ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ NGỌC HÀ
CHỨNG MINH TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN HÌNH SỰ
Chuyên ngành
: Luật hình sự
Mã số
: 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn
Hà Nội – 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Vũ Ngọc Hà
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục đồ thị
MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG
CHỨNG MINH TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
8
1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra
8
1.1.1. Khái niệm hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra
8
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra
14
1.2. Nội dung hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra
17
1.2.1. Thu thập chứng cứ
17
1.2.2. Kiểm tra chứng cứ
22
1.2.3. Đánh giá chứng cứ
24
1.3. Ý nghĩa của hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra
27
Kết luận chương 1
31
Chƣơng 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
32
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình hình sự về đối tượng với giới hạn
chứng minh
32
2.1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về đối tượng chứng minh
32
2.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về giới hạn chứng minh
37
2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình hình sự về nghĩa vụ chứng minh 40
2.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình hình sự về thu thập và đánh giá
chứng cứ
46
2.3.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình hình sự về thu thập chứng cứ
46
2.3.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình hình sự về đánh giá chứng cứ
53
2.4. Quy định của pháp luật tố tụng hình hình sự về nguồn chứng cứ
57
Kết luận chương 2
64
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA
65
3.1. Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến
hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
65
3.1.1. Những kết quả đạt được
65
3.1.2. Những hạn chế
71
3.1.3. Nguyên nhân
78
3.1.3.1. Nguyên nhân từ hệ thống pháp luật tố tụng hình sự hiện hành
78
3.1.3.2. Nguyên nhân từ phía chủ thể có trách nhiệm chứng minh
82
3.1.3.3. Nguyên nhân từ phía chủ thể tham gia hoạt động chứng minh
84
3.1.3.4. Nguyên nhân khác
86
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động chứng minh trong giai
đoạn điều tra
87
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan
đến hoạt động chứng minh
88
3.2.2. Giải pháp đối với chủ thể có trách nhiệm chứng minh
93
3.2.3. Giải pháp đối với chủ thể tham gia hoạt động chứng minh
95
3.2.4. Giải pháp khác
96
Kết luận chương 3
99
KẾT LUẬN
100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phụ lục
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật Tố tụng hình sự
BLTTHS
Cơ quan điều tra
CQĐT
Tiến hành tố tụng
THTT
Tòa án
TA
Tòa án nhân dân
TAND
Viện kiểm sát
VKS
Viện kiểm sát nhân dân
VKSND
Vụ án hình sự
VAHS
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ
Đồ thị số 3.1: Số vụ án thụ lý, xét xử theo thủ tục sơ thẩm từ năm 2007 - 2012
......................................................................................................................... 67
Đồ thị số 3.2: TA sơ thẩm tuyên vô tội từ năm 2007 - 2012 .......................... 70
Đồ thị số 3.3: VKS trả hồ sơ cho CQĐT, TA trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ
sung từ năm 2007-2012 ................................................................................... 73
Đồ thị số 3.4: VKS đình chỉ vụ án từ năm 2007-2012 ................................... 75
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đấu tranh phòng và chống tội phạm là một vấn đề quan trọng trong xã
hội. Mục đích của việc đấu tranh phòng và chống tội phạm chính là mục đích
của tố tụng hình sự, là “chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện
chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội” [36]. Do đó, chứng minh
trong tố tụng hình sự là một vấn đề phức tạp, vừa mang tính lý luận, vừa
mang tính thực tiễn. Việc nhận thức đúng và đầy đủ lý luận về chứng minh có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án, bảo
đảm cho hoạt động của các cơ quan THTT trong các giai đoạn điều tra, truy
tố, xét xử được khánh quan, chính xác - thể hiện rõ mục đích của tố tụng hình
sự. Bởi vì, hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự có tính quyết định
trong việc xác định sự thật khách quan của VAHS. Hoạt động chứng minh
trong VAHS cần được giải quyết một cách kiên quyết, kịp thời, có hiệu quả
như Lênin đã chỉ rõ: “Tác dụng ngăn ngừa của hình phạt… hoàn toàn không
phải ở chỗ hình phạt đó phải nặng, mà ở chỗ đã phạm tội thì không thoát khỏi
bị trừng phạt. Điều quan trọng không phải ở chỗ đã phạm tội thì phải trừng
phạt nặng, mà là ở chỗ không tội phạm nào không bị phát hiện” [29, tr.508].
