Tải bản đầy đủ (.pdf) (170 trang)

Pháp luật về chống bán phá giá trong thương mại quốc tế : Luận văn ThS. Luật : 60 38 60

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 170 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
*
*

*

NGUYỄN TRẦN DUY

PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT QUỐC TẾ
MÃ SỐ: 603860

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Bá Diến

Hà Nội - 2007


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU

1

CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ BÁN PHÁ GIÁ VÀ PHÁP

7

LUẬT VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ


1.1. Những khái niệm chung về bán phá giá và thuế

7

chống bán phá giá
1.1.1. Các định nghĩa về bán phá giá

7

1.1.2. Cơ sở xác định bán phá giá

13

1.1.2.1 Giá trị thông thường

15

1.1.2.2 Giá xuất khẩu

21

1.1.2.3. So sánh giá xuất khẩu và giá trị thông

22

thường - phương pháp xác định phá giá hàng hoá

1.2. Đặc điểm của bán phá giá

27


1.3. Phân loại bán phá giá

32

1.3.1. Phân loại theo Hiến chương Havana

33

1.3.2. Phân loại căn cứ vào động cơ và mục đích của chủ thể

35

thực hiện bán phá giá
1.3.3. Phân loại căn cứ vào biểu hiện của phá giá

1.4. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về

37
38

chống bán phá giá
1.4.1. Các nguyên nhân dẫn đến hành động bán phá giá

38

1.4.1.1. Sức ép kinh tế vĩ mô

40


1.4.1.2. Sức ép tự do hóa thương mại

40

1.4.1.3. Hành vi trả đũa

40


1.4.1.4. Nền kinh tế phi thị trường

41

1.4.1.5. Hành vi Bắt chước (Hiệu ứng Domino)

42

1.4.1.6. Tính gộp thiệt hại

43

1.4.1.7. Chống bán phá giá như một chiến lược của

45

các tập đoàn và kết quả đấu tranh giữa các nhóm lợi
ích
1.4.1.8. Chống bán phá giá tập trung trong những

46


ngành mà bên xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh
1.4.1.9. Tình trạng lẩn tránh thuế chống bán phá giá

47

1.4.1.10. Yếu kém trong khuôn khổ luật pháp và điều

47

lệ ngăn cản việc đối phó với các vụ điều tra một
cách hiệu quả
1.4.2. Tác động của bán phá giá đối với nền kinh tế của

48

nước nhập khẩu
1.4.3. Căn cứ pháp lý của hành động chống bán phá giá

52

1.4.3.1. Trên thế giới

52

1.4.3.2. Tại Việt Nam

54

CHƢƠNG II: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG


57

BÁN PHÁ GIÁ TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ
2.1. Các tiêu chuẩn cơ bản để đánh thuế chống bán

57

phá giá
2.1.1. Thiệt hại đối với ngành công nghiệp trong nước

57

2.1.2. Mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu bị

58

phá giá với sự thiệt hại của ngành công nghiệp trong nước
2.1.3. Gộp các loại hàng nhập khẩu

2.2. Thủ tục, nội dung điều tra vụ kiện chống bán phá
hàng nhập khẩu

59
60


2.2.1. Hệ thống cơ quan nhà nước tham gia vào quá trình

60


điều tra và áp dụng biện pháp chống bán phá giá
2.2.1.1. Cơ quan điều tra chống bán phá giá

61

2.2.1.2. Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá

64

2.2.1.3. Bộ trưởng Bộ Thương mại

65

2.2.2. Thủ tục điều tra và áp dụng biện pháp chống bán

70

phá giá
2.2.2.1. Giai đoạn khởi đầu của quá trình điều tra

70

2.2.2.2. Giai đoạn tiến hành điều tra

80

2.2.2.3. Áp dụng các biện pháp chống bán phá

93


CHƢƠNG III: THỰC THI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

112

NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG BÁN PHÁ
GIÁ ĐỐI VỚI VIỆT NAM
3.1. Thực tiễn quốc tế về thực thi pháp luật chống bán

112

phá giá
3.1.1. Thực tiến trên thế giới
3.1.1. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của

112
113

các nước phát triển
3.1.2. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của

113

các nước đang phát triển
3.1.2. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán giá đối với hàng

114

hoá Việt Nam ở nước ngoài
3.1.2.1. Các vụ kiện mà hàng hóa Việt Nam đã bị kiện


114

bán phá giá

3.1.2.2. Các ngành xuất khẩu của Việt Nam có nguy
cơ bị điều tra và áp thuế chống bán phá giá

118


3.1.2.3. Các giải pháp nhằm hạn chế nguy cơ bị điều

121

tra và áp thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa
Việt Nam ở nước ngoài

3.2. Vấn đề thực thi pháp luật bán phá giá tại Việt

124

Nam
3.2.1. Thực trạng bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào

124

Việt Nam
3.2.2. Thực trạng thực thi pháp luật chống bán phá giá ở


127

Việt Nam
3.2.3. Các bất cập trong việc thực thi pháp luật chống

128

bán giá ở Việt Nam phá

3.3. Các gải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và cơ chế

133

thực hiện pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam
3.3.1. Những định hướng cơ bản cho việc thực hiện pháp

133

luật chống bán phá giá tại Việt Nam
3.3.1.1. Pháp luật chống bán phá giá và việc thực

133

hiện chúng phải đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế
3.3.1.2. Việc hoàn thiện và thực hiện pháp luật

135

chống bán phá giá phải được đặt trong mối quan hệ

tổng thể với các chế định pháp luật khác
3.3.1.3. Đảm bảo nguyên tắc độc lập trong tổ chức

