháp nhằm đưa quy
định pháp luật vào cuộc sống.
Chƣơng 2
PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

TRONG THƢƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI VỤ VIỆC
TẠI VIỆT NAM
2.1. Pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp trong thƣơng
mại bằng trọng tài
2.1.1. Lịch sử phát triển và hình thành pháp luật về trọng tài
thương mại
i) Lịch sử phát triển của trọng tài trong giải quyết tranh chấp
thương mại trên thế giới.
Người ta không biết chính xác phương thức trọng tài bắt đầu xuất hiện
từ khi nào, nhưng có thể khẳng định đây chính là hình thức tiền thân của
việc hình thành các tòa án sau này. Tòa Trọng tài là một trong những phương
thức cổ xưa nhất để giải quyết bất hòa giữa người với người, giữa quốc
gia với quốc gia. Người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã biết sử dụng phương
thức này để giải quyết tranh chấp. Quy định sơ khai về trọng tài trong
luật mua bán hàng hóa cho phép các lái buôn được tự phân xử bất hòa
của mình không cần có sự can thiệp của Nhà nước. Về sau Luật La Mã
cho phép mở rộng phạm vi tranh chấp, không chỉ trong biên giới lãnh
thổ, mà còn ở những nước La Mã có trao đổi hàng hóa, có nghĩa là trải
rộng trên hầu khắp lục địa Châu Âu.
ii) Lịch sử phát triển của trọng tài trong giải quyết tranh chấp
thương mại tại Việt Nam.
Ở Việt Nam, trọng tài đã xuất hiện từ thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa
vào những năm đầu của thập kỷ 60 của thế kỷ XX dưới tên gọi là "trọng
tài kinh tế".
13

Theo quy luật phát triển và cùng với đòi hỏi của nền kinh tế đất
nước, đã có nhiều văn bản pháp luật về TTTM được ban hành nhằm tạo
thêm một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại có hiệu quả.
Văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất hiện nay là Luật TTTM năm 2010

được Quốc hội ban hành ngày 17/6/2010 và được đánh giá là "đã tiến gần
đến các chuẩn mực quốc tế".
2.1.2. Pháp luật hiện hành về Trọng tài thương mại và trọng tài vụ việc
i) Pháp luật hiện hành về trọng tài thương mại
Qua 5 năm thực hiện, Pháp lệnh TTTM năm 2003 đã thể hiện những
ưu điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, ý nghĩa về mặt điều chỉnh pháp luật.
Thứ hai, về mô hình, cơ cấu tổ chức của Trọng tài.
Thứ ba, về phạm vi thẩm quyền của Trọng tài.
Thứ tư, về thỏa thuận trọng tài
Thứ năm, Pháp lệnh TTTM năm 2003 đã xác định rõ những nguyên
tắc quan trọng nhất của tố tụng trọng tài.
Thứ sáu, Pháp lệnh năm 2003 đã quy định chặt chẽ về các giai đoạn
của tố tụng trọng tài.
Thứ bảy, Pháp lệnh năm 2003 đã quy định sự hỗ trợ của Nhà nước
mà cụ thể là của Tòa án và cơ quan thi hành án dân sự đối với các bên
trong quá trình giải quyết tranh chấp tại TTTM.
ii) Pháp luật hiện hành về trọng tài vụ việc
Trong lịch sử phát triển của trọng tài, thì hình thức trọng tài vụ việc
ra đời trước trọng tài thường trực.
Trong pháp luật Việt Nam, Nghị định 116/CP trước đây chỉ quy định
một loại trọng tài duy nhất là trọng tài thường trực (Trung tâm trọng tài).
Trọng tài vụ việc tuy có được đề cập trong một số văn bản pháp luật
(Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 và các văn bản hướng dẫn) nhưng lại
không được quy định cụ thể nên không thể áp dụng trên thực tế.
Pháp lệnh TTTM năm 2003 đã chính thức thừa nhận và tạo cơ sở pháp
lý cho việc thành lập và hoạt động của trọng tài vụ việc ở Việt Nam.
14