Mặt khác, giai đoạn điều tra VAHS là giai đoạn để chứng minh tội
phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, xác định tính chất và mức độ thiệt
hại do hành vi phạm tội gây ra, các vấn đề cần thiết khác. Kết quả điều tra là
cơ sở để VKS quyết định truy tố bị can trước TA hoặc quyết định đình chỉ vụ
án, đồng thời là cơ sở để TA xét xử đúng người, đúng tội. Mỗi tội phạm xảy
ra bao giờ cũng để lại những dấu vết nhất định trong thế giới khách quan. Đối
với một VAHS, việc áp dụng các biện pháp điều tra luôn cần thiết để thu thập,
1
kiểm tra, đánh giá chứng cứ thì CQĐT có thể xác định được diễn biến tội
phạm và xác định được ai là người thực hiện hành vi phạm tội đó. Vụ án chỉ
có thể được xét xử, làm rõ trên cở sở những vấn đề đã được điều tra, lập hồ sơ
và có quyết định truy tố bằng bản cáo trạng của VKS. Thiếu hoạt động điều
tra, không có hồ sơ vụ án, TA không có cơ sở để xét xử. Kết quả của hoạt
động điều tra càng cụ thể, chính xác, càng thu thập được đầy đủ các chứng cứ
thì càng tạo điều kiện cho TA xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Ngược lại, nếu điều tra chưa thu thập được đầy đủ chứng cứ hoặc việc thu
thập chứng cứ có những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì TA không
thể đưa vụ án ra xét xử mà phải trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung. Do đó,
chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS càng thể hiện rõ vị trí, vai trò và
tầm quan trọng.
Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận để áp dụng quy định
của pháp luật về quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS ít được
quan tâm nghiên cứu - một trong những giai đoạn quan trọng làm sáng tỏ nội
dung của vụ án. Bên cạnh đó, trong thực tiễn vẫn còn nhiều vụ án mà CQĐT,
VKS, TA giải quyết chưa được triệt để, quá trình chứng minh xác định sự thật
vụ án còn có nhiều sai sót. Từ đó cho thấy, việc nhận thức và áp dụng pháp
luật về chứng minh nói chung và chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS
của một số chủ thể THTT chưa được triệt để, đầy đủ, khách quan.
Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra
VAHS là một nội dung hết sức quan trọng, có ý nghĩa to lớn cả về mặt khoa
học và thực tiễn. Trong phạm vi đề tài luận văn này, tác giả đã chọn đề tài
"Chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự" làm luận án thạc sĩ
luật học. Đây là một khía cạnh của quá trình giải quyết VAHS mà tác giả thấy
rất quan trọng trong các vấn đề đã đề cập trên.
2
2. Tình hình nghiên cứu
Chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS là một đề tài không rộng
nhưng phức tạp, còn tồn tại nhiều cả về lý luận và thực tiễn cần được nghiên
cứu làm rõ. Trong những năm qua, đã có nhiều công trình khoa học nghiên
cứu về vấn đề chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự ở những mức độ
và phạm vi khác nhau. Luận án Tiến sĩ Luật học “Thu thập, đánh giá và sử
dụng chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả
Đỗ Văn Đương năm 2000 - Luận văn này được hoàn thiện trước khi ban hành
BLTTHS năm 2003. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường Đại học luật Hà
Nội năm 2003: “Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự - Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn” (Chủ nhiệm đề tài: Th.S. Bùi Kiên Điện); Luận văn
Tiến sĩ Luật học “Quá trình chứng minh trong vụ án hình sự ở nước ta” của
tác giả Nguyễn Văn Du năm 2006. Luận văn thạc sĩ luật học “Hoạt động
chứng minh trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” của tác giả Mạc Thị Duyên
năm 2012; Khóa luận tốt nghiệp “Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình
sự” của tác giả Nguyễn Kiều Vân năm 2011...
Bên cạnh đó, các nhà khoa học và một số tác giả cũng đã quan tâm đến
một số khía cạnh nội dung này và đã đề cập trong một số giáo trình như: Giáo
trình luật tố tụng hình sự Việt Nam (Chương IV) của trường Đại học Luật Hà
Nội năm 2011, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam (chương VI, mục 6) PGS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên (Trường Đại học Huế năm 2002)…; Sách
chuyên khảo và các bài viết được đăng trên tạp chí khoa học như Tạp chí Luật
học, Tạp chí TAND, Tạp chí Kiểm sát… có một số tác giả trực tiếp hay gián
tiếp đề cập đến nguyên tắc này nhưng dưới các góc độ khác nhau. Cụ thể:
Chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả Nguyễn Văn Cừ
(Nxb Tư pháp, 2005); Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự của TS.
Đỗ Văn Đương (Nxb Tư pháp, 2006); Chế định chứng trong luật tố tụng hình
3
sự Việt Nam của TS. Trần Quang Tiệp (Nxb Chính trị quốc gia, 2011); Một số
vấn đề về chứng minh trong tố tụng hình sự, Trần Quang Tiệp (Tạp chí Kiểm
sát số 9/2003); Một số vấn đề lý luận về phương pháp thu thập, kiểm tra, đánh
giá chứng cứ trong vụ án hình sự, TS. Trần Quang Tiệp (Tạp chí Nhà nước và
pháp luật - Viện nhà nước và pháp luật số 5/2007); Hoàn thiện chế định về
chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự, TS. Mai Thế Bày (Tạp chí
kiểm sát số chuyên ngành 18-20/2008)… Những kết quả nghiên cứu trên
phần nào đã làm rõ nội dung và ý nghĩa của quá trình chứng minh trong tố
tụng hình sự.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu và các bài viết trên chỉ thể hiện
một phần, một khía cạnh nào đó hay một phạm vi và mức độ giới hạn của quá
trình giải quyết VAHS mà ít có công trình nghiên cứu, hoặc có những vấn đề
còn chưa được nghiên cứu hoặc dù đã đề cập nhưng vẫn cần có sự nghiên cứu
về quá trình chứng minh trong điều tra VAHS. Từ tình hình nghiên cứu trên
đây, lần nữa khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Chứng minh trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự" là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận,
vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài: Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề
lý luận, những quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến hoạt động
chứng minh trong giai đoạn điều tra và thực tiễn của hoạt động chứng minh
trong giai đoạn điều tra VAHS, luận văn đưa ra những kiến nghị và giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện các quy định pháp luật liên quan
đến hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS và nâng cao hiệu
quả của hoạt động này trong thực tế.