136

và hoạt động của bộ máy chống bán phá giá
3.3.1.4. Bảo vệ hợp lý các ngành sản xuất trong
nước

136


3.3.2. Những đề xuất cụ thể nhằm hoàn thiện chế định

137

pháp lý về chống bán phá giá và cơ chế thực hiện chúng
3.3.2.1. Chi tiết hoá các quy định hiện hành về

137

chống bán phá giá
3.3.2.2. Hoàn thiện bộ máy chống bán phá giá

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

139
142



BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
EU

Liên minh Châu Âu

Hiệp định chống bán

Hiệp định về chống bán giá giá của Tổ chức

phá giá

Thương mại thế giới

Pháp lệnh về chống

Pháp lệnh chống bán phá giá đối với hàng nhập

bán giá giá

khẩu của Ủy ban thường vụ Quốc hội

Pháp luật về chống

Pháp lệnh chống bán phá giá đối với hàng nhập

bán giá giá

khẩu và các văn hướng dẫn thi hành


USITC

Ủy ban thương mại quốc tế của Hoa Kỳ

WTO

Tổ chức Thương mại thế giới


MỞ ĐẦU
I.

CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI:

1.1 Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là đang tích
cực đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và nhiều khả
năng sẽ trở thành thành viên chính thức của WTO vào cuối năm 2006. WTO
là một “sân chơi” có những luật lệ riêng của nó. Theo đó, Việt Nam sẽ phải
loại bỏ dần các hàng rào thuế quan trong những năm tới, chẳng hạn như hạn
chế định lượng, giá tính thuế tối thiểu. Tuy nhiên, thuế quan vẫn sẽ là công
cụ bảo hộ chủ yếu cho sản xuất trong nước. Vì vậy, việc áp dụng thuế chống
bán phá giá là một nhu cầu cấp thiết để tăng cường bảo hộ sản xuất trong
nước.
1.2 Bán phá giá là trường hợp một mặt hàng được nhập khẩu từ nước này sang
nước khác với giá thấp hơn giá bán mặt hàng đó trong điều kiện thương mại
thông thường ở thị trường nội địa nước xuất khẩu. Trong thương mại quốc tế,
việc bán phá giá làm cho người tiêu dùng ở nước nhập khẩu có cơ hội tiếp
cận với hàng hoá rẻ hơn, nhưng đồng thời có thể gây thiệt hại cho ngành sản
xuất hàng hoá tương tự của nước nhập khẩu.
Thuế chống bán phá giá là biện pháp đánh một khoản thuế bổ sung và mặt

hàng nhập khẩu khi mặt hàng này bị bán phá giá và gây thiệt hại cho ngành
sản xuất trong nước. Mục đích của việc áp dụng thuế chống bán phá giá là
nhằm triệt tiêu những ảnh hưởng bất lợi do việc hàng nhập khẩu bị bán phá
giá gây ra, bù đắp những thiệt hại mà ngành sản xuất trong nước phải gánh
chịu.


1.3 Thuế chống bán phá giá được áp dụng trên thế giới cách đây khoảng 100
năm và ngày càng được phổ biến rộng rãi không những ở các nước phát
triển như Hoa Kỳ, Canada, EU, Úc mà cả các nước đang phát triển như
Brazil, Achentina, Mexico, Ấn Độ, Thái Lan.
Để sớm có cơ sở pháp lý áp dụng loại thuế này cần nhanh chóng xây dựng và
ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (từ quy định mang tính chất
nguyên tắc cho đến các quy định cụ thể và cả cơ chế bảo đảm thực thi hữu
hiệu) dựa trên các hiệp định liên quan của WTO, có tham khảo tới luật và
thực tiễn áp dụng của một số nước khác.
1.4 Việc bán phá giá đang diễn ra ngày càng nhiều ở hầu hết các quốc gia kể cả
các quốc gia phát triển và đang phát triển. Mặc dù là nước đang phát triển ở
trình độ thấp, nhưng vài năm trở lại đây hàng hoá của Việt Nam đã dần thâm
nhập vào các thị trường khác nhau và các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã bị
nước ngoài tiến hành điều tra bán phá giá nhiều lần. Trong đó, Việt Nam đã
thắng được trong một số vụ, như giày dép ở Canada, bật lửa gas vào EU, bật
lửa gas ở Hàn Quốc; và một số vụ hàng hoá của có các doanh nghiệp Việt
Nam bị áp đặt thuế chống phá giá. Vụ kiện bán phá giá cá tra, cá ba-sa của
Việt Nam tại Hoa Kỳ (năm 2002) được coi là một vụ kiện có quy mô lớn và
có rất nhiều áp đặt bất công từ phía Hoa Kỳ. Sau đó, tôm của Việt Nam cũng
đã bị phía Hoa Kỳ áp đặt thuế chống bán phá giá. Gần đây, nhiều loại hàng
hóa khác của Việt Nam cũng đang bị xem xét và áp đặt thuế chống phá giá
tại nhiều thị trường khác trên thế giới. Tuy vậy, Việt Nam chưa một lần xem
xét và áp đặt thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa nước ngoài nhập khẩu

vào Việt Nam.
1.5 Trong thời gian qua, Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh Chống bán phá giá
hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam (dưới đây gọi tắt là Pháp lệnh Chống bán