Luật TTTM năm 2010 quy định hai hình thức hoạt động trọng tài là
trọng tài quy chế và trọng tài vụ việc. Như vậy, từ nay nếu các bên tranh
chấp lựa chọn trọng tài vụ việc thì họ có thể thỏa thuận chọn áp dụng các
quy tắc tố tụng của bất kỳ trung tâm trọng tài nào kể cả trong nước và
quốc tế.
2.1.3. Những điểm mới của Luật Trọng tài thương mại năm 2010
So với Pháp lệnh TTTM, Luật TTTM có những điểm mới sau.
Thứ nhất, mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của TTTM.
Thứ hai, khắc phục sự không rõ ràng của Pháp lệnh TTTM năm
2003 về các tình huống có thể làm vô hiệu thoả thuận trọng tài.
Thứ ba, không yêu cầu Trọng tài viên phải có quốc tịch Việt Nam.
Điều đó có nghĩa là người nước ngoài cũng có thể được chỉ định làm
trọng tài viên ở Việt Nam nếu các bên tranh chấp hoặc tổ chức trọng tài
tín nhiệm họ.
Thứ tư, cho phép các Trung tâm trọng tài được ban hành quy tắc tố
tụng trọng tài phù hợp với quy định của Luật và đảm bảo đặc thù của mỗi
Trung tâm để tăng thêm tính hấp dẫn đối với các bên tranh chấp.
Thứ năm, cho phép các tổ chức trọng tài nước ngoài được mở chi
nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt
Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Thứ sáu, nâng cao vị thế của Trọng tài thông qua việc cho phép Hội
đồng Trọng tài được thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng, áp dụng
một số biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 47, 48, 49 và 50).
Thứ bảy, hạn chế nguy cơ phán quyết của Trọng tài bị Tòa án tuyên
hủy bởi quy định không phù hợp của Pháp lệnh TTTM như quy định về
quyền của một bên được gửi đơn lên Toà án yêu cầu huỷ quyết định
trọng tài nếu "không đồng ý với quyết định trọng tài", bởi vì các quy định
này của Pháp lệnh đã làm cho tố tụng trọng tài trở nên rất rủi ro và làm
mất đi tính chung thẩm của phán quyết trọng tài mà pháp luật của hầu hết
các nước đều công nhận.

15

Thứ tám, Luật TTTM là đã tiếp thu nguyên tắc cấm hành vi mâu
thuẫn trong tố tụng là nguyên tắc rất quan trọng đã hình thành lâu đời
trong pháp luật tố tụng của các nước phát triển.
Thứ chín, thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa Trọng tài với Toà án
trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ tranh chấp của các bên.
Thứ mười, quy định phù hợp hơn về thủ tục Tòa án xét đơn yêu cầu
hủy phán quyết trọng tài.
2.1.4. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương
mại và trọng tài vụ việc
(i) Nguyên tắc "Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận của các
bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội"
(ii) Nguyên tắc "Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và
tuân theo quy định của pháp luật"
(iii) Nguyên tắc "Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của mình"
(iv) Nguyên tắc "Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến
hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác"
(v) Nguyên tắc "Phán quyết trọng tài là chung thẩm"
2.1.5 Thẩm quyền của trọng tài thƣơng mại
(i) Những tranh chấp thuộc phạm vi giải quyết của trọng tài thương mại
(ii) Các bên phát sinh tranh chấp thuộc phạm vi chủ thể được giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
(iii) Thỏa thuận trọng tài - Căn cứ quan trọng để xác định thẩm
quyền của trọng tài
2.1.6 Thủ tục tố tụng trọng tài vụ việc
(i) Nguyên đơn nộp Đơn kiện
(ii) Bị đơn nộp Bản Tự bảo vệ

(iii) Thành lập Hội đồng trọng tài
(iv) Hội đồng trọng tài nghiên cứu hồ sơ, xác minh sự việc
16


(v) Phiên họp để giải quyết tranh chấp
(vi) Phán quyết trọng tài
2.2. Thực trạng giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài
vụ việc
2.2.1. Hoạt động của trọng tài vụ việc
Hiện nay, số lượng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài còn rất khiêm
tốn ở nước ta. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài chưa phải là một kênh
giảm thiểu gánh nặng của Tòa án. "Theo thống kê, năm 2007 Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội thụ lý gần 9000 vụ án, trong đó có khoảng
300 vụ án kinh tế và Tòa kinh tế thành phố Hồ Chí Minh phải xử gần
42.000 vụ án các loại, trong đó có 1000 vụ án kinh tế. Tính trung bình
mỗi thẩm phán ở Tòa kinh tế Hà Nội phải xử trên 30 vụ một năm và mỗi
thẩm phán ở Tòa kinh tế thành phố Hồ Chí Minh xét xử trên 50 vụ một
năm, trong khi đó, mỗi trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài quốc tế
Việt Nam chỉ xử 0,25 vụ một năm".
Số vụ tranh chấp thương mại được giải quyết bằng trọng tài nói chung
và trọng tài quy chế đã là rất khiêm tốn, thì số vụ tranh chấp được giải
quyết bằng trọng tài vụ việc ở Việt Nam tính đến thời điểm hiện này chỉ
là 01 vụ. Trong khi pháp luật khuyến khích doanh nghiệp sử dụng cả hai
hình thức trọng tài quy chế và trọng tài vụ việc để giải quyết tranh chấp
nhưng thực tế so với trọng tài quy chế, trọng tài vụ việc ít hoặc không
được sử dụng đến tại Việt Nam.