4
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: Với mục đích đó, nhiệm vụ của luận
văn cần phải giải quyết:
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung, ý nghĩa của hoạt động chứng
minh trong giai đoạn điều tra.
- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hoạt
động chứng minh trong giai đoạn điều tra.
- Phân tích thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam liên quan đến hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra:
những kết quả đã đạt được, những bất cập và nguyên nhân tồn tại những bất
cập đó.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: là một số vấn đề lý luận của hoạt
động chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS nói chung, pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam hoạt động này nói riêng; thực tiễn áp dụng của hoạt động
chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Luận văn này nghiên cứu dưới góc độ
luật tố tụng hình sự nói chung, trong đó chú trọng tới pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam có liên quan đến hoạt động này. Do việc tiếp cận số liệu gặp
nhiều khó khăn nên luận văn chỉ nghiên cứu việc thực hiện những quy định
liên quan đến chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS tại Việt Nam từ
năm 2007-2012.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng
của Chủ nghĩa Mác Lênin về con đường nhận thức nói chung và khả năng
nhận thức chân lý trong tố tụng hình sự nói riêng, tư tưởng Hồ Chí Minh kết
5
hợp với phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp
so sánh… để làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật của
hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS.
Những luận điểm khoa học trong luận án của tác giả được nghiên cứu
trên cơ sở kế thừa và phát triển những công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học pháp lý nước ta.
6. Những kết quả đạt đƣợc, những điểm mới khi nghiên cứu và ý nghĩa
của luận văn
Sau quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, luận văn đã thu được những kết
quả nhất định như hoàn thành mục đích và yêu cầu đề ra. Thông qua đó, đề
xuất một số giải pháp hoàn thiện những quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về hoạt động chứng minh trong điều tra VAHS và bảo đảm thực hiện nó
trong tố tụng hình sự Việt Nam. Kết quả nghiên cứu và những giải pháp được
đề xuất trong luận văn có ý nghĩa quan trọng đối với đấu tranh phòng, chống
tội phạm.
- Luận văn đã làm rõ được một số vấn đề lý luận, hệ thống những khái
niệm liên quan đến hoạt động chứng minh và đặc điểm của nó trong giai đoạn
điều tra VAHS.
- Luận văn đã khái quát, phân tích và làm rõ nội dung của hoạt động
chứng minh trong giai đoạn điều tra theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam,
đặc biệt là luận giải sâu sắc các vấn đề về đối tượng chứng minh, nghĩa vụ
chứng minh, chủ thể chứng minh và các giai đoạn của quá trình chứng minh;
Tiếp cận vấn đề dưới góc độ so sánh luật ở mức độ nhất định.
- Phân tích, đánh giá một cách tương đối toàn diện, đầy đủ về thực
trạng hoạt động chứng minh trên cả phương diện lập pháp và thực thi pháp
6
luật; Đề xuất giải pháp cụ thể góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam liên quan đến chứng minh trong tố tụng hình sự.
Vì vậy, luận án có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn. Trước hết, đây là
một công trình chuyên khảo trong khoa học pháp lý nước ta nghiên cứu một
cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về hoạt động chứng minh trong điều tra
VAHS ở nước ta hiện nay, góp phần phát triển lý luận về hoạt động chứng
minh trong điều tra VAHS. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được khai
thác sử dụng trong công tác nghiên cứu của các cơ sở đào tạo chuyên ngành
luật, các cơ quan bảo vệ pháp luật, đặc biệt là các cơ quan THTT… Những
người THTT và những người tham gia tố tụng có thể nghiên cứu để khai thác
nhằm áp dụng pháp luật vào quá trình công tác thực tiễn, nâng cao chất lượng
hiệu quả trong công tác.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu gồm 3 chương và 9 mục với nội dung cụ thể
như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về hoạt động chứng minh trong gia
đoạn điều tra.
Chương 2: Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến
hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra.
Chương 3: Thực tiễn và một số giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt
động chứng minh trong giai đoạn điều tra.