phá giá) vừa được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 29/04/2004
và có hiệu lực từ ngày từ 01/10/2004. Sau đó, Chính phủ cũng đã có Nghị
định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Chống bán phá giá.
Tuy nhiên, việc áp dụng có hiệu quả Pháp lệnh Chống bán phá giá ở Việt
Nam là một công việc không đơn giản vì cho đến nay. Thực tế cho thấy
nhiều trường hợp hàng hoá nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam với giá rẻ và
bị nghi ngờ là được phía nước ngoài bán phá giá, nhưng không thể tiến hành
điều tra, vì thiếu cơ sở pháp lý. Mặt khác, việc điều tra và áp dụng các biện
pháp chống bán phá giá rất phức tạp, đối tượng điều tra nằm ngoài lãnh thổ
Việt Nam, nên chi phí rất tốn kém. Chưa kể, với những nội dung điều tra liên
quan đến chính sách của chính phủ nước ngoài, nếu không xem xét toàn diện
mọi khía cạnh trước khi tiến hành điều tra để áp dụng biện pháp chống bán
phá giá, sẽ dễ gây ra tác động ngược lại đối với các ngành sản xuất trong
nước và các chính sách hỗ trợ như thưởng xuất khẩu, miễn giảm thuế, xoá
nợ, khoanh nợ...
1.6 Chính vì vậy, việc nghiên cứu các quy định về chống bán phá giá trong pháp
luật quốc tế (trong khuôn khổ Hiệp định chống bán phá giá và tham khảo
một số luật chống phá giá của các nước khác) và pháp luật Việt Nam có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong việc chủ động hội nhập kinh tế thế giới.
Thứ nhất, việc nắm bắt các quy định của quốc tế về vấn đề này cho phép các
doanh nghiệp của Việt Nam đoàn kết, sẵn sàng và chủ động tham gia vụ kiện
về bán phá giá. Đây được xem là cơ hội để các doanh nghiệp thu thập thông
tin về vấn đề này và chứng minh tính hợp lý của giá xuất khẩu hàng hoá.
Thứ hai, việc xây dựng một hệ thống các quy định cụ thể về chống bán phá
giá và một cơ chế thực thi có hiệu quả sẽ góp phần hạn chế hiện tượng bán



phá giá của hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam, góp phần bảo vệ sản xuất
trong nước một cách hợp pháp.

II.

MỤC ĐÍCH, PHẠM VI VÀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ
TÀI:

2.1 Mục đích:

-

Góp phần làm sáng tỏ các quy định pháp luật (trong Hiệp định chống
bán phá giá của WTO, pháp luật của một số nước trên thế giới, ví dụ:
Hoa Kỳ, EU... và pháp luật Việt Nam) về chống bán phá giá.

-

Tìm ra những hạn chế trong quy định của pháp luật Việt Nam về chống
bán phá giá – cả trên phương diện lý luận, kỹ thuật lập pháp và tổ chức
thực hiện.

-

Đề xuất những phương hướng, quan điểm, biện pháp nhằm tiến tới
hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề chống bán phá giá.

2.2 Phạm vi nghiên cứu:

Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật, các tài liệu liên quan
đến chống bán phá giá, bao gồm:
-

Hiệp định về chống bán phá giá của WTO;

-

Quy định pháp luật của một số nước mà hàng hoá của Việt Nam đã bị
(và có nhiều khả năng sẽ bị) điều tra bán phá giá như Hoa Kỳ, EU...;

-

Quy định của pháp luật Việt Nam về bán phá giá.


Bên cạnh việc phân tích các quy định của pháp luật và một số vụ kiện bán
phá giá, nghiên cứu sẽ phân tích thêm một số trường hợp bán phá giá cụ thể
để từ đó làm sáng tỏ thêm các quy định pháp luật như nêu trên đây.
2.3 Tình hình nghiên cứu:
Chống bán phá giá là quy phạm đã được áp dụng từ lâu trong thương mại
quốc tế. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, đây là một chủ đề tương đối mới mẻ.
Hiện tại, vấn đề này chưa được nghiên cứu nhiều và chưa có hệ thống mà chỉ
có một số bài viết, bài báo, tài liệu nghiên cứu một số khía cạnh của vấn đề
này. Trong bối cảnh Việt Nam sẽ sớm tham gia sân chơi WTO nhưng lại đã
“có khá nhiều kinh nghiệm” về việc bị áp đặt thuế chống bán phá giá, việc
xem xét, đánh giá, tổng hợp và so sánh các quy định của Việt Nam với các
quy định của pháp luật quốc tế là điều cần làm ngay. Vì vậy, việc lựa chọn đề
tài này để nghiên cứu là cần thiết và sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật về
chống bán phá giá và góp phần thực thi có hiệu quả pháp luật trong lĩnh vực

này.
2.4 Đóng góp của đề tài:

-

Phân tích, đánh giá và so sánh các quy định của pháp luật của Việt Nam
về bán phá giá với các quy định của pháp luật quốc tế;

-

Đưa ra những ý kiến tham khảo nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
chống bán phá giá và xây dựng cơ chế thực thi pháp luật về chống bán
phá giá có hiệu quả.

2.5 Phƣơng pháp nghiên cứu:


Trên cơ sở phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, bài luận văn sẽ được áp dụng các phương pháp phân tích, so sánh, tổng
hợp để nghiên cứu, làm rõ các nội dung và đạt được mục đích của đề tài.