tài vụ việc như một trong những phương thức giải quyết các tranh chấp
ưu thế so với các phương thức khác.

(ii) Nguyên nhân từ phía đội ngũ trọng tài
Trong những năm qua, chưa có sự gia tăng đột biến về số lượng
cũng như chất lượng đội ngũ trọng tài viên. Sau khi có Pháp lệnh TTTM
năm 2003. Trình độ trọng tài viên, chất lượng dịch vụ trọng tài nói chung
cũng còn nhiều vấn đề phải bàn: Thiếu trình độ ngoại ngữ, kiến thức
pháp luật, kỹ năng hành nghề. Số lượng những người có đủ điều kiện để
trở thành trọng tài viên theo Pháp lệnh TTTM năm 2003 thì không ít, tuy
nhiên, người hành nghề trọng tài viên chuyên nghiệp lại không nhiều.
(iii) Nguyên nhân từ hạn chế của pháp luật
Pháp lệnh TTTM năm 2003 đã được thay thế bằng Luật TTTM năm
2010 với những tiến bộ được nhận định là đã "tiến gần đến các chuẩn
mực quốc tế về trọng tài". Tuy nhiên, theo nhận định của cá nhân, pháp
lệnh TTTM năm 2003 và Luật TTTM năm 2010 chưa có nhiều quy định
nhằm hỗ trợ hoạt động của trọng tài vụ việc phát triển mà đa phần các
quy định dành cho trọng tài quy chế hoặc là trọng tài nói chung.
Kết luận chương 2
Từ kết quả nghiên cứu của Chương 2, có thể đưa ra một số nhận xét sau:

Hiểu biết của các doanh nghiệp, thương nhân, cũng như người dân
về vai trò của trọng tài vụ việc còn chưa đầy đủ. Nhìn chung, trọng tài vụ
việc hoạt động chưa hiệu quả vì trọng tài nói chung và trọng tài vụ việc
tuy không phải là một chế định quá mới mẻ nhưng doanh nghiệp của
Việt Nam chưa có thói quen, tâm lý chưa có niềm tin rằng các phán
quyết của trọng tài vụ việc sẽ được thực thi. Do vậy, chưa sử dụng trọng

Thứ nhất, pháp luật Việt Nam về TTTM nói chung và trọng tài vụ
việc nói riêng đã phát triển tương đối đầy đủ, giải quyết khá hiệu quả các
tranh chấp phát sinh trong thực tiễn hoạt động kinh doanh, thương mại.
Trước năm 2010, văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất về
TTTM là Pháp lệnh TTTM năm 2003. Tuy còn một số hạn chế nhất định

nhưng Pháp lệnh đã trong một thời gian tương đối dài phát huy vai trò
tích cực làm cơ sở để giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại
bằng phương thức trọng tài tại Việt Nam. Năm 2010, Luật TTTM ra đời
với những tiến bộ được nhận định là "đã tiến gần đến các chuẩn mực
trọng tài quốc tế về trọng tài" đang được đánh giá và hy vọng sẽ có
những đóng góp quan trọng trong hoạt động của TTTM.