7
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra
1.1.1. Khái niệm hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra
Lý luận Mác - Lênin về nhận thức đã chỉ rõ con người có thể nhận thức
được sự thật khách quan từ cảm tính đến lý tính, từ những hiện tượng cá biệt
đến cái chung, trừu tượng thông qua những giả thiết, khả năng đánh giá, đối
chiếu, tổng quan.
Hoạt động chứng minh là một trong những hoạt động thực tiễn của con
người và có mặt trong nhiều lĩnh vực cụ thể. Theo Từ điển Tiếng Việt thông
dụng, hoạt động là “làm những việc khác nhau với mục đích nhất định trong
xã hội” [62, tr.475]; chứng minh là “dùng lý lẽ, suy luận, bằng cứ để chỉ rõ
điều gì đó là đúng hay không đúng” [62, tr.256]. Như vậy, có thể hiểu hoạt
động chứng minh là hoạt động nhận thức, tư duy hay thực tiễn của con người
với mục đích nhất định, xác định sự tồn tại hay không tồn tại hoặc xác định
đúng, sai của một sự vật, sự việc, hiện tượng trên cơ sở những chứng cứ, căn
cứ cụ thể.
Chứng minh trong hoạt động tố tụng hình sự là một dạng của hoạt động
chứng minh nói chung. “Chứng minh tội phạm là thu thập, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội” [32,
tr.161]. Chứng minh tội phạm là công việc phức tạp, đó là việc thu thập, kiểm
tra, đánh giá chứng cứ nhằm xác định sự thật của vụ án. Để giải quyết đúng
đắn VAHS, các cơ quan THTT và người THTT có trách nhiệm áp dụng mọi
biện pháp để chứng minh sự thật của vụ án. Những vụ án xảy ra luôn để lại
8
những dấu vết trong thế giới khách quan, được con người và môi trường vật
chất phản ánh lại. Quá trình chứng minh VAHS thực chất là quá trình con
người nhận thức về sự kiện phạm tội đã xảy ra thông qua việc thu thập, kiểm
tra, đánh giá những thông tin về vụ án. Quá trình chứng minh là quá trình xác
định sự thật khách quan đối với VAHS, là quá trình nhận thức đi từ cái chưa
biết đến biết, một quá trình tuân theo các quy luật của phép biện chứng duy
vật. Quá trình này là một quá trình nhận thức chân lý, một quá trình phản ánh
biện chứng các sự vật và hiện tượng của thế giới vật chất vào trong ý thức con
người, trên cơ sở thực tiễn.
Trong khoa học pháp lý đang tồn tại khá nhiều quan điểm khác nhau
xung quanh khái niệm chứng minh trong tố tụng hình sự. Xét về bản chất, quá
trình này tuân thủ các quy luật chung của quá trình nhận thức khách quan theo
quan điểm Mác-xít. Theo tác giả, khái niệm chứng minh trong tố tụng hình sự
phải đảm bảo đầy đủ các yếu tố của quá trình chứng minh như chủ thể chứng
minh, đối tượng chứng minh, phương tiện chứng minh và cơ sở pháp lý để
tiến hành các hoạt động chứng minh… Từ đó, quá trình chứng minh trong tố
tụng hình sự có thể hiểu là “quá trình tư duy và thực tiễn của CQĐT, VKS,
TA và những người có quyền chứng minh dựa trên cơ sở những quy định của
pháp luật tố tụng hình sự để thu thập, kiểm tra và đánh giá các thông tin, tài
liệu cần thiết nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án đảm bảo cho việc
giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án” [31,tr.183]. Quá trình chứng minh
trong VAHS là một quá trình nhận thức khách quan, được thực hiện bằng các
hoạt động trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Các hoạt động này đều thực
hiện dưới hình thức tố tụng hình sự khác nhau, được quy định trong các văn
bản pháp luật khác nhau như: Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự, Luật tổ
chức VKSND, Luật Tổ chức TAND. Thực chất và mục đích của quá trình
chứng minh trong VAHS của các cơ quan THTT là thu thập, sử dụng chứng
9
cứ làm phương tiện để xác định rõ có dấu hiệu tội phạm hay không, nếu có thì
ai thực hiện tội phạm, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự của người đó
trước pháp luật.
Quá trình chứng minh trong VAHS bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố
vụ án (trừ trường hợp cần thu thập chứng cứ làm sáng tỏ vụ án trước khi tiến
hành giải quyết như khám nghiệm hiện trường có thể được tiến hành trước khi
khởi tố vụ án) bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của các cơ quan có thẩm
quyền THTT khác nhau như: Hoạt động điều tra, hoạt động truy tố và hoạt
động xét xử. Mỗi hoạt động này đều hàm chứa các hành vi tố tụng khác nhau.