III. CÁC NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐỀ TÀI:
Luận văn sẽ được kết cấu gồm: Lời mở đầu, Phần nội dung, Kết luận, các Phụ lục
và Danh sách tài liệu tham khảo, được trình bày theo kết cấu như sau:
Lời mở đầu: sẽ nêu tính cấp thiết, mục đích, phạm vi nghiên cứu của đề tài, tình
hình và phương pháp nghiên cứu.
Phần nội dung sẽ giải quyết các vần đề sau đây:
Chương I: Tổng quan về bán phá giá và pháp luật về chống bán phá giá.
Chương này phân tích các khái niệm chung, đặc điểm, phân loại các loại bán phá
giá; lịch sử hình thành và thực tiễn áp dụng luật về chống bán phá giá trên thế giới

và Việt Nam.
Chương II: Các quy định pháp luật về chống bán phá giá trong thương mại
quốc tế. Chương này phân tích các quy định cụ thể về bán phá giá và chống bán
phá giá, trong đó phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam có đối chiếu với
quy định của WTO và của một số nước trên thế giới.
Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi và hoàn thiện
pháp luật về chống bán phá giá đối với Việt Nam. Chương này phân tích thực
trạng áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam và
việc áp dụng thuế chống bán phá giá của Việt Nam đối với hàng hoá nhập khẩu.


Trên cơ sở đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
áp dụng luật về chống bán phá giá đối với Việt Nam.
Phần kết luận. Phần này nêu rõ tổng kết tóm tắt các nội dung đã nêu trong luận
văn, đồng thời nêu bật những đóng góp và hạn chế của bài viết.
Ngoài các phần đã nêu ở trên, luận năn này còn có phần Danh mục tài liệu tham
khảo.


CHƢƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ BÁN PHÁ GIÁ VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ

1.1. Những khái niệm chung về bán phá giá và thuế chống bán phá giá
1.1.1. Các định nghĩa về bán phá giá
Để có thể phân tích các quy định về bán phá giá, trước tiên cần phải tìm
hiểu bán phá giá là gì. Dưới đây là một vài cách hiểu về bán phá giá.
Quan điểm thứ nhất cho rằng “bán phá giá được hiểu đơn giản là bán hàng
ra nước ngoài với giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa” (Black's Law
dictionary) [75, tr. 518]. Theo cách hiểu này, muốn xác định được hành vi bán phá
giá trước hết phải xác định được giá nội địa hay còn gọi là giá bán hàng hoá tương

tự tại nước xuất khẩu. Tuy nhiên trên thực tế, việc xác định giá hàng hoá nội địa
không phải đơn giản và đôi khi không thể thực hiện vì hàng hóa xuất khẩu không
được bán ở trong thị trường nội địa. Mặt khác, có những trường hợp việc so sánh
giá xuất khẩu và giá bán tại thị trường nội địa đưa đến những kết luận không chính
xác do bản thân giá nội địa cũng đã thấp hơn chi phí sản xuất (mặc dù cao hơn giá
xuất khẩu).
Quan điểm thứ hai coi “phá giá là bán hàng ra nước ngoài thấp hơn chi
phí sản xuất”. Hiện nay, quan niệm này ngày càng được nhiều người ủng hộ nhưng cũng gây không ít tranh cãi. Những ý kiến ủng hộ cho rằng, định nghĩa như trên
phản ánh rõ nét bản chất không lành mạnh của hành vi phá giá là những toan tính
phi kinh tế nhằm mục đích gây cho đối thủ cạnh tranh những khó khăn hoặc trở
ngại trong kinh doanh để chiếm đoạt thị trường của họ. Các cuộc tranh cãi xuất
phát từ nhận thức truyền thống về phá giá là sự so sánh (phân biệt) giá quốc tế, chi
phí sản xuất chỉ là yếu tố cấu thành chủ yếu của giá chứ chưa phải là giá bán của


hàng hoá. Mặt khác, với những truyền thống kinh doanh khác nhau thì quan niệm
về các yếu tố cấu thành chi phí cố định hay biến phí của sản phẩm ở các quốc gia
khác nhau cũng không giống nhau. Cho nên nếu xác định phá giá theo quan điểm
này sẽ rất khó khăn cho quá trình áp dụng và thực sự không công bằng khi lấy
quan niệm về cơ cấu chi phí trong tập quán kinh doanh của quốc gia này để kết
luận về hành vi bán hàng của các doanh nghiệp ở quốc gia khác có cơ cấu chi phí
khác nhau.
Quan điểm thứ ba kết hợp cả hai quan niệm đầu tiên bằng cách đưa ra cơ sở
để xác định hành vi bán phá giá là giá xuất khẩu và giá trị thông thường của hàng
hoá, sản phẩm bị nghi là phá giá. Với cách hiểu đó, quan niệm này đã phản ánh
hình thức phân biệt về giá và bản chất phi kinh tế của phá giá trong thương mại
quốc tế. Trên tinh thần đó, Hiệp định thực thi điều VI của Hiệp định chung về thuế
quan và thương mại 1994 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) định nghĩa một
sản phẩm bị coi là bán phá giá (tức là được đưa vào lưu thông thương mại của
một nước khác thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm đó) nếu như giá xuất

khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn
mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất
khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường [22, đ. 2].
Trên cơ sở pháp luật chung của WTO, Liên minh Châu Âu cũng đã ban
hành luật chống bán phá giá theo quyết định số 384/96 ngày 22.12.1995 của Hội
đồng EC, theo đó một sản phẩm được xem là bị bán phá giá nếu giá xuất khẩu vào
khối cộng đồng ít hơn so với mức giá đối với sản phẩm tương tự theo tiến trình
thương mại thông thường được thiết lập ở nước xuất khẩu [27, đ. 1].
Theo quan điểm này, kết luận về hành vi bán phá giá không phải là kết quả
của sự so sánh giữa giá xuất khẩu với giá trên thị trường nước xuất khẩu hoặc với
chi phí sản xuất của hàng hoá, mà được xác định dựa trên mối quan hệ giữa giá


của sản phẩm xuất khẩu với giá trị thông thường của nó. Ưu điểm của quan điểm
thứ ba là có sự uyển chuyển trong việc xác định giá trị thông thường với tư cách là
mức giá chuẩn để so sánh giá. Cơ quan có trách nhiệm điều tra có thể chủ động
xác định giá trị thông thường theo thứ tự ưu tiên là:
-