17

18

2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động trọng tài
vụ việc
(i) Nguyên nhân từ phía các doanh nghiệp


Thứ hai, trong những năm trở lại đây, tại Việt Nam, các tranh chấp
thương mại được giải quyết bằng trọng tài đã tăng lên về cả số lượng và
chất lượng. Tuy nhiên, theo nhận định của các chuyên gia, số lượng và
chất lượng các vụ tranh chấp được giải quyết bằng TTTM, đặc biệt là
trọng tài vụ việc chưa nhiều so với các hình thức giải quyết tranh chấp
khác (ví dụ như toà án), so với kỳ vọng và so với thực tiễn các vụ tranh
chấp phát sinh trong thực tế. Thực trạng này do rất nhiều nguyên nhân
khác nhau xuất phát từ các quy định của pháp luật, xuất phát từ tâm lý
của các doanh nghiệp, từ năng lực của đội ngũ trọng tài…

Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế
và thực thi các cam kết khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới thì
cũng phát sinh rất nhiều những tranh chấp thương mại không chỉ dừng lại
ở sự gia tăng về số lượng mà độ phức tạp của các tranh chấp cũng ngày

một nâng cao. Mặt khác, theo thống kê của Phòng thương mại và công
nghiệp Việt Nam, hiện cả nước có hơn 300.000 doanh nghiệp, đặc biệt là
số doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng gia tăng và đóng góp vai trò ngày
càng quan trọng vào đời sống kinh tế của đất nước. Theo đó, số các vụ
việc tranh chấp sẽ ngày càng nhiều hơn, nhu cầu giải quyết các tranh
chấp linh hoạt, nhanh chóng được đặt ra ngày càng bức xúc hơn.

Chƣơng 3

Trọng tài vụ việc với các ưu thế nổi bật so với các phương thức giải
quyết tranh chấp khác sẽ thực sự tạo được sức hút không chỉ đối với các
cá nhân, tổ chức trong nước mà còn với cộng đồng doanh nghiệp nước
ngoài khi các quy định về pháp luật trọng tài nói chung và pháp luật về
trọng tài nói riêng được thực thi hiệu quả trong đời sống kinh tế.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG HÌNH THỨC TRỌNG TÀI VỤ VIỆC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP TRONG THƢƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng hình thức trọng
tài vụ việc nhằm giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại tại Việt Nam
3.1.1. Xuất phát từ thực tiễn sử dụng trọng tài vụ việc trong giải
quyết các tranh chấp thương mại tại Việt Nam

3.2. Những yêu cầu đặt ra đối với việc nâng cao hiệu quả sử
dụng hình thức trọng tài vụ việc giải quyết tranh chấp thƣơng mại
tại Việt Nam

.Theo kết quả khảo sát, có 84% doanh nghiệp được hỏi chưa bao giờ
đưa tranh chấp kinh doanh thương mại ra giải quyết tại trung tâm trọng
tài thương, số doanh nghiệp đã từng lựa chọn trọng tài làm phương thức

giải quyết tranh chấp chỉ chiếm 16% số doanh nghiệp được khảo sát.

Thứ nhất: Quá trình thực thi pháp luật TTTM phải thể chế hóa kịp
thời và đầy đủ đường lối, chính sách của Đảng về xây dựng và phát triển đất
nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập sâu rộng vào nền kinh
tế thế giới, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trong tổng số các vụ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài tại
Việt Nam thì 100% số các vụ này được giải quyết tại các Trung tâm
trọng tài (trọng tài quy chế). Theo các báo cáo thì chưa có vụ tranh chấp
nào mà các bên chọn trọng tài vụ việc Việt Nam để giải quyết.

Thứ hai: Quá trình thực tiễn hóa pháp luật TTTM nói chung và trọng
tài vụ việc nói riêng phải phục vụ đắc lực cho việc thực hiện các cam kết
của Việt Nam khi trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới,
đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.

3.1.2. Xuất phát từ vị trí, vai trò của trọng tài vụ việc
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đang là một phương
thức giải quyết rất hiệu quả và được ưa chuộng trên thế giới nhưng tại
Việt Nam trọng tài và đặc biệt là trọng tài vụ việc chưa thực sự khẳng
định được vị trí của mình trong các phương thức giải quyết tranh chấp.
19

Thứ ba: Hiệu quả quá trình thực thi pháp luật TTTM nói chung và
trọng tài vụ việc nói riêng làm cho phương thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài thật sự có hiệu quả.
Thứ tư: Đảm bảo tính đồng bộ của cả hệ thống pháp luật. Hoạt động
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài do tính chất đặc thù của nó có liên