Hoạt động điều tra với tính chất là một giai đoạn tố tụng hình sự do CQĐT
tiến hành và bao gồm các hành vi tố tụng đặc trưng như: Khởi tố bị can và hỏi
cung bị can; Bắt tạm giam bị can, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản;
Lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; Đối chất và nhận
dạng… nhằm làm rõ đối tượng chứng minh trong giai đoạn điều tra. Hoạt
động truy tố do VKS tiến hành thể hiện quyền giám sát hoạt động của CQĐT
và thực hành quyền công tố tại phiên tòa, đặc trưng bởi những hành vi tố tụng
như: Nghiên cứu hồ sơ, nghiên cứu bản kết luận điều tra, viết bản cáo trạng và
truy tố bị can trước TA. Hoạt động xét xử do TA tiến hành là hoạt động mang
tính quyết định cuối cùng nhằm xác định tội phạm, người phạm tội và áp
dụng các hình phạt tương ứng theo quy định của pháp luật. Hoạt động xét xử
bao gồm các hành vi tố tụng cụ thể như: Xét hỏi bị cáo, hỏi người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và những người tham gia tố tụng khác, xem
xét vật chứng; Tranh luận tại phiên tòa; Nghị án; Tuyên án… Tất cả những
hành vi tố tụng cụ thể đó nhằm đến một mục đích cuối cùng và cao nhất đó là
chứng minh chân lý khách quan của VAHS. Hoạt động này cần được tiến
hành theo đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS hiện hành quy định và tuân thủ
10
một số nguyên tắc nhất định: Nguyên tắc đảm bảo pháp chế; Nguyên tắc
không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của TA đã có hiệu lực pháp
luật; Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án; Nguyên tắc đảm bảo quyền bào
chữa của người bị tạm giam, bị can, bị cáo; Nguyên tắc đảm bảo tính vô tư
của người tiến hành hoặc người tham gia tố tụng…
Trên cơ sở những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và
các văn bản pháp luật khác về điều tra, truy tố, xét xử và thực tiễn xét xử có
thể hiện: Quá trình chứng minh trong VAHS là quá trình mà các cơ quan
THTT, người THTT thực hiện hoạt động nhận thức chân lý về VAHS. Việc
nhận thức về VAHS là việc phản ánh một cách khách quan toàn bộ diễn biến
về vụ án, hay nói cách khác là tái dựng lại được một bức tranh toàn cảnh,
chính xác về VAHS đã xảy ra. Để đạt được điều này, các chủ thể THTT phải
thực hiện các biện pháp do pháp luật tố tụng hình sự quy định, làm sáng tỏ tất
cả mọi vấn đề có trong VAHS. Việc nghiên cứu các sự kiện, tình tiết của vụ
án được tiến hành dựa trên cơ sở “chứng cứ là những gì có thật, được thu thập
theo trình tự do bộ luật này quy định, mà CQĐT, VKS và TA dùng làm căn
cứ xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm
tội, cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ
án” [36].
Quá trình chứng minh trong VAHS chủ yếu thể hiện ở các giai đoạn
điều tra, truy tố, xét xử VAHS, trong đó các cơ quan THTT áp dụng mọi biện
pháp để thu thập chứng cứ, đánh giá và sử dụng chứng cứ nhằm xác định sự
thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Quá trình giải quyết
VAHS trải qua nhiều giai đoạn tố tụng hình sự khác nhau. Mục đích chung
của hoạt động chứng minh trong mọi giai đoạn tố tụng là xác định sự thật
khách quan của vụ án. Mỗi giai đoạn có chủ thể, nhiệm vụ, hành vi tố tụng,
văn bản tố tụng khác nhau khiến cho hoạt động chứng minh ở từng giai đoạn
11
tố tụng có những đặc trưng riêng biệt. Trong đó, điều tra VAHS là một giai
đoạn quan trọng của quá trình giải quyết VAHS. Điều tra là giai đoạn tố tụng
hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS
quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở
cho việc giải quyết vụ án [31, tr.263]. Với tính chất của giai đoạn điều tra
VAHS làm cho hoạt động chứng minh trong giai đoạn này có những điểm
khác biệt so với hoạt động chứng minh trong các giai đoạn tố tụng khác. Vì
thế, giai đoạn điều tra VAHS là giai đoạn không thể thiếu trong quá trình giải
quyết VAHS, không có giai đoạn nào thay thế được. Hoạt động điều tra là
hoạt động cần thiết đối với tất cả các VAHS. Theo Từ điển Luật học, “Điều
tra là công tác trong tố tụng hình sự được tiến hành nhằm xác định sự thật của
vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ” [32]. Là một yếu tố của quá
trình chứng minh, hoạt động điều tra được xem như là một hoạt động nhận
thức nếu nhìn từ góc độ của lý luận phản ánh. Trước hết, tội phạm được phản
ánh vào môi trường xung quanh thông qua các dấu vết, hình ảnh của nó để lại
trên các đối tượng vật chất, trong trí nhớ của những người tham gia tố tụng
trong tương lai.
Chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS là quá trình chứng minh
trong VAHS bắt đầu từ khi vụ án được khởi tố và kết thúc khi cơ quan có
thẩm quyền có bản kết luận điều tra về VAHS, thể hiện sự đánh giá, kết luận
mang tính pháp lý đầu tiên về sự thật khách quan của vụ án. Giai đoạn này là
giai đoạn khởi đầu của quá trình chứng minh làm tiền đề cho các giai đoạn
tiếp theo. Trong giai đoạn này, CQĐT, VKS có quyền sử dụng các biện pháp
điều tra, các nguồn chứng cứ khác nhau để chứng minh. Để điều tra vụ án,
Điều tra viên, Kiểm sát viên phải đưa nhiều giả thiết khác nhau và mỗi giả
thiết đều phải được chứng minh để loại trừ hay xác định để đưa đến kết luận
về vụ án. Để chứng minh, CQĐT, VKS phải sử dụng mọi chứng cứ thu thập
12
được trong vụ án, không loại trừ chứng cứ nào để chứng minh cho các giả
thiết điều tra đặt ra.
Cũng như các giai đoạn khác của quá trình tố tụng hình sự, hoạt động
chứng minh ở giai đoạn điều tra được hiểu là hoạt động nhận thức về sự kiện
phạm tội đã xảy ra trong quá khứ thông qua việc nghiên cứu những thông tin
về sự kiện đó được để lại trong thế giới vật chất và ý thức của những người
biết về sự kiện đó. Chính từ giai đoạn chứng minh này, giá trị chứng minh các
thông tin được khẳng định là cơ sở cho việc giải quyết vụ án được hình thành,
đầy đủ. Giai đoạn điều tra là giai đoạn mở đầu của quá trình tố tụng hình sự.
Vì vậy, hoạt động chứng minh trong VAHS ở giai đoạn này có vị trí và vai trò
quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả của VKS và TA ở
các giai đoạn tiếp theo là truy tố, xét xử. Hoạt động chứng minh trong giai
đoạn điều tra VAHS ở các cấp góp phần rất quan trọng trong cuộc đấu tranh
phòng và chống tội phạm. Đây cũng là tiền đề tạo điều kiện thuận lợi cho
VKS và TA ở nước ta hàng năm xử lý một số lượng rất lớn các VAHS đảm
bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra khái niệm về hoạt động chứng
minh trong giai đoạn điều tra VAHS như sau: Hoạt động chứng minh trong
giai đoạn điều tra VAHS là hoạt động của những chủ thể THTT ở giai
đoạn điều tra được pháp luật quy định để thu thập, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ nhằm làm sáng tỏ sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn
diện và đầy đủ, đảm bảo cơ sở cần thiết cho việc ban hành các quyết định tố
tụng phù hợp góp phần giải quyết đúng đắn VAHS theo trình tự, thủ tục
của pháp luật tố tụng hình sự.
Khái niệm này đã chỉ ra những đặc điểm thuộc về bản chất của hoạt
động chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS như chủ thể chứng minh,
13
phương tiện chứng minh, thủ tục chứng minh, mục đích chứng minh và các
nội dung của hoạt động chứng minh.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra
Xuất phát từ nhiệm vụ các giai đoạn tố tụng cũng như địa vị pháp lý,
chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể mà hoạt động chứng minh ở mỗi giai
đoạn cũng có sự khác nhau, những đặc điểm riêng của mình. Với khái niệm
về hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS, hoạt động chứng
minh trong giai đoạn điều tra gồm những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Chủ thể của hoạt động chứng minh. Chủ thể tiến hành các
hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự là các chủ thể có trách nhiệm
chứng minh do pháp luật tố tụng hình sự quy định tùy từng quốc gia với từng
mô hình tố tụng khác nhau. Các chủ thể chứng minh trong giai đoạn điều tra
là người nắm vững pháp luật, có kiến thức về nghiệp vụ chuyên sâu về công
tác pháp luật, sử dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật tiên tiến để phát hiện
và điều tra được tội phạm. Chủ thể chứng minh ở giai đoạn điều tra bao gồm
Điều tra viên, Kiểm sát viên hoặc cán bộ được phân công làm công tác điều
tra của các cơ quan khác như: Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực
lượng cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội
nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Người
tham gia tố tụng cũng tham gia vào hoạt động chứng minh do các chủ thể
chứng minh THTT yêu cầu nhưng họ không phải chủ thể chứng minh.
Thứ hai: Thời hạn điều tra. Các CQĐT tiến hành các hoạt động thu
thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ bằng thời hạn điều tra vụ án như: Từ khi
khởi tố vụ án cho đến kến kết thúc điều tra, đối với tội phạm ít nghiêm trọng
không quá hai tháng; Đối với tội nghiêm trọng không quá ba tháng; Đối với
tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng không quá bốn tháng. Trong
14
một số trường hợp do tính chất phức tạp của vụ án thì có thể được gia hạn
điều tra: Đối với tội ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần
không quá hai tháng; Đối với tội nghiêm trọng có thể gia hạn hai lần, lần thứ
nhất không quá ba tháng và lần thứ hai không quá hai tháng; Đối với tội phạm
rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, mỗi lần không quá bốn
tháng; Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra ba
lần mỗi lần không quá bốn tháng.