Giá bán tại thị trường xuất khẩu;

-

Giá lựa chọn từ nước thứ ba hoặc giá cấu thành.
Từ đó, những khó khăn từ thực tiễn của quá trình kinh doanh trong việc xác

định cơ cấu giá đã được tháo gỡ thông qua cơ chế định giá. Đồng thời những khó
khăn từ sự khập khễnh trong quan điểm và tập quán về cơ cấu chi phí của sản
phẩm cũng sẽ được giải quyết khi xác định giá trị thông thường là giá bán hàng
hoá tại thị trường xuất khẩu.

Trong khoa học pháp lý có thể phân biệt được hành vi bán phá giá với việc
hạ giá hoặc bán hàng hoá với giá rẻ là kết quả của việc giảm chi phí hay tăng năng
suất. Hành vi bán hàng hoá rẻ hơn giá hàng hoá, sản phẩm tương tự tại nước nhập
khẩu là kết quả của quá trình giảm chi phí sản xuất đã đem lại lợi ích cho sự phát
triển kinh tế và thặng dư xã hội, thúc đẩy quá trình cạnh tranh lành mạnh trên thị
trường tự do. Vì vậy, pháp luật coi là hành vi cạnh tranh lành mạnh, cần khuyến
khích. Phá giá là hành vi đi ngược lại các nguyên lý lành mạnh của thị trường tự
do vì đã xâm hại nguyên tắc công bằng trong đối xử về giá hoặc giành giật thị
trường một cách bất chính.
Nghiên cứu về hành vi bán phá giá trong quan hệ thương mại quốc tế, nếu
nhìn nhận dưới góc độ quyền lợi của người tiêu dùng trong ngắn hạn thì hành vi
bán phá giá đem lại lợi ích cho người tiêu dùng do giá bán rẻ. Sự chênh lệch giữa
giá bán của những nhà sản xuất nội địa và giá bán của hàng nhập khẩu là thặng dư
của người tiêu dùng. Đồng thời, nó phản ánh mức độ đe dọa đối với thu nhập và
quyền lợi của các nhà sản xuất nội địa. Chính vì thế, để nhìn nhận rõ bản chất của


phá giá, đôi khi khoa học pháp lý cần phải nghiên cứu từ góc độ ý nghĩa kinh tế
của bán phá giá đối với sự phát triển của thị trường của nước nhập khẩu, từ đó xác
định nhu cầu và mục đích của việc điều chỉnh pháp luật.
Dấu hiệu cơ bản để xác định bán phá giá là sự chênh lệch về giá của sản
phẩm giữa hai thị trường - thị trường nước xuất khẩu và thị trường nước nhập
khẩu.
Từ đó, kinh tế học chia phá giá thành hai trường hợp tiêu biểu để phân tích
là:

i.

Giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trường của nước xuất khẩu nhưng vẫn cao
hơn chi phí sản xuất.


ii.

Giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất và cũng thấp hơn giá thị trường
nội địa của nước xuất khẩu.

*

Trong trƣờng hợp thứ nhất, hành vi bán hàng ra nước ngoài với mức giá

thấp hơn giá bán trong thị trường nội địa mặc dù cao hơn chi phí sản xuất vẫn có
thể bị coi là hành vi phân biệt giá trong quan hệ thương mại quốc tế. Tuy nhiên xét
về bản chất khó có thể quy kết cho hành vi này cái mác bán phá giá để áp dụng các
biện pháp chống phá giá. Dưới góc độ kinh tế, hành vi bán hàng thấp hơn giá nội
địa nhưng cao hơn chi phí sản xuất là một hiện tượng thông thường khi nhà sản
xuất được hưởng lợi thế độc quyền trên thị trường nội địa do được bảo hộ bởi các
rào cản thương mại tự nhiên hoặc phi tự nhiên hoặc do thị trường trong nước có
quy mô nhỏ hơn so với thị trường xuất khẩu, nên có thể bán sản phẩm trong nước
với giá cao. Khi tham gia thị trường quốc tế, vì có cạnh tranh nên nhà sản xuất
buộc phải bán hàng với giá thấp hơn giá nội địa để có thể tồn tại.


Vấn đề đặt ra là hành vi nêu trên có là cạnh tranh không lành mạnh trong
quan hệ thương mại quốc tế hay không? Nếu có thì bản chất nguy hại của nó thể
hiện ở đâu, có nên áp dụng biện pháp chống bán phá giá trong trường hợp này hay
không, khi bản thân hành vi thể hiện có sự phân biệt giá giữa hai thị trường mà
nhà sản xuất tham gia? Có nhiều quan điểm khác nhau khi trả lời những câu hỏi
trên.
Quan điểm thứ nhất (nhìn từ quyền lợi của các nhà sản xuất trong nước)
cho rằng hiện tượng trên thực sự đã cấu thành các dấu hiệu của việc phá giá hàng