20


quan đến rất nhiều lĩnh vực khác nhau do đó việc hoàn thiện pháp luật
TTTM phải gắn với việc hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan
đảm bảo tính đồng bộ của cả hệ thống pháp luật.
3.3. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng hình thức trọng
tài vụ việc giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại tại Việt Nam
3.3.1. Giải pháp về mặt cơ chế, chính sách và pháp luật
Thứ nhất, cần có cơ chế hỗ trợ pháp lý từ phía Nhà nước đối với
TTTM nói chung và trọng tài vụ việc nói riêng.
Thứ hai, để triển khai tốt thi hành Luật TTTM năm 2010.
Thứ ba, cần có các biện pháp giáo dục, tuyên truyền cho nhân dân hiểu
biết vai trò và ý nghĩa của tổ chức xã hội dân sự đối với quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường đã hội nhập.
Thứ tư, tăng cường sự giám sát của Quốc hội đối với việc hủy quyết
định trọng tài, công nhận và thi hành phán quyết trọng tài sao cho việc
hủy quyết định của trọng tài là vô cùng hãn hữu, chỉ trong các trường
hợp đặc biệt và rõ ràng theo quy định của pháp luật.
3.3.2. Giải pháp về phía các trọng tài viên
Thứ nhất, cần tăng cường năng lực đội ngũ Trọng tài viên
Thứ hai, cần tăng cường và nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho
Trọng tài viên, nâng cao uy tín cá nhân Trọng tài viên cũng như uy tín
của Trung tâm TTTM.
Thứ ba, cần thành lập Hiệp hội trọng tài để đại diện, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của trọng tài viên, giám sát việc tuân theo quy tắc đạo
đức nghề nghiệp, tổ chức bồi dưỡng về kiến thức và kỹ năng hành nghề
cho trọng tài viên; trao đổi, tổng kết kinh nghiệm hoạt động trọng tài
trong cả nước; thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về trọng tài.
3.3.3. Các giải pháp về phía tòa án và cơ quan thi hành án


Thứ hai, tòa án hiểu việc hỗ trợ trọng tài trong việc giải quyết tranh
chấp là đương nhiên chứ không phải là sự can thiệp của tòa án vào giải
quyết tranh chấp của trọng tài.
Thứ ba, hoàn thiện cơ chế thi hành quyết định trọng tài
3.3.4. Giải pháp về phía các doanh nghiệp
Khi hội nhập kinh tế quốc tế thì các tranh chấp thương mại có yếu tố
nước ngoài ngày càng nhiều và phức tạp, doanh nghiệp Việt Nam cần
phải tiếp cận với thức trọng tài như là điều khoản cần có trong luật chơi
trong nước và quốc tế.
Thiết nghĩ, việc các doanh nghiệp Việt Nam cần nhận thức lại
phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại bằng trọng tài
và cần nhận thức một cách đầy đủ những ưu thế khi lựa chọn hình thức
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, thời gian giải quyết tranh chấp
nhanh, ít tốn kém chi phí, hiệu lực quyết định trọng tài là chung thẩm rút
ngắn được các trình tự giải quyết hai cấp, giữ được bí mật kinh doanh,
được lựa chọn người có chuyên môn tương ứng với vụ tranh chấp để giải
quyết tranh chấp, quyết định trọng tài được cơ quan thi hành án thi hành
theo Luật thi hành án dân sự… Đồng thời trong quá trình hội nhập, các
doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với nhiều vụ tranh chấp thương
mại, đầu tư, nội dung tranh chấp ngày càng phức tạp mà các nước trên
thế giới đều chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là
hiệu quả và hợp lý nhất.
3.3.5. Tăng cường hợp tác quốc tế
Tăng cường quan hệ giao lưu, hợp tác quốc tế về trọng tài là một
biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động của trọng tài, đặc
biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Kết luận chương 3
Từ kết quả nghiên cứu của Chương 3 có thể có một số nhận xét sau:


Thứ nhất, xây dựng được cơ chế phối hợp chặt chẽ, thường xuyên
với Toà án, cơ quan thi hành án, các Trung tâm Trọng tài nước ngoài.

Thứ nhất, việc nâng cao hiệu quả sử dụng trọng tài vụ việc nhằm giải
quyết các tranh chấp thương mại là hết sức cần thiết trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế và nền kinh tế trong nước đang phát triển như hiện nay.