Thứ ba: Các phương tiện điều tra. Các CQĐT có thể sử dụng trong quá
trình chứng minh tội phạm ở giai đoạn này là các phương tiện kỹ thuật hình
sự và các thủ thuật, chiến thuật hình sự cụ thể. Các phương tiện, chiến thuật
này thường được giới hạn bởi khoa học điều tra hình sự. Việc sử dụng các
phương tiện kỹ thuật hình sự trong quá trình chứng minh tội phạm ở giai đoạn
điều tra luôn phải phù hợp với pháp luật tố tụng hình sự, không được vi phạm
pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và phải đáp ứng
các yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp của hoạt động điều tra. Chứng cứ là
phương tiện duy nhất được cơ quan THTT sử dụng để chứng minh trong tố
tụng hình sự. Về bản chất, chứng cứ chính là những thông tin phản ánh sự
kiện phạm tội, những thông tin này được chứa đựng dưới những hình thức
khác nhau khoa học luật tố tụng hình sự gọi là nguồn chứng cứ. Bằng các
phương tiện điều tra do pháp luật quy định, Điều tra viên và những người theo
luật định tiến hành nhằm thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ theo trình tự
của luật tố tụng hình sự có ý nghĩa đối với hoạt động điều tra và phòng ngừa
tội phạm, phù hợp cho quá trình chứng minh của mình, cũng như toàn bộ quá
trình giải quyết VAHS.
Thứ tư: Mục đích chứng minh. Quá trình chứng minh trong VAHS
được các chủ thể THTT thực hiện nhằm xác định chân lý khách quan của vụ
án. Quá trình chứng minh thực chất là quá trình nhận thức VAHS của các chủ
15
thể có trách nhiệm chứng minh. Do đó, mục đích của hoạt động chứng minh
trong giai đoạn điều tra VAHS là xác định sự thật của vụ án một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ để giải quyết đúng đắn VAHS, qua đó góp phần
thực hiện nhiệm vụ của pháp luật tố tụng hình sự là bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích cơ bản của công dân
và tổ chức… Hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều nhằm xác định có
tội phạm và bị can - người thực hiện hành vi phạm tội hay không để ban hành
kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra.
Thứ năm: Nội dung của hoạt động chứng minh. Là một phần chứng
minh VAHS, hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS cũng bao
gồm các hoạt động thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Để tái hiện lại sự
kiện phạm tội đã xảy ra trước đây một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ,
làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án thì Điều tra viên, Kiểm sát viên phải áp
dụng những biện pháp khác nhau mà pháp luật cho phép nhằm thu thập, kiểm
tra, đánh giá các thông tin mà sự kiện này để lại trong thế giới khách quan
dưới hai hình thức phản ánh trong ý thức của con người và trong môi trường
vật chất [20, tr.12].
Trong quá trình chứng minh VAHS, các chủ thể chứng minh cần xác
định đối tượng chứng minh và xác định được giới hạn chứng minh. Tính toàn
diện của hoạt động chứng minh phụ thuộc vào việc xác định đối tượng chứng
minh, tính đầy đủ của hoạt động chứng minh lại do việc xác định giới hạn
chứng minh quyết định. Chỉ có khi nào cơ quan THTT thu thập đầy đủ chứng
cứ để có thể đưa ra kết luận về việc tồn tại hay không tồn tại của các yếu tố
thuộc đối tượng chứng minh thì mới có thể có nhận thức đầy đủ và toàn diện
về sự thật khách quan của vụ án và trên cơ sở đó đưa ra quyết định giải quyết
đúng đắn VAHS. Vấn đề này ở giai đoạn điều tra VAHS cần được xem xét kỹ
lưỡng. Bởi lẽ, từ đó mà CQĐT, VKS tiến hành các hoạt động phù hợp đáp
16
ứng yêu cầu của quá trình giải quyết vụ án. Để giải quyết vấn đề này, trong
từng vụ án cụ thể, Điều tra viên và các chủ thể chứng minh phải dựa vào các
quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, niềm tin nội tâm và ý thức
pháp luật để quyết định cần thu thập, kiểm tra, đánh giá và nghiên cứu những
chứng cứ để làm rõ từng tình tiết và toàn bộ các tình tiết thuộc đối tượng
chứng minh của vụ án đó.
Như vậy, đặc điểm dễ nhận thấy của hoạt động chứng minh trong giai
đoạn điều tra chủ yếu tập trung ở việc phát hiện để thu thập, kiểm tra và đánh
giá chứng cứ nhằm đưa ra kết luận chính thức đầu tiên về VAHS thông qua
Bản kết luận điều tra.
1.2. Nội dung hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra
Trong lý luận và thực tiễn tố tụng hình sự, quá trình chứng minh nói
chung, hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS nói riêng được
hợp thành bởi các hoạt động thu thập chứng cứ, kiểm tra chứng cứ và đánh
giá chứng cứ.
1.2.1. Thu thập chứng cứ
Thu thập chứng cứ là hoạt động đầu tiên, có ý nghĩa quan trọng đối với
toàn bộ quá trình chứng minh tội phạm, cũng như trong giai đoạn điều tra
VAHS. Việc thu thập chứng cứ được pháp luật tố tụng hình sự quy định được
hiểu là thu thập nguồn chứng cứ hoặc thu thập ngay chính chứng cứ.