hoá và cũng đe dọa cho lợi ích của xã hội khi mà giá bán tại thị trường nhập khẩu
thấp hơn giá bán của hàng hoá tương tự sản xuất tại thị trường nội địa của nước
xuất khẩu. Bởi lẽ khi việc phá giá này xảy ra với một lượng lớn và trong một thời
gian dài sẽ làm giảm giá hàng hoá cạnh tranh với hàng nhập khẩu và từ đó ảnh
hưởng lớn đến lợi nhuận của nhà sản xuất và lương của người lao động tham gia
sản xuất sản phẩm cạnh tranh trong thị trường nhập khẩu. Vì vậy, yêu cầu nhà
nước cần can thiệp để bảo hộ quyền lợi của nhà sản xuất nội địa [6, tr. 6].
Quan điểm thứ hai (nhìn từ góc độ quyền lợi của người tiêu dùng) cho rằng
lợi ích mà hành vi phá giá này đem lại là người tiêu dùng được hưởng thụ hàng
hoá và sản phẩm với giá thấp, quyền lợi của người tiêu dùng phản ánh lợi ích
chung của xã hội. Từ đó, việc có áp dụng biện pháp trừng phạt hay không sẽ phụ
thuộc vào lợi ích của người tiêu dùng có lớn hơn lợi ích của nhà sản xuất và của
người lao động hay không [6, tr. 7].
Nếu nhìn vào bản chất lành mạnh hay không lành mạnh của hành vi này
trong tiến trình cạnh tranh trên thị trường quốc tế dường như khó tìm thấy bản chất
bất chính (hay không lành mạnh) của nó. Bởi lẽ trong môi trường mà cạnh tranh
được thừa nhận như là linh hồn của thị trường thì đương nhiên quan hệ cung cầu
với quy luật giá trị sẽ quyết định giá cả của hàng hoá và sản phẩm. Người tiêu


dùng là chủ thể có quyền được hưởng mọi lợi ích chính đáng. Với chi phí sản xuất
thấp đương nhiên việc cung cấp hàng hoá với giá tương ứng cộng thêm một khoản
lợi nhuận hợp lý là hành vi lành mạnh nhìn dưới góc độ của chính sách cạnh tranh.
Mặt khác, nếu việc định giá cao ở thị trường trong nước do có vị trí độc quyền thì
bản thân giá độc quyền ở thị trường trong nước không thể được sử dụng để so
sánh giá nhằm xác định việc phá giá của loại hàng hoá đó. Vì vậy, mọi biện pháp
chống bán phá giá được áp dụng trong trường hợp này có thể sẽ trở thành những
biện pháp bảo hộ không cần thiết cho các nhà sản xuất trong nước, không khuyến
khích họ nỗ lực giảm chi phí sản xuất đề nâng cao năng lực cạnh tranh và do đó
không thực sự đem lại lợi ích cho nền kinh tế của nước nhập khẩu. Để xử lý hành

vi phân biệt giá nói trên đòi hỏi pháp luật của nước xuất khẩu phải chống lại biện
pháp định giá cao ở nước xuất khẩu chứ không phải loại bỏ mức giá thấp ở nước
nhập khẩu. Đối với nước nhập khẩu, nếu nhu cầu bảo hộ ngành sản xuất sản phẩm
tương tự là cần thiết, nhà nước có thể áp dụng các biện pháp tự vệ thay cho biện
pháp chống bán phá giá.

*

Trƣờng hợp thứ hai: Khi giá xuất khẩu thấp hơn hoặc bằng chi phí sản

xuất thì đã đủ các căn cứ cho việc xác định hành vi bán phá giá. Trong trường hợp
này, người sản xuất đã chấp nhận lỗ hoặc hy sinh lợi nhuận vì những mục đích
khác nhau, có thể là tối ưa hoá lợi nhuận trong ngắn hạn; cũng có thể là độc chiếm
thị trường, chiếm đoạt thị phần hoặc có thể do tính toán sai các loại chi phí cố định
và biến phí. Về nguyên tắc hành vi bán hàng với giá thấp hơn chi phí sản xuất nếu
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho ngành sản xuất hàng hoá tương tự tại
nước nhập khẩu thì nhà nước sẽ xuất hiện để ngăn chặn hành vi và khắc phục hậu
quả.
Tuy vậy, trong kinh tế học, đôi khi các nhà nghiên cứu kinh tế còn chỉ ra
một số trường hợp đặc biệt mà ở đó hành vi bán hàng dưới mức chi phí cần được
chấp nhận như một biện pháp kinh doanh thông thường. Ví dụ như bán hàng thấp


hơn chi phí bình quân trong thời kỳ suy thoái kinh tế nhằm duy trì sản xuất; bán
hàng dưới mức chi phí khi gia nhập thị trường để giới thiệu sản phẩm, trong
trường hợp này lợi ích của người tiêu dùng được đặt lên hàng đầu.... Mặt khác, do
phá giá là sự so sánh giá bán của hàng hoá trên hai thị trường khác nhau nên có
một số khó khăn và vướng mắc trong quá trình so sánh giá, nhất là trong việc xác
định mức độ chênh lệch giữa giá xuất khẩu với chi phí sản xuất do bất đồng trong
quan niệm về cơ cấu chi phí ở các thị trường khác nhau. Ví dụ ở Hoa Kỳ do đầu tư