21

22


Thứ hai, Luật TTTM năm 2010 đã có hiệu lực từ ngày 1/1/2011 với
mục tiêu quan trọng nhất là tạo một cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa
án thuận lợi cho các bên đặc biệt là các bên tham gia các hoạt động thương
mại, đầu tư thì việc thực tiễn hóa các quy định của Luật sao cho đạt hiệu quả
trên thực tế, góp phần quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp kinh
doanh thương mại đang là một thách thức đặt ra trong quá trình thực thi
pháp luật. Yêu cầu đối với việc nâng cao hiệu quả sử dụng trọng tài nhằm
giải quyết các tranh chấp thương mại cần bám sát các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước; thực tiễn hoá các cam kết của Việt Nam trong WTO
và các cam kết quốc tế và đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật...
Thứ ba, các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TTTM nói
chung và trọng tài vụ việc nói riêng được bàn đến rất đa dạng và tương đối
đồng bộ thông qua việc đảm bảo hiệu quả thực thi Luật Trọng tài năm 2010.

KẾT LUẬN
Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu có nhiều biến động, những đợt
khủng hoảng kinh tế vừa qua đã có ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế
Việt Nam. Do vậy, bảo đảm an toàn cho hoạt động kinh doanh của các

ngân hàng thương mại là một trong những nội dung trọng yếu của Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Đáp ứng xu thế hội nhập với rất nhiều
thách thức này, pháp luật của chúng ta đã điều chỉnh quan hệ bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự nói chung và bảo đảm tiền vay từ rất sớm, thiết
lập được một hệ thống các biện pháp bảo đảm tương đối đầy đủ, tạo hành
lang pháp lý cho các bên tham gia giao dịch thực hiện và tuân thủ. Tuy
nhiên, trước những đòi hỏi ngày các cao của nền kinh tế thị trường, pháp
luật Việt Nam về bảo đảm tiền vay đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập cần
nhanh chóng khắc phục. Sự tản mát, thiếu tính thống nhất, thiếu tính rõ ràng
trong các quy định, cứng nhắc trong cơ chế triển khai, đang làm cho hiệu lực
điều chỉnh của pháp luật về bảo đảm tiền vay suy giảm. Trình tự thủ tục
liên quan đến giao dịch bảo đảm còn mang nặng tính hành chính, quan
23

liêu, làm công tác xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ của các ngân hàng
gặp nhiều khó khăn dẫn đến tình trạng nợ quá hạn, nợ khó đòi tăng cao.
Thông qua đánh giá thực trạng xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất
động sản, tôi có nhận xét sau: Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản
là một giai đoạn của giao dịch bảo đảm bằng bất động sản, mục đích của xử
lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản là để thu hồi nợ cho các ngân
hàng thương mại. Hiện nay, xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản
chịu sự điều chỉnh của: Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở... và có rất
nhiều các văn bản riêng lẻ dưới luật như: Nghị định 163/2006/NĐ-CP, Nghị
định 83/2010/NĐ-CP... Các văn bản này chưa có sự đồng bộ. Do đó, những
khó khăn vướng mắc do pháp luật tạo ra cho bên tham gia giao dịch vẫn
chưa giảm. Thực trạng về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản trên
đã đặt ra nhu cầu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo
đảm tiền vay là bất động sản là tất yếu, khách quan và cần thiết. Việc hoàn
thiện các quy định của pháp luật dân sự, pháp luật đất đai và các văn bản có
liên quan trong lĩnh vực tài chính ngân hàng sẽ là tiền đề cho việc hoàn thiện

một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất tạo điều kiện tốt nhất cho các
hoạt động dân sự và các hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng.
Theo quan điểm cá nhân, tác giả cho rằng đây là một đề tài chuyên
sâu, việc nghiên cứu liên quan đến nhiều khía cạnh trong lĩnh vực pháp
lý cũng như cơ chế chính sách của Nhà nước về vấn đề xử lý tài sản đảm
bảo tiền vay là bất động sản. Do đó, đề tài đòi hỏi nhiều công sức và thời
gian để có thể nêu bật được hết nội dung của các vấn đề. Trong khuôn khổ
của một luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ có thể trình bài các vấn đề một cách khái
quát mà chưa có điều kiện giải quyết thấu đáo các nội dung đưa ra. Ngoài ra,
với thời gian nghiên cứu còn nhiều hạn chế, chắc chắn luận văn sẽ không
tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được các ý kiến phản
biện, đóng góp của các chuyên gia, các thầy cô và tất cả các bạn để đề tài
này được nghiên cứu chuyên sâu hơn. Bên cạnh đó, tác giả cũng hi vọng
rằng những ý kiến nêu ra trong luận văn này sẽ đóng góp một phần nào
đó vào việc hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm
tiền vay là bất động sản nói riêng và xử lý tài sản bảo đảm nói chung.
24



×