“Thu thập chứng cứ là việc cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện
pháp và phương pháp theo quy định của pháp luật để phát hiện, ghi nhận, thu
giữ và bảo quản các thông tin, tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án phục vụ
cho việc giải quyết vụ án” [39]. Kết quả của giai đoạn này có ảnh hưởng lớn
đến chất lượng công tác giải quyết VAHS. Số lượng, chất lượng của các
17
chứng cứ được thu thập sẽ tạo điều kiện thuận lợi hoặc ngược lại, gây khó
khăn cho việc điều tra vụ án và toàn bộ quá trình giải quyết vụ án trong thực
tiễn. Các CQĐT, VKS cần phải tập trung, chú trọng đến giai đoạn này. Để
chứng minh, CQĐT, VKS phải thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Đặc
biệt, trong giai đoạn điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên tập trung nhiều hơn
cho việc thu thập chứng cứ. Thiếu các chứng cứ quan trọng trong giai đoạn
điều tra là một trong những căn cứ để VKS, TA trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Vì vậy, muốn dựng lại bức tranh đầy đủ, toàn diện, chính xác về tội
phạm đã xảy ra để giải quyết VAHS thì các chủ thể THTT phải tiến hành hoạt
động chứng minh nhằm thu thập các thông tin, các sự kiện tồn tại trong thế
giới khách quan nhằm phản ánh chân lý khách quan của vụ án. Do đó, sau khi
có quyết định khởi tố VAHS, hoạt động trước tiên để chứng minh trong
VAHS là thu thập chứng cứ.
Thu thập chứng cứ là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền THTT phát
hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản các đồ vật, tài liệu, thông tin liên quan
đến vụ án theo trình tự, thủ tục do luật tố tụng hình sự quy định. Chỉ những
người có thẩm quyền do luật tố tụng hình sự quy định mới có quyền thu thập
chứng cứ. Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người có thẩm quyền của cơ
quan được giao nhiệm vụ điều tra có quyền tiến hành hoạt động thu thập
chứng cứ ở giai đoạn điều tra. Ngoài ra, những người tham gia tố tụng, cơ
quan tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra tài liệu, đồ vật và
trình bày những vấn đề liên quan đến vụ án. Người bào chữa có quyền thu
thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ,
bị can, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá
nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can nếu không thuộc bí mật Nhà
nước, bí mật công tác.
18
Xét về nội dung, giai đoạn thu thập chứng cứ bao gồm các hoạt động
phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ.
Phát hiện chứng cứ là tìm ra sự vật, hiện tượng, dấu vết, tài liệu đang
tồn tại trong thế giới vật chất, lưu giữ những thông tin về vụ án hay tìm ra
nguồn chứng cứ lưu giữ thông tin về vụ án. Chứng cứ trong VAHS được chứa
đựng bởi nhiều nguồn khác nhau, giữa các chứng cứ và nguồn chứng cứ có sự
khác nhau về hình thức phản ánh, không gian tồn tại, kích thước, trọng
lượng… Chứng cứ được tồn tại dưới hai hình thức phản ánh: Trong môi
trường vật chất và trong ý thức của con người. Vì vậy, muốn phát hiện những
nơi cụ thể có thể lưu giữ các chứng cứ đó (hiện trường, vật chứng, con người
cụ thể), cần sử dụng các phương tiện, biện pháp và phương pháp cho phù hợp
với quy luật hình thành chứng cứ, loại chứng cứ cần phát hiện. Do đó, để thu
thập chứng cứ hiệu quả, các chủ thể chứng minh cần áp dụng nhiều phương
pháp cho phù hợp, các biện pháp thu thập khác nhau phù hợp với đặc điểm
của từng loại nguồn chứng cứ. Các biện pháp thu thập chứng cứ trong tố tụng
hình sự bao gồm: Triệu tập để hỏi những người biết về vụ án; Tiến hành các
hoạt động điều tra khác như khám nghiệm hiện trường, khám xét, thực
nghiệm điều tra, nhận dạng, xem xét dấu vết trên cơ thể, trưng cầu giám
định…; Yêu cầu các cơ quan, tổ chức hoặc các nhân cung cấp tài liệu, trình
bày những tình tiết làm sáng tỏ nội dung vụ án; Tiếp nhận tài liệu, đồ vật,
thông tin liên quan đến vụ án do các cơ quan, tổ chức, cá nhân chủ động cung
cấp. Các dấu vết, đồ vật liên quan đến vụ án thường rất đa dạng do đặc điểm
hình sự của từng loại tội phạm khác nhau và hoàn cảnh cụ thể xảy ra đối với
từng vụ án khác nhau. Những đối tượng này có thể mang thông tin trực tiếp
hoặc chỉ có thể mang thông tin gián tiếp về các tình tiết cần chứng minh của
vụ án, nên quá trình phát hiện chứng cứ, đòi hỏi phải có trình độ pháp lý nghiệp vụ sâu sắc, nhất là tư duy lôgic, tổng hợp và phân tích.
19