vào cơ sở hạ tầng và máy móc thiết bị quá lớn nên thông thường định phí đối với
sản phẩm là cao; trong khi đó Nhật Bản do tập quán ít sa thải lao động và chi phí
lương lao động được coi như định phí, cho nên trong cơ cấu chi phí cố định bao
gồm cả tiền lương nhân công. Vì thế, khi điều tra và nghiên cứu phá giá đối với
trường hợp bán hàng dưới chi phí đòi hỏi cần phải cân nhắc và thận trong trong
việc xác định các biến phí cho phù hợp với sự thay đổi của các quan niệm giữa các
quốc gia về vấn đề này [6, tr. 10-13].
Tóm lại, sự thay đổi trong các quan niệm về khái niệm bán phá giá phản ánh
sự nỗ lực của con người để đi tìm những biểu hiện không lành mạnh của thương mại
quốc tế, nhằm xây dựng chính sách đảm bảo cho sự tự do của thị trường chung.
Đồng thời cũng cho thấy sự phức tạp trong việc tìm kiếm các cơ sở pháp lý bình
đẳng và công bằng để áp dụng đối với các biểu hiện bất thường về giá của kinh tế
đối ngoại.
Các phân tích cho thấy khái niệm “bán phá giá” mà quan điểm thứ ba đưa
ra là hợp lý và phù hợp với thực tiễn của thương mại toàn cầu hiện nay. Bởi lẽ, với
sự thay đổi và vận động không ngừng của thị trường, việc đưa ra những căn cứ cố
định và bất biến để làm thước đo cho những toan tính đầy sáng tạo sẽ không hiệu
quả. Vì thế, sự chủ động linh hoạt trong việc xây dựng một giá trị thông thường
làm tiêu chuẩn cho sự công bằng, nhằm tìm ra dấu tích của phá giá là phù hợp.
Trên tinh thần đó, Pháp lệnh chống bán phá giá của Việt Nam quy định: “Hàng


hoá có xuất xứ từ nước hoặc vùng lãnh thổ bị coi là bán phá giá khi nhập khẩu
vào Việt Nam nếu hàng hoá đó được bán với giá thấp hơn giá trị thông thường
của nó” [58, đ. 2].
1.1.2. Cơ sở xác định bán phá giá
Dấu hiệu cơ bản nhất của bán phá giá là hiện tượng phân biệt giá quốc tế, vì
thế phương cách duy nhất để tìm kiếm hiện tượng bán phá giá là tiến hành so sánh
giá của hàng hoá bị nghi ngờ. Yếu tố được sử dụng để so sánh là giá trị thông
thường của hàng hoá tại nước xuất khẩu và giá nhập khẩu của nó vào thị trường

nước nhập khẩu. Khi đưa ra các yếu tố để xác định hiện tượng bán phá giá hàng
hoá trong quan hệ thương mại quốc tế, cũng còn nhiều quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng cơ sở để xác định là sự so sánh giữa hai giá
bán của hàng hoá tại hai khu vực thị trường xuất và nhập khẩu. Nhóm quan điểm
này dựa trên lý thuyết về phân biệt giá trong thương mại quốc tế (lý thuyết phân
biệt giá khẳng định chỉ có phá giá khi có sự phân biệt đối xử về giá giữa hai thị
trường và bản chất không lành mạnh của phá giá mới chính là sự phân biệt giá).
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy có những trường hợp không thể xác định chính xác
giá bán tại thị trường nước xuất khẩu do không có giá bán hoặc do giá bán không
được tạo lập một cách bình thường..., khi đó giá bán tại thị trường nội địa của
nước xuất khẩu - cơ sở để xác định phá giá không thể sử dụng. Những trở ngại
trong việc tìm kiếm một giá bán trung thực và hợp lý ở thị trường nước xuất khẩu
đã làm cho quan điểm này thực sự không thuyết phục.
Quan điểm thứ hai xác định cơ sở của phá giá là giá xuất khẩu và chi phí
sản xuất hàng hoá đó tại nước xuất khẩu. Theo đó, hàng hoá được coi là bán phá
giá khi giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất [27, tr. 346]. Cách tiếp cận này đã
cho thấy rất rõ bản chất phi kinh tế của bán phá giá là chấp nhận lỗ hoặc chấp


nhận không có lợi nhuận vì những mục đích không lành mạnh trong thương mại
quốc tế. Quan điểm này đã được một số nhà kinh tế học đánh giá là một bước
chuyển biến trong nhận thức về phá giá chuyển từ tìm kiếm bản chất phá giá qua
phân biệt đối xử qua giá sang việc xác định bản chất phi kinh tế của hành vi. Tuy
nhiên, nếu chỉ theo đuổi bản chất kinh tế của hành vi phá giá thì trong nhiều
trường hợp chi phí sản xuất hàng hoá cũng chưa thực sự là trung thực khi mà bản
thân các yếu tố cấu thành chi phí của nó là không bình thường. Mặt khác, sự khác
nhau trong quan niệm về các yếu tố cấu thành chi phí trong tập quán kinh doanh
giữa các khu vực thị trường khác nhau cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự chính xác
trong việc xác định phá giá như kết cấu về định phí và biến phí trong sản xuất
hàng hoá. Bên cạnh đó, giá cả của hàng hoá không chỉ phán ánh ở chi phí mà còn

bao gồm cả phần lợi nhuận hợp lý mà nhà sản xuất được hưởng. Do đó, chỉ dựa
vào yếu tố chi phí để so sánh với giá xuất khẩu là không công bằng đối với nhà
sản xuất hàng hoá bị điều tra và trong thực tế không đem lại kết quả chính xác
trong xác định phá giá quốc tế.
Vì vậy, quan điểm kết hợp cả hai nguyên tắc nêu trên trong xác định phá giá
quốc tế đã được nhìn nhận và thể hiện rõ nét trong các Hiệp định về phá giá của các
tổ chức kinh tế quốc tế như EU, WTO và pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới.
Theo đó, phá giá được thừa nhận là sự phân biệt giá và là kết quả của việc so sánh
giá, khi mà giá xuất khẩu đã thấp hơn một giá trị chuẩn hay còn gọi là giá trị thông
thường.
1.1.2.1. Giá trị thông thường
Mặc dù gọi tên khác nhau, nhưng nói chung pháp luật về phá giá của các tổ
chức kinh tế quốc tế và pháp luật của quốc gia đều thừa nhận về cơ bản giá trị
thông thường được xác định dựa trên giá bán của hàng hoá bị điều tra ở nước xuất
khẩu hoặc nước xuất xứ. Tuy nhiên, giá của hàng hoá ở nước xuất khẩu chỉ được


sử dụng làm giá trị thông thường trong tiến trình điều tra phá giá khi thoả mãn hai
nguyên tắc cơ bản là: nguyên tắc đại diện và nguyên tắc trung thực trong thương
mại.
Nguyên tắc đại diện đòi hỏi giá được sử dụng phải là giá bán của sản phẩm
tương tự với sản phẩm bị điều tra và số lượng sản phẩm tương tự được bán trên thị
trường nước xuất khẩu phải đáng kể. Có như vậy thì mức giá sử dụng mới đủ tư
cách đại diện cho giá cả của thị trường nước xuất khẩu.
Việc xác định sự tương tự (tính đại diện) của hàng hoá sử dụng trong chống
phá giá là hết sức cần thiết để xác định bán phá giá hàng nhập khẩu. Bởi lẽ, không
phải mọi trường hợp các sản phẩm cạnh tranh có xuất xứ từ những thị trường khác
nhau đều giống hệt nhau, vì sự đa dạng trong quan hệ thương mại hàng hoá ngày
càng phát triển thì sự cạnh tranh luôn xảy ra giữa những khu vực hàng hoá mà ở đó
chúng chỉ cần có đặc tính hay tính năng sử dụng gần giống nhau. Bên cạnh đó, với

những thị trường khác nhau thì đặc điểm thị hiếu của người tiêu dùng cũng khác
nhau. Vì vậy, trong thương mại quốc tế không thể đòi hỏi có sự đồng nhất mọi đặc
tính của hàng hoá để xác định phạm vi cạnh tranh giữa chúng, mà cần phải mở rộng
phạm vi sản phẩm bằng sự tương tự của hàng hoá. Với tư duy đó, khái niệm sản
phẩm tương tự được hiểu là sản phẩm giống hệt hoặc có tính năng sử dụng gần giống
với sản phẩm là đối tượng bị điều tra có ý nghĩa thực tiễn trong việc xác định phá
giá [6, tr. 13].
Ngoài việc xác định yếu tố tương tự đối với hàng hoá được tiêu dùng trong
thị trường nội địa, nguyên tắc đại diện còn đòi hỏi phải xác định mức độ đại diện
thông qua doanh số bán của sản phẩm tương tự. Theo luật phá giá của WTO,
doanh số bán hàng trong nước phải tương đương ít nhất là 5% doanh số bán của
hàng hoá đang được xem xét bán cho người mua độc lập ở tại thị trường nhập
khẩu [21, đ. 2.2].


Nguyên tắc trung thực của thị trường nước xuất khẩu: một trong những yêu
cầu cơ bản của việc xác định giá trị thông thường là giá cả của sản phẩm tương tự
tại nước xuất khẩu phải là kết quả của sự vận động của các nguyên lý thị trường.
Do đó nguyên tắc trung thực chỉ thừa nhận giá cả của sản phẩm tương tự đang lưu
hành ở thị trường xuất khẩu là giá trị chuẩn khi nó được hình thành trong tiến trình
thương mại thông thường. Theo đó, những tình huống giá sau đây được coi là giá
bán không nằm trong tiến trình thông thường:

(i)

Giá cả của sản phẩm tương tự tại nước xuất khẩu thấp hơn giá thành sản
xuất (thấp hơn chi phí sản xuất) [6, tr. 13].
Giá cả hàng hoá trên thị trường luôn chịu sự chi phối của quy luật giá trị và

quan hệ cung cầu. Khi giá hàng hoá tại nước xuất khẩu thấp hơn chí phí sản xuất

có nghĩa là bản thân nó đã không phản ánh một cách trung thực quan hệ cung cầu
trên thị trường của hàng hoá. Vì thế, giá sản phẩm thấp hơn chí phí sẽ không được
sử dụng làm giá trị thông thường. Vấn đề trong thực tiễn đặt ra là trong quá trình
mua bán sản phẩm tương tự ở nước xuất khẩu không phải toàn bộ lượng sản phẩm
được lưu hành đều được bán dưới mức chí phí mà có thể chỉ có một số lượng nhất
định nào đó, ở một vài khu vực thị trường nhất định hoặc trong những giao dịch
nhất định, hàng hoá đã được bán dưới chi phí, phần còn lại giá cả của sản phẩm
vẫn đảm bảo trong tiến trình thông thường. Cách giải quyết của WTO và một số
nước như Hoa Kỳ là loại bỏ phần doanh số bán hàng với giá không đủ bù đắp chi
phí sản xuất ra khỏi việc tính toán giá trị chuẩn khi doanh số này là đáng kể trong
một khoảng thời gian nhất định. Số lượng đáng kể được tính toán với mức độ đủ
để bảo đảm việc bán hàng dưới chi phí thực sự xảy ra chứ không phải là hiện
tượng thông thường trong các biện pháp kinh doanh lành mạnh như khuyến mại
hoặc hạ giá trong những tình huống đặc biệt (bán hàng tồn, hàng phá sản ...).